Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

NGỢI KHEN & CẢM TẠ

Thánh Thi 25-30
Việc gia tăng mối quan hệ với Đức Chúa Trời bao gồm cả việc tăng trưởng trong sự hiểu biết về những gì mà Chúa sẽ làm thành trong đời sống của chúng ta một khi ta tin cậy nơi Ngài. Chúa sẽ dẫn dắt ta trên đường lối của Ngài (TT 25), bênh vực ta khi ta bị chèn ép, khi ta bị đối xử cách bất công (TT 26) và bảo vệ chúng ta khi ta trong cơn nguy hiểm (TT 27-28).
Phản ứng của Đa-vít – và cũng chính là phản ứng mà Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy nơi mỗi một tín hữu thật – là tuôn đổ lòng mình ra trong sự ngợi khen (TT 29) và cảm tạ (TT 30).
Ngợi khen và cảm tạ là hai thuật ngữ giống nhau hay khác nhau? Thánh Thi 29 và 30 cung cấp cho chúng ta một minh họa hữu ích về sự khác biệt.
Thánh Thi 29 là một bài tụng ca, tập chú vào sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, là sự vinh hiển được bày tỏ qua cơn bão tố sấm động rền vang đất trời. Còn Thánh Thi 30 là lời cảm tạ, tập trung nơi kinh nghiệm của Đa-vít về sự giải cứu thiên thượng, cùng lòng biết ơn của ông đối với Đức Chúa Trời.
Thánh Thi 29 minh họa cho sự ngợi khen với Đức Chúa Trời là trung tâm, tập chú nơi vinh quang được bày tỏ của Chúa qua những thuộc tính và công việc đầy quyền uy của Ngài. Còn Thánh Thi 30 minh họa cho sự cảm tạ với việc tập trung nơi con người nhiều hơn, và nhấn mạnh đến thái độ của Đa-vít đối với việc can dự của Đức Chúa Trời trong đời sống của ông.
Việc hiểu được sự khác biệt giữa hai phạm trù này có thể mở ra một chiều kích mới trong đời sống cầu nguyện của chúng ta!
Rất dễ dàng để phát triển thói quen cầu nguyện lấy mình là trung tâm, hay huỵch toẹt là lối cầu nguyện ích kỷ theo mô hình … 3 ngôi: Tôi – của tôi và … cho tôi. Trong đó nan đề CỦA TÔI luôn được nhấn mạnh hết công suất. (Đúng dzậy không hỡ bà con cô bác?)
Dù rằng cầu xin là một phần quan trọng của sự cầu nguyện (Mathiơ 7: 7-8) nhưng nó không phải là phần duy nhất đâu nha.
Khi bạn dành thời giờ cầu nguyện hôm nay, hãy bắt đầu với việc tôn vinh Danh Chúa và những thuộc tính của Ngài thay vì … ‘con đường xưa em đi’ là đề cao nan đề, nhu cầu của chính mình. Nếu khuôn mẫu cầu nguyện của bạn là đề cập đến sự vĩ đại của Chúa trước khi đề cập đến những việc riêng của mình, thì giống như tác giả Thánh thi, bạn sẽ kinh nghiệm được cả hai, vừa ngợi khen vừa cảm tạ Đức Chúa Trời.
Giờ thì chúng ta cùng quay trở lại với Thánh Thi 27: 13 và ghi khắc lời công bố đầy xác quyết của Đa-vít trong giờ thử thách.
Ôi! Nếu tôi không tin chắc rằng sẽ thấy ơn của Đức Giê-hô-va tại đất kẻ sống, thì tôi hẳn đã ngã lòng rồi! … 
Bạn có tin chắc rằng Chúa sẽ đáp lời bạn, làm ơn cho bạn ngay trong đời này không?


Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

CHÚNG TÔI TIN CẬY NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI

Thánh Thi 19-24
Sự liên quan hay dính dáng của Đức Chúa Trời trong đời sống của dân sự Ngài là đề tài bao quát cho 6 chương Thánh Thi mà ta đọc hôm nay.
Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài trong cõi trời và trong cõi … Lời (TT 19); Chúa ban năng lực và chiến thắng cho những ai đang chiến đấu vì cớ Danh Ngài (TT 20-21); Chúa sai Đấng Mê-sia (Cứu Thế) của Ngài đến để chịu khổ nạn trên thập giá (TT 22), để chăn dắt dân Ngài (TT 23) và để thiết lập quyền cai trị của Ngài trên khắp đất (TT 24). Quả thật, Đức Chúa Trời xứng đáng được tin cậy!
Hỏi: Điểm giống nhau giữa … sổ hưu (của đại tá Thanh), bằng tốt nghiệp đại học và … tàu ngầm hạt nhân (hoặc tàu ngầm lớp kilo mới mua của Nga-xô) … là gì?
Trả lời: Tất cả chúng đều được thiết kế để cho người ta cảm giác được an toàn. Tương lai được bảo đảm, công ăn việc làm được bảo đảm và chủ quyền quốc gia được bảo đảm. Thế nhưng, chúng có bảo đảm không?
Bảo vệ, bảo đảm hay bảo đảm an ninh hoặc gọn một từ thành “bảo an” đã trở thành những món hàng được ưa thích, được săn đón trong một thế giới ngày càng biến động như hiện nay.
Gần 3,000 năm trước, khí tài chủ yếu của một đội quân chỉ là ngựa và … xe ngựa, tương tự như ngày nay là vũ khí … ‘hột nhưn’, là tên lửa, là máy bay, là tàu ngầm, tàu sân bay và kể cả … dàn khoan nước sâu kiểu HD-981!
Ngày xưa, nước nào mà mạnh về kỵ binh và chiến xa … ngựa là coi như bất khả chiến bại. Thế nhưng, đối với Y-sơ-ra-ên thì không như thế. Luật pháp Chúa nghiêm cấm vua tậu nhiều ngựa (Phục Truyền 17: 16).
Thay vì đặt lòng tin cậy của mình nơi sức mạnh chiến lược của thời bấy giờ là sức ngựa và sức người (cỡi ngựa) thì Y-sơ-ra-ên đã dựa nương nơi nguồn sức thiêng thượng vĩnh hằng là chính Chúa. Bởi cớ, Chúa đã hứa là sẽ đánh trận vì cớ dân Ngài. Đó là lý do mà lời xưng nhận của Đa-vít về việc tin cậy nơi sự giải cứu của Đức Chúa Trời là hoàn toàn xác đáng.
“Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa,
Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng tôi” (20: 7)
Đây chính là câu trả lời cho vấn đề an ninh quốc gia, cả trong thời của Đa-vít, đối với nước Y-sơ-ra-ên, và cả trong thời hiện nay, đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung, và Việt Nam chúng ta nói riêng.
Giờ ta hãy cùng thực hành một bài tập nho nhỏ thế này nhé. Lấy một tờ giấy rồi dùng bút chì viết ra 5 điều mà người đời cho rằng sẽ đem lại sự an ninh cho chúng ta. Sau đó, dùng bút mực chép lại Thánh Thi 20: 7 đè lên trên rằng, “Chúng tôi tin cậy nơi Danh của Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chúng tôi”. Hãy để ‘tác phẩm’ thủ công của mình nơi nào mà bạn có thể dễ dàng nhìn thấy mỗi ngày.
Bạn biết không, trên tờ giấy bạc đô-la của Mỹ có in dòng chữ: “In God We Trust” (Chúng Tôi Tin Cậy Nơi Đức Chúa Trời). Thế còn nơi lòng của bạn thì có dòng chữ nào thể hiện niềm tin của bạn được ghi khắc trên đó không? 


Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

CHẲNG DẠI

Thánh Thi 13-18
Giống như trong thời Đa-vít, đức tin của người tin Chúa hôm nay cũng luôn đối diện với những thách thức. Thách thức từ chính tấm lòng lo sợ của mình (TT 13) và từ những con người phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời cách dại dột (TT 14).
Đâu là giải pháp cho vấn nạn này?
Bước đi trong mối thông công với Đức Chúa Trời (TT 15), nương cậy nơi những lời hứa của Chúa (TT 16) và kết nối với nguồn sức lực không hề cạn tắt của Ngài (TT 17-18).
Khi đọc Thánh Thi hay Thi Thiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng sách này thuộc thể loại thơ ca. Mà ngôn ngữ của thơ ca không giống như văn kể chuyện. Từ ngữ, hình ảnh, … mà nhà thơ sử dụng thấy dzậy mà chưa chắc phải dzậy đâu nha. Ta không thể hiểu tất tần tật theo nghĩa đen … thùi lùi đâu nhé.
Thế cho nên, đọc thơ nói chung và sách Thánh thi này nói riêng thì không có gì khó khăn cả. Nhưng để hiểu đúng, hiểu … đủ, để thấm được, để cảm được … thơ thì không hề … đang giỡn được. He he.
Chẳng hạn, trong 13: 3 Đa-vít ngâm ri nè: Xin cho mắt con được sáng, kẻo con phải ngủ trong sự chết chăng! Thoạt nghe, cứ như anh í đang bị … đục thủy tinh thể hay là một biến chứng về mắt rất chi là nghiêm trọng, mà nếu Chúa không ra tay ngay là ảnh … ‘đai’ liền chớ chẳng chơi.
Thế nhưng ở đây không có bịnh tật gì ráo trọi. Đa-vít bị kẻ thù … ‘đì’ tới bến. Anh í kêu Chúa tha thiết luôn, nhưng chẳng thấy Chúa động tịnh chi cả. Đang chờ mà, cảm thấy lâu, thấy chậm là chuyện thường. Khi nhận thấy việc gào thảm thiết rằng, “răng Chúa quên con và tránh mặt con cho đến chừng nào” coi bộ không ép-phê, Đa-vít bèn chuyển tông sang “xin Chúa tỏ cho con biết điều Chúa muốn dạy con qua chuyện này”. Rứa thôi.
‘Mắt’ ở đây là ‘con mắt lòng’, như Phao-lô về sau có nói trong Ê-phê-sô 1: 18, chớ không phải mắt thịt hoặc bị biến chửng tiểu đường hay bị giằm xóc vào đâu nha.
Thế thì 13: 3 nên được hiểu thế này: Chúa ơi đừng để con phải chết mà không hiểu được … vì sao con chết nha Chúa. Và đây cũng là một cách nói khác để giục Chúa trả lời, rứa thôi. He he.
Một điểm khác cần lưu ý trong xì-tai cầu nguyện của Đa-vít là luôn có những lời công bố đầy tin quyết về kết cuộc tốt đẹp của mình. Dù trước đó, ngôn từ của ông có thể nãn, có thể buồn … chảy nước luôn, nhưng kiểu gì thì cuối cùng Đa-vít vẫn thốt ra được những lời rất tích cực. Ấy chẳng phải là Đa-vít tự an ủi hay tự động viên mình theo kiểu ‘hết cơn bĩ cực, tới hồi thới lai’ hay ‘ngày mai trời lại sáng’, mà là kết quả của thời giờ riêng tư, đổ lòng mình ra trong sự hiện của Chúa.
Nếu chúng ta đến với Chúa, mang cả những gánh nặng, nan đề, buồn vui của mình trải ra trước mặt Ngài và rồi tập chú nơi chính Chúa, nơi những thuộc tính của Ngài thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ kết thúc lời cầu nguyện của mình với sự tin quyết tương tự như thế.
Một điểm khác nữa, cần ghi nhớ là cách Đa-vít luôn cầu Chúa xử thẳng tay đối với kẻ thù. Đa-vít sống dưới thời Luật Pháp Môi-se, là thời kỳ “mắt đền mắt, răng đền răng” nên lời cầu nguyện như thế là không có gì … trái luật! Còn chúng ta ngày nay thì được dạy là “Hãy thương yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con để các con được trở nên con của Cha các con ở trên trời, vì Ngài khiến mặt trời mọc lên chiếu sáng kẻ gian ác lẫn người lương thiện, ban mưa cho người công chính lẫn người bất chính.” (Mathiơ 5: 44-45). Thế cho nên, Chúa đòi hỏi tín hữu thời nay cao hơn rất nhiều so với thời xưa chớ không phải thấp hơn như nhiều người từng hiểu sai đâu nha.
Thánh Thi 14 điểm mặt những người NGU chính hiệu. Đây không phải là mấy anh đoảng cỡ Mit-tơ Bin hay hậu đậu như Nô-bi-ta hoặc ở xứ ta thì có … ‘vợ thằng Đậu’. Ngu được thiên đàng cấp chứng chỉ ở đây không phải là những người ít học, hay … ‘thiếu muối i-ốt’ mà là những người phủ nhấn sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, tại sao ‘chúng’ từ chối tin nhận Chúa? – Đơn giản là kiêu. Đơn giản là không muốn thừa nhận tội lỗi của mình trước một Đức Chúa Trời thánh khiết.
Nếu ‘chúng’ thừa nhận rằng, Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, là Cha của muôn loài, trong đó có ‘chúng’ thì sẽ ‘lòi’ ra cái tội … bất hiếu của ‘chúng’ ngay. Thế là, cố sống cố chết mà chối bay chối biến rằng thì là … nỏ có Chúa. Thế nhưng, dù có thừa nhận hay không thừa nhận thì Đức Chúa Trời vẫn hiện hữu, và chính Ngài sẽ xét xử mọi người trên đất tùy theo những việc mà họ đã làm “khi còn trong xác thịt”. Ngày đó chắc chắn đến.
Ác nỗi có ai ngu mà biết được mình ngu đâu, nên cần lắm thay một lời cầu thay của con dân Đức Chúa Trời cho những kẻ tưởng mình khôn nhưng thực sự là quá ngu. Ngu vì không nhận biết Đức Chúa Trời và không thờ phượng Con Ngài là Đức Chúa Giê-xu.
Cuối cùng, hãy đọc lại một lần nữa 5 câu Kinh Thánh trong chương 15 và đặt mình vào đấy để tự đánh giá xem: mình đã đạt chuẩn để ở trong sự hiện diện của Chúa (được nói cách đầy hình tượng ở đây là đền tạm, là núi thánh) chưa?


Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015

NÀO CÙNG NGỢI KHEN CHÚA

Thánh Thi 7-12
Kẻ thù của dân sự Chúa cũng là kẻ thù của chính Chúa. Trong 6 chương Kinh Thánh hôm nay chúng ta đọc thấy gánh nặng của Đa-vít trong việc đáp trả lại những kẻ thù của mình.
Đối diện với hiểm họa từ những kẻ chống đối, Đa-vít tìm kiếm công lý của Đức Chúa Trời (TT 7), sự bảo vệ (TT 9-10) và sự giải cứu (TT 11-12).
Thêm vào đó, qua chương 8, chúng ta cũng sẽ được biết rằng, Đức Chúa Trời – Đấng tạo nên con người để cai quản cõi tạo vật của Ngài, cũng chính là Đấng sẽ khuất phục kẻ thù của Ngài và buộc chúng phải câm miệng.
Có một bài học rất quan trọng về sự ngợi khen được nói đến trong Thánh Thi 8:3 của ngày hôm nay. Ri nè: sự ngợi khen là vũ khí thuộc linh.
Đa-vít nói cùng Đức Chúa Trời: “Từ môi miệng trẻ thơ và trẻ con đương bú, mà lập nên năng lực Ngài. Vì cớ kẻ thù mình, Ngài làm cho kẻ thù nghịch và người báo thù phải im lặng”.
Thế nhưng, trong Tân Ước, ở Phúc Âm Mathiơ 21: 15-16, Chúa Giê-xu đã trích dẫn địa chỉ Kinh Cựu Ước này trong ý nghĩa mới: “các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo thấy sự lạ Ngài đã làm, và nghe con trẻ reo lên trong đền thờ rằng: Hô-sa-na con vua Đa-vít! Thì họ tức giận, và nói với Ngài rằng: Thầy có nghe điều những đứa trẻ nầy nói không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Có. Vậy chớ các ngươi chưa hề đọc lời nầy: Chúa đã được ngợi khen bởi miệng con trẻ và con đương bú, hay sao?”.
Như vậy, chỗ mà tác giả Thánh Thi nói: “Ngài lập nên năng lực” thì Chúa Giê-xu đọc thành “Ngài lập nên sự ca ngợi”.
Điều đó cho chúng ta thấy rằng, quyền năng của con dân Đức Chúa Trời ở trong sự ngợi khen trọn vẹn. Không quan trọng là chúng ta yếu cỡ nào thì vũ khí thuộc linh ấy vẫn là không gì phá vỡ nỗi.
Tác giả Thánh Thi chọn hai đối tượng yếu ớt nhất: trẻ thơ và trẻ con còn bú mẹ. Thậm chí chúng cũng trở thành vũ khí của quyền năng Đức Chúa Trời một khi chúng ngợi khen Ngài và bởi chính điều đó mà kẻ thù bị buộc phải im tiếng.
Đừng bao giờ quên rằng, có những kẻ thù của Đức Chúa Trời và đặc biệt là có một kẻ được gọi là “kẻ thù nghịch và là kẻ báo thù” – đó chính là Sa-tan.
Chúa buộc Sa-tan và những kẻ thù khác im lặng khi nào? Khi chúng ta ngợi khen Ngài.
Tại sao chúng ta cần ma quỷ phải im tiếng? Bởi vì nó kiện cáo chúng ta cả ngày lẫn đêm.
Có thể, bạn sẽ hỏi Chúa: “Tại sao chính Chúa không bịt mồm ma quỷ lại?” thì Ngài sẽ trả lời: “Bởi vì ta đã ban cho con vũ khí để con có thể làm việc đó rồi”.
Nhớ nha, chúng ta có thể buộc cho ma quỷ phải câm miệng đấy. Quá đã, đúng không? 


Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

NGUYỆN CẦU BÊN CHA

Thánh Thi 1-6
Được chấp bút bởi ít nhất là 7 thi sĩ, mà Đa-vít là người viết nhiều hơn hết, sách Thi Thiên hay Thánh Thi trải dài suốt 1000 năm lịch sử phong phú của Israen – từ thời Môi-se cho đến tận lúc hồi hương sau 70 năm lưu đày tại Babilon.
Được sử dụng như một quyển thánh ca trong Đền Thờ, các Thánh Thi bày tỏ đủ mọi cung bậc cảm xúc con người, đối với Trời cũng như đối với Đời, lúc thuận thời hay khi nghịch cảnh.
Trấn giữ nơi lối vào của sách Thánh Thi là 2 tuyên bố chủ đạo liên quan đến mặc khải của Đức Chúa Trời về chính Ngài: Có thể nhận biết Chúa qua Lời của Ngài, là Lời đem lại phước hạnh (TT 1), và có thể nhận biết Chúa qua thân vị của Con Ngài, Đấng cai trị trên toàn cõi tạo vật (TT 2).
Tiếp theo, các Thánh Thi còn lại trong phần Kinh Thánh hôm nay đều tập trung vào sự bảo vệ của Đức Chúa Trời đối với tôi tớ Ngài nói riêng, cũng như đối với tất cả những ai đặt lòng tin cậy nơi Ngài nói chung. Họ được Chúa bảo vệ khỏi kẻ thù (TT 3), khỏi sự thất bại (TT 4), khỏi thất vọng (TT 5), khỏi đau đớn (TT 6). Nói cách khác, không một thế lực nào, một hoàn cảnh nào hay điều chi có thể chiếm hay thay đổi quyền kiểm soát của Chúa trên đời sống của con dân Ngài.
Thánh Thi thứ nhất chứa trong nó bí quyết của một đời sống phước hạnh. Chân lý này đã từng được tỏ bày trong Giô-suê 1: 8 Quyển sách luật pháp nầy chớ xa miệng con, hãy suy ngẫm ngày và đêm, để cẩn thận làm theo mọi điều đã chép trong đó. Vì như thế, con mới được thịnh vượng trong con đường mình và mới thành công. Tuy nhiên, ở đây nó được giải thích chi tiết hơn qua việc sử dụng 2 hình ảnh tương phản: người lành, kẻ ác. “Kẻ ác – tội nhân – kẻ nhạo báng” tuy ba nhưng chỉ là một mà thôi. Đó là những nicknames mà Kinh Thánh dùng để gọi những người không tin thờ Chúa, tức dân ngoại đấy nha.
Theo đó, một người muốn được phước đúng nghĩa thì trước hết là phải “không đi, không đứng, không ngồi”, tức không hành xử theo xì-tai (style) của người đời. Nôm na là không sống theo kiểu của Đời. Nhưng chỉ chừng đó thôi thì chưa có phước mô. (Không ít những vị chân tu của các tôn giáo khác cũng có đời sống rất đạo hạnh đấy thôi). Muốn hưởng phước thật thì ngoài việc từ khước xì-tai của Đời, người ấy cần phải thuận theo xì-tai của Trời nữa kia.
Mà làm sao biết được xì-tai của Trời? – Mở Kinh Thánh ra. Có đủ trong ấy đấy.
Để có thể thuận theo xì-tai của Trời thì phải nghiền ngẫm Lời Chúa mới được. Mà để nghiền ngẫm hay suy gẫm hoặc nói cách đầy hình ảnh là tơ tưởng được Lời Chúa thì phải thích thú, phải ham muốn Lời Chúa. Mà để vui thích, ham mến Lời Chúa thì cần phải loại bỏ khỏi đời sống mình xì-tai của Đời hay nói như sứ đồ Phê-rơ là mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành  (1 Phê-rơ 2: 1)
Nếu tuân thủ đúng quy trình như thế thì kết quả sẽ là: Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước, Sinh bông trái đúng mùa đúng tiết, Lá nó cũng chẳng tàn héo. Mọi việc người làm đều sẽ thịnh vượng (1: 3).
Trong chương 2 có đề cập đến chuyện Đức Chúa Trời cười. Không phải cười vui mà là cười nhạo mấy tay lãnh đạo thế gian đang hiệp nhau chống Chúa.
Cười được gọi là một cảm giác rất chi là sảng khoái đối với tất cả mọi người trong chúng ta, ngoại trừ trường hợp ta bị người ta cười chê. Loại cười này thường mang lại đau hơn là … sướng; nhức hơn là … phê. Trước cảnh một liên minh quốc tế bao gồm lãnh đạo nhiều nước đang phùng mang, trợn má, hùng hổ giơ nắm đấm lên trước mặt Chúa; to mồm đòi lật đổ quyền tể trị của Chúa theo kiểu “không có chúa chiếc gì ráo trọi. Tao là Chúa nè” thì Đức Chúa Trời phản ứng làm răng? – Chúa cười ha hả, cười rúng động trời đất luôn.
Không cười sao được khi những con người bằng xương bằng thịt lại hùng hổ hiệp nhau đi phủ nhận quyền chủ tể của Đấng tạo nên mình. Điều này cũng tương tự như một người cứ khăng khăng rằng mình tự nhiên từ dưới lỗ nẻ chui ra chớ chẳng do cha do mẹ nào sinh ra cả. Đúng là dại dột và bất hiếu thôi rồi. Trong cái nhìn của Chúa thì một người không hạ mình nhận biết sự vĩ đại của Ngài, tức là không thờ phượng Ngài thì không còn cái dại nào hơn.
Hãy nhìn vào trong lịch sử nhân loại để kiểm chứng xem có cá nhân nào, gia đình nào, dòng họ nào, tập thể nào, dân tộc nào, thể chế nào chống lại Chúa hay phủ nhận sự hiện diện và quyền tể trị của Đức Chúa Trời mà có kết cuộc tươi sáng không? Rồi hãy xét xem có cá nhân nào, gia đình nào, dòng họ nào, tập thể nào, dân tộc nào, thể chế nào yêu kính Chúa và đầu phục quyền tể trị của Đức Chúa Trời mà có kết cuộc đen tối không? Không phải ngẫu nhiên mà trong 7 nước công nghiệp hàng đầu (Group of Seven) – Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Canada, Ý và Nhật – hay còn gọi nôm na là 7 nước giàu nhất thế giới, thì có đến 6 nước thuộc Đạo Chúa rồi.
“Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, tức là thuận với Chúa thì còn mà nghịch lại với Chúa thì … tiêu. Người xưa đã phát biểu rứa đo. Tiếc thay, bao nhiêu người ngày nay vẫn cứ hoặc công khai hoặc âm thầm từ chối quyền chủ tể của Đức Chúa Trời trên đời sống của mình. Dù họ là vua, là quan trên ngôi chín bệ hay là dân đen cùng khổ thì Chúa cũng đang cười vào sự ngu dại của họ. Và án phạt đã sẵn dành cho họ rồi. Đó là sẽ bị Chúa quở trách, cùng hứng chịu cơn thịnh nộ của Ngài và sẽ bị hủy diệt cách … nát bét như một chiếc bình gốm vỡ (2: 5, 9, 12).
Điều cuối cùng trong phần bình lựng của ngày hôm nay là các Thánh Thi không chỉ dùng để … hát, mà còn được sử dụng để … khóc. Thật đấy. Khóc có bài bản nha. Khóc với Chúa chớ không phải với con người đâu. Nếu anh chị em thuộc típ Cơ-đốc nhân “chưa biết nói gì với Chúa khi cầu nguyện” thì phần lớn các Thánh Thi sẽ là những bài … “cầu nguyện mẫu” tuyệt vời đấy.
Khi đọc Thánh Thi hãy lưu ý đến những câu nói về Chúa là ai, Ngài là Đấng như thế nào và đâu là những việc mà Chúa làm. Chẳng hạn: Ngài là cái khiên chở che con; Ngài là vinh quang của con và là Đấng làm cho con ngẩng đầu lên. (3: 3); tôi sẽ nằm và ngủ bình an; Vì chỉ một mình Ngài làm cho tôi được ở yên ổn (4: 8); Ngài sẽ ban phước cho người công chính (5: 12); …
Nếu chịu khó ghi chép lại những điều này vào một cuốn sổ và thường xuyên sử dụng mỗi khi cầu nguyện thì chẳng mấy chốc vốn từ cầu nguyện của bạn sẽ hơi bị dư dật đấy.
Chần chờ gì nữa, mần ngay đi thôi!


Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

HƠN HẲN NGÀY XƯA

Gióp 40-42 
Dù Gióp đã sẵn lòng nhìn nhận quyền năng và sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời, nhưng trong ông vẫn còn không ít ‘lăn tăn’ về sự phán xét của Ngài (40: 8 BDM). Cũng dễ hiểu thôi vì anh í bị đau quá xá cỡ mờ.
Chúa ‘đọc’ thấy điều đó, nên một lần nữa, Ngài thách thức Gióp ngồi vào chỗ của Chúa để ‘thế thiên hành … công lý’.
Nôm na ri nè: “Ô-kơ Gióp, ngươi cho rằng Ta bất công trong việc xét xử chớ gì. Thế thì, ngươi có đủ sức mạnh và sự thạnh nộ thánh khiết cần thiết để xét xử tội nhân không?
Nếu có thì hãy bắt đầu đi. Mặc áo chánh án vào. Thẳng tay nghiêm trị lũ kiêu ngạo, quân ác nhân xem nào. Hãy chứng tỏ ngươi tốt hơn Ta trong việc đem công bình đến cho thế gian đi.
Sao, rộng quá à? Ok, nếu xử lý toàn bộ vũ trụ thì quá rộng, quá nhiều và có lẽ đòi hỏi nhiều … thời lượng của ngươi. Thôi dzầy đi, ngươi chỉ cần trổ tài với hai tạo vật của ta là đủ rồi. Một là con Bê-hê-mốt (40: 15-24) và hai là Lê-vi-a-than (41: 1-34).
Nếu ngươi bắt được cặp quái thú này và thuần phục được chúng thì ngươi chắc chắn là đủ chuẩn … khôn, cũng như đủ chuẩn mạnh để ngồi vào ghế chánh án để xét xử toàn thế gian đấy!”
Chúng ta không biết hai quái thú Bê-hê-mốt và Lê-vi-a-than thật sự là con gì, nhưng Gióp thì chắc chắn biết. (Rõ ràng, đây không phải là cá sấu, là hà mã hay trâu nước như một số bản dịch Kinh Thánh cố gắng chuyển ngữ đâu). Vì biết, cho nên vừa khi nghe đến tên tụi nó là Gióp đã … ‘rụng rời rơi ống ngoáy’ rồi, nói chi đến chuyện bắt với chả xử. Thế cho nên, rất nhanh chóng anh í đã buông súng đầu hàng vô điều kiện.
“Thật, con đã nói những điều con không hiểu, những việc quá diệu kỳ mà con không hề biết. … Trước đây tai con có nghe đồn về Chúa, nhưng bây giờ mắt con đã thấy Ngài; Vì vậy, con ghê tởm chính mình, và ăn năn trong tro bụi.” (42: 1-6)
Rồi. Con hoàn toàn tâm phục, khẩu phục rồi Chúa ơi.
Sự hiểu biết của Gióp về Đức Chúa Trời trước cơn hoạn nạn chủ yếu là sự hiểu biết gián tiếp, “tai con có nghe đồn về Chúa”, có thể từ bố mẹ, bạn bè hay từ những người quen biết. Thế nhưng, giờ đây, sau khi đã đi qua lò thử thách, ông đã biết Chúa rõ hơn và đạt đến chỗ tin cậy Ngài cách cá nhân.
Nói cách khác, trước khi gặp nạn, Gióp biết Chúa … cách lý thuyết. Có lẽ, lúc đó, đối với Gióp, Chúa là Chúa của ai đó (của bố mẹ, của dòng họ, của tổ tiên, …) chớ chưa phải của riêng ông. Nhưng, sau cơn hoạn nạn, Gióp đã thật sự gặp được Chúa, kinh nghiệm Chúa cách cá nhân, hiểu biết Chúa cách cá nhân.
Bất cứ khi nào mà một người được gặp Chúa cách cá nhân, thì lúc đó, người ấy mới hiểu thế nào là … ‘trời cao đất rộng’. Lúc đó, người ấy mới thấy rõ chính mình sao mà xấu xí, mà nhớp nhúa, mà … bẩn thế không biết. Đó là lý do mà Gióp đã ghê tởm chính mình (42: 6), và về sau tiên tri Ê-sai cũng từng hét toáng lên như thế (Esai 6: 5). Có bao giờ bạn đã từng kinh nghiệm cảnh này chưa?
Rõ ràng, Đức Chúa Trời không trả lời cho những câu hỏi của Gióp. Thay vào đó, Ngài chỉ đơn giản là đáp ứng ‘tiếng lòng’ của Gióp. Đức Chúa Trời không giải thích gì về mỗi giai đoạn của cuộc chiến, nhưng Ngài đã khiến Gióp “thắng hơn kẻ chinh phục” trong mỗi trận chiến.
Sách Gióp khép lại với một kết cuộc thật có hậu, như Gia-cơ về sau đã nhận định: “Anh em đã nghe nói về sự kiên định của Gióp, và thấy được mục đích của Chúa; vì Chúa đầy lòng xót thương và nhân từ” (Gia-cơ 5: 11)
Tất cả đều gấp đôi, ngoại trừ … chục đứa con. Chúng ta học được điều gì từ chuyện này?
Không phải mọi hoạn nạn sẽ kết thúc với mọi vấn đề được giải quyết, mọi người sau đó rồi sẽ sống hạnh phúc mãi mãi như những câu chuyện cổ tích. Phần kết của sách này bảo đảm rằng, cho dù điều gì xảy ra với chúng ta đi nữa thì Đức Chúa Trời vẫn là Đấng viết chương cuối cùng!
Hoạn nạn thử thách ở mức độ này hay mức độ khác, lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, là điều không thể tránh khỏi, đối với người tin thờ Chúa. Giữa nghịch cảnh khốn cùng vây phủ, Gióp đã xác quyết: “Chúa biết con đường tôi đi; Khi Ngài đã thử rèn tôi, tôi sẽ ra như vàng.” (23: 10). Hoạn nạn, thử thách sẽ tinh luyện chúng ta và bày tỏ bản chất quý báu như vàng của Chúa trong đời sống của mỗi chúng ta.
“Vì cớ đó anh chị em hãy vui mừng hớn hở dù hiện nay phải chịu khổ ít lâu vì mọi thử thách.Những thử thách ấy nhằm tinh luyện đức tin anh chị em là thứ quý hơn vàng – vàng là thứ sẽ bị hư mất dù được trui luyện bằng lửa – để đem lại sự khen ngợi, vinh hiển, và tôn trọng khi Đức Chúa Jesus Christ hiện đến. Ngài là Đấng anh chị em yêu kính dù không thấy, anh chị em tin thờ dù bây giờ chưa gặp mặt; anh chị em đang vui mừng với niềm vui tuyệt vời vô tả, vì anh chị em đang hưởng kết quả của đức tin mình, tức sự cứu rỗi linh hồn.” (1 Phê-rơ 1: 6-9)


Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

NGHE NÈ CON

Gióp 38-39
Cuối cùng, thì Đức Chúa Trời đã lên tiếng đáp lời Gióp từ giữa cơn lốc xoáy. Phiên bản 2015 của Gióp 38: 2-3 là ri nè: “Muốn ‘chat’ với Ta hả Gióp? Ok. Trước hết, ngươi phải làm bài trắc nghiệm ni đã, xem có đủ chuẩn không. Sau đó, mới tính đến chuyện … đối khẩu với Ta nghe con.”
Rồi thế là liền tù tì, hơn trăm câu hỏi vấn đáp bày ra trước mặt, khiến Gióp tối tăm mặt mũi. Nhưng bù lại, Gióp được một chuyến ‘du hành vũ trụ’ hoàn toàn miễn phí.
Một bức tranh rộng lớn và hơi bị … đẹp của cả cõi vũ trụ đã được Chúa phát họa lại trước mắt Gióp. Rất phức tạp, rất tinh tế và cũng rất liền lạc với nhau. Từ những hình thái sự sống vô cùng bé bỏng cho đến những hữu thể với sức lực khủng khiếp; từ những con thú, chú chim gần gũi cho đến những chòm sao xa vời vợi.
Rõ ràng, là chỉ có một trí tuệ siêu phàm mới có thể thấu hiểu, mới có thể bao trùm và điều khiển cả cõi tạo vật muôn hình vạn trạng, vô cùng phức tạp và quyền năng đến như thế.
Đối với loại câu hỏi dạng: “Núi kia ai đắp mà cao. Sông kia biển nọ ai đào mà sâu?” thì chắc là Gióp trả lời cái rụp: “Chúa chớ ai”.
Thế nhưng, dạng tiếp theo: “Tại sao Ta đắp (cho) núi cao. Sông kia biển nọ răng (mà) Ta đào cho sâu?” thì Gióp bị cứng lưỡi là cái chắc.
Chỉ riêng một chuyện, tại sao Chúa lại tạo nên giống đà điểu theo mô hình: ‘trí óc ngu si, tứ chi phát triển’ là đã … ‘biết được chết liền’ rồi, nói chi là đến những chuyện trời mây sông biển. Đúng không?
Chính vì vậy, mà sau khi nhận được đề thi từ Trời … rớt xuống, Gióp chỉ còn có một phản ứng duy nhất. Đó là kêu lên rằng: “nô tài đáng chết!” mà thôi.
Tiếng là đáp lời Gióp, nhưng chưa thấy Đức Chúa Trời đả động gì đến những câu hỏi của ông cả. Biết răng không? – Không thể có một câu trả lời đơn giản cho những vấn đề phức tạp của cuộc sống.
Thế Chúa không thể cho một câu trả lời phức tạp tương ứng à? – Sao không.
Đối với Chúa thì quá đơn giản, nhưng đối với Gióp nói riêng và đối với chúng ta nói chung, thì không hề đơn giản để tiếp nhận à nha.
Vấn đề là ‘cấu hình’ của chúng ta KHÔNG THỂ đọc được loại file đó. Trừ khi Đức Chúa Trời đồng ý nâng cấp ‘cấu hình’ của chúng ta thì may ra chúng ta mới có thể đọc được. Nhưng than ôi, cấu hình của chúng ta đã được mặc định giống như ‘Windows XP’ rồi, nên đành phải chờ ngày … về trễn dzậy thôi. He he.
Nếu ta xài bóng đèn tròn 50 ‘hoách’ (wat), mà cứ đòi cắm vào dòng điện 100w thì răng? – Đứt bóng chớ răng.
Ra là thế. Không phải Chúa không thể trả lời cho mọi câu hỏi của Gióp nói riêng, và của chúng ta nói chung, mà là chúng ta “dù có thắt lưng như người dũng sĩ” đi nữa, cũng không đủ tầm để nhận lấy, để lãnh hội câu trả lời của Chúa. Cho nên, con người hữu hạn của chúng ta phải học biết đứng vào chỗ tin cậy Chúa, chớ không phải vào vị trí tranh cãi cùng Ngài.
“Những điều huyền nhiệm thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, nhưng những điều được mặc khải thuộc về chúng ta và con cháu chúng ta đến đời đời, để chúng ta làm theo mọi lời của luật pháp nầy” (Phục Truyền 29: 29)