Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015

PHÁO ĐÀI KIÊN CỐ

Thánh Thi 42-49 
Thánh Thi tập 2 (từ 42-72) bắt đầu bằng 8 bài thơ, được cho là do con cháu của Cô-rê (hay Cô-ra) cảm tác.
Mà Cô-rê là ai? Cứ theo ‘sơ yếu lý lịch’ mà tra xét thì đây là người bị chôn sống vì tội đầu têu phản loạn chống Môi-se (Dân số ký 16). Không hiểu bằng cách nào mà vẫn còn sót lại được một phần hậu tự của ông, về sau được chọn là những người gác cổng Đền Thờ (1 Sử Ký 9: 19) và một phần khác là những ca sĩ và nhạc công phục vụ trong ca đoàn tại Đền Thờ (1 Sử ký 6: 31-47).
Tám chương Kinh Thánh hôm nay có thể chia thành 3 nhóm theo ba tiểu đề khác nhau. Đó là: kêu cứu cùng Chúa (TT 42-44), chúc tán Chúa là Vua (TT 45-48), và chê mấy anh giàu mà dại (TT 49).
Chúng ta không biết được bối cảnh sáng tác của những bài thơ này, nhưng rõ ràng người viết đang ở trong một hoàn cảnh rất bi đát. Bị hoạn nạn, áp bức (44: 24); bị thất trận, bị bắt làm tù binh, (44: 10-12); bị sỉ nhục, bị mắng chửi, trở thành đề tài đàm tếu của dân ngoại (44: 13-16); bị lưu lạc, không còn được thờ phượng Chúa (42: 4, 43: 2); bị người ta trêu chọc, chê giễu (42: 3, 10).
Nói chung, là vừa đau vừa nhục.
Càng nghĩ về quá khứ – về lịch sử của dân tộc, về kinh nghiệm của bản thân, nhất là những năm tháng được gần gũi Chúa, được phục vụ Chúa trong Đền Thờ của Ngài – người viết càng hối tiếc, càng đau đớn. Nhất là khi kẻ qua người lại cứ trêu ngươi: “Thế Chúa của mi ở đâu, mà mi ra nông nỗi này?”
Xưa con đi cùng đoàn dân,
Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời
Với tiếng reo mừng và ca ngợi,
Giữa đoàn dân đông dự lễ.
Bây giờ nhớ lại những điều ấy
Lòng con buồn thảm, xót xa. (42: 4)
Có lẽ đây là tâm trạng của không ít người vốn đã từng ‘vào ra’ nơi nhà Chúa, tức hội thánh của Đức Chúa Trời. Đó là những người đã từng là trưởng ca đoàn, là người hướng dẫn ngợi khen thờ phượng trong các hội thánh, đặc biệt là các hội thánh – mục vụ Việt Nam tại xứ Cọ này.
Ước gì những người ấy, giờ này – dù đang lưu lạc ở “đất Giô-đanh”, hay “núi Hẹt-môn” hoặc cao nguyên “Mít-sê-a” đi nữa – vẫn còn biết nhớ đến Chúa như “nai cái thèm khát khe nước”.
Con nai cần nước và thèm khát nước để có thể tung tăng vui sống khắp nơi. Trái lại, lạc đà thì không. Nó thể đi suốt 3 tháng mà không cần uống nước. Có ai đó đã từng bảo rằng, thật là dễ cho chúng ta trở nên giống như con lạc đà hơn là con nai trong cuộc sống đầy đủ này. Riêng bạn thì sao?
Giữa một thế giới đầy biến động và luôn thay đổi như hiện nay; trong thời điểm mà những nan đề khẩn cấp – từ mức độ cá nhân đến tầm quốc gia và quốc tế – luôn vượt trội bội phần hơn so với những giải pháp khả thi, thì đâu là chốn vững an thật sự mà chúng ta có thể chạy đến?
Hãy chạy đến chính nơi trú ẩn mà người viết Thánh Thi đã tìm thấy được.
Trong thánh thi 46, con cháu Cô-rê đã miêu tả những tai họa kinh hoàng ập xuống thế giới này: động đất, lở đất và sóng thần (c. 2-3). Và khi mọi thứ dường như mất sạch, thì nơi Trú Ẩn vững an – Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên – vẫn còn nguyên ở đó.
Phải, chính Đức Chúa Trời của Apraham, Ysac, Gia-cốp – Đức Chúa Trời mà chúng ta đang thờ phượng là Vầng Đá vững an của bao thời đại. Hãy nương náu mình nơi chính mình Ngài.
Trước khi, gấp Kinh Thánh lại, hãy làm theo sự hướng dẫn trong Thánh Thi 46: 10.
Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời;
Ta sẽ được tôn cao trong các nước,
Ta sẽ được tôn cao trên đất nầy.
Hãy gác sang bên tất cả những vướng bận đời thường và dành ít thời gian yên lặng, lắng lòng trước Chúa. Hãy trao cho Ngài tất cả những sợ hãi kín giấu nào có trong bạn.
Nếu có thể, hãy lấy một miếng bìa cứng và viết câu Kinh Thánh này vào đấy để tiện suy gẫm và học thuộc lòng. Rồi mỗi khi sự sợ hãi, như a-xít, bắt đầu gặm nhấm sự bình an trong tâm trí mình, bạn hãy rút câu này ra, mà tống khứ nó đi. Khá nhớ rằng, Nơi Trú Ẩn của bạn “hôm qua, hôm nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi” (Hê-bơ-rơ 13: 8)


Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

TỪ BÊN DƯỚI NHÌN LÊN

Thánh Thi 36-41
Sáu chương Kinh Thánh hôm nay kết thúc sách Thánh Thi thứ 1, gồm 41 bài thơ. Đây là sách có nhiều nét tương đồng như sách Sáng Thế ký trọng bộ Ngũ Kinh Môi-se.
Sáu chương này có thể chia thành ba cặp: 36-37; 38-39 và 40-41 theo ba chủ đề. Theo đó, cặp đầu tiên nói về sự chống đối từ bên ngoài hay ‘ngoại kích’. Cặp thứ hai đề cập đến những áp lực từ bên trong hay ‘nội công’. Và cặp cuối là lời chứng về chiến thắng bởi ân điển của Đức Chúa Trời mà có.
Đối diện với sự chống đối của kẻ ác, thay vì ‘dĩ độc trị độc’, ăn miếng trả miếng thì Đa-vít khuyên ‘nạn nhân’ tìm kiếm sự an ủi nơi tình yêu bất diệt của Đức Chúa Trời.


Hãy tin cậy CHÚA và làm điều lành;
Khá ở trong xứ và nuôi mình bằng đức thành tín của Ngài.
Hãy vui thỏa trong CHÚA,
Rồi Ngài sẽ ban cho bạn mọi điều lòng bạn ao ước.
Hãy phó thác đường lối của bạn cho CHÚA,
Cứ nhờ cậy Ngài, Ngài sẽ làm thành điều bạn muốn. (37: 3-5)
Thế cứ để chúng lộng hành, lấn lướt mãi à? – Không hề. Thấy dzậy chớ không phải dzậy đâu. Chúng ‘đi’ hồi nào không hay đấy. Nói cách khác, xử kẻ ác không phải là việc của chúng ta. Đó là việc của Chúa. Việc của chúng ta là tiếp tục tin cậy Chúa, tiếp tục làm lành và giao thác tương lai mình trong tay Chúa.
Đối với áp lực từ bên trong bởi tội lỗi và sự nản lòng thì Đa-vít tìm kiếm sức lực trong sự giúp đỡ của Chúa. Thánh thi 38, 39 đặc tả những hậu quả của tội lỗi hơn là hành vi phạm tội. Nào là bị lên án, bị bỏ rơi, cô đơn, nhục nhã, đau đớn, …
Thường thì trong những cảnh ngộ như vậy, người ta luôn bị mặc cảm tội lỗi đè nặng. Người phạm lỗi luôn ấm áp tư tưởng bỏ cuộc, thối lui, xa lánh Chúa, tránh mặt anh em đồng đạo.
Thế nhưng, Đa-vít thì khác. Ông không bi lụy trong hậu quả của tội lỗi, không chìm đắm trong hối tiếc mà là vận hết … nội công để bò đến cùng Chúa, dồn chút hơi tàn kêu lên với Chúa.
Lạy Chúa, bây giờ con trông mong gì?
Niềm hi vọng của con ở nơi Chúa.
Xin giải cứu con khỏi mọi vi phạm;
Đừng khiến con trở nên sự nhuốc nhơ cho kẻ ngu dại. (39: 7-8)
Đây cũng chính là phản ứng mà Chúa muốn nhìn thấy nơi mỗi chúng ta khi gặp phải cảnh ngộ tương tự. Vì Lời Chúa đoan chắc rằng, “còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín và công bình sẽ tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (1 Giăng 1: 9)
Sau hết, đối cùng những hoàn cảnh tối tăm trong đời như bệnh tật, tai ương thì người của Chúa – thay vì nhìn vào nan đề của mình – lại tập chú nơi lòng nhân từ và sự thương xót dư dật của Đức Chúa Trời. Thật là một kiểu mẫu cầu nguyện đáng để chúng ta noi theo.
Nói về Chúa thay vì nói về nan đề, hoạn nạn của mình. Xin Chúa giải cứu, chữa lành cho mình nhưng không phải vì cớ mình mà là vì cớ Chúa, chính xác là vì cớ Danh Chúa. (Đừng để kẻ thù coi thường Chúa, sỉ nhục Danh Chúa). Xin Chúa giải cứu, chữa lành cho mình còn là vì … người khác nữa.
Nhiều người sẽ thấy điều đó và kính sợ
Đem lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va. (40: 3)
Nguyện tất cả những ai tìm cầu Chúa
Được vui vẻ và hoan lạc nơi Chúa;
Nguyện những người yêu mến sự cứu rỗi của Chúa
Luôn nói rằng: “Đức Giê-hô-va thật vĩ đại!” (40 : 16)
Và bây giờ, đã đến lúc chúng ta cần phải áp dụng những kiểu mẫu cầu nguyện này vào thực tiển cá nhân của mình. Có thể bạn đang bị hoạn nạn, yếu đau; có thể bạn đang bị mặc cảm tội lỗi dày vò, không dám đến gần Chúa hoặc có thể bạn đang bị vu khống, bị công kích, hăm dọa? Hãy chọn 1 trong 3 kiễu mẫu cầu nguyện, phù hợp với trường hợp của mình và … phát hết cỡ volum đi.


Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2015

TÂM ĐIỂM TIÊN TRI

Dừng Chân Lần Thứ 21
NHÌN LẠI
Sách Gióp giới thiệu cho chúng ta về QUYỀN CHỦ TỂ của Đức Chúa Trời, còn Thánh Thi thì giúp ta học biết THỜ PHƯỢNG Chúa.
Thánh Thi là sách dài nhất trong Kinh Thánh, và cần phải dành trọn một tháng thì ta mới có thể … bước qua đời ‘hắn’. He he. Thế nhưng, đừng để cho độ dài (hay dày) của ‘hắn’ làm nhụt chí anh hùng của bạn. Hãy xem ‘hắn’ như là bộ hợp tuyển “150 tình ca bất hủ”, mô tả những thuộc tính đa dạng của Đức Chúa Trời, do Đa-vít, A-sáp, Môi-se, Salomon và một số người khác phổ nhạc đang khi họ đồng đi với Chúa.
Ta có thể tìm thấy nơi Thánh Thi đủ loại tâm trạng: phấn khích và chán nãn; vui sướng và buồn khổ; hy vọng tràn lan và căm giận … trào dâng. Những trải nghiệm rất người ẩn sau những vần thơ đã làm cho từng lời của tác giả trở nên gần gũi, sống động với người đọc thuộc mọi thế hệ, mọi vùng miền.
(Đừng bỏ qua những chú thích lúc mở đầu của đại đa số các bài thơ. Những câu chú thích đó không phải là Lời Chúa, nhưng cung cấp cho người đọc những thông tin bổ ích về hoàn cảnh ra đời của Thánh Thi đó). Cũng có thể, bạn sẽ có ước muốn đọc lại những phần mà chúng ta đã đi qua trong sách 2 Samuen và 1 Sử ký, để hiểu thêm về bối cảnh lịch sử của những bài thơ mà Đa-vít đã viết cũng nên.
Thánh Thi còn hơn là một tuyển tập thơ ca. Hãy xem nó như là lá thơ tình của Chúa gởi cho bạn. Chúa muốn bạn học biết Ngài nhiều hơn, và một khi biết Ngài sẽ dẫn bạn đến chỗ yêu Ngài – Đấng chăn giữ, Đấng Hướng dẫn, Đấng Chu cấp, Đấng Bảo vệ và là Vua của chính bạn.
NHÌN LÊN
Thánh Thi còn hơn là một kho báu thi ca và những bài chúc tụng. Nó còn là nơi ẩn chứa của rất nhiều lời tiên tri về Đấng Cứu Thế (Mesia/Christ) trong kinh Cựu Ước.
Hàng trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế ra đời, Đức Chúa Trời đã dùng ngòi bút của những thi sĩ được chọn, báo trước cách chính xác những chi tiết liên quan đến sự giáng sinh, đến đời sống, chức vụ, sự chết và sự sống lại của Đức Giê-xu, người Na-xa-rét.
Khi tiếp tục đọc suốt kinh Cựu Ước, chúng ta sẽ thấy được những lời tiên tri liên quan đến Chúa Cứu Thế ngày càng rõ ràng hơn, cụ thể hơn.
Dưới đây là một phần những lời tiên báo đó, được tìm thấy trong các Thánh Thi mà chúng ta đã đọc xong và việc ứng nghiệm cũng đã được xác chứng trong những sách của kinh Tân Ước.
§  Muôn vật sẽ quy phục dưới chân Ngài                        (8: 6) – (Hê-bơ-rơ 2: 8)
§  Ngài sẽ sống lại từ trong kẻ chết                               (16: 10) – (Mac 16: 6-7)
§  Ngài sẽ bị Đức Chúa Trời lìa bỏ                                 (22: 1) – (Mathiơ 27: 46)
§  Ngài sẽ bị khinh bỉ và chế nhạo                                 (22: 7-8) – (Luca 23: 35)
§  Tay và chân Ngài sẽ bị đâm thủng                             (22: 16) – (Giăng 20: 25, 27)
§  Quân lính sẽ bốc thăm để chia áo choàng của Ngài      (22: 18) – (Mathiơ 27: 35-36)
§  Không một chiếc xương nào của Ngài sẽ bị gãy           (34: 20) – (Giăng 19: 32-36)
§  Ngài sẽ bị thù ghét cách vô cớ                                   (35: 19) – (Giăng 15: 25)
NHÌN TỚI
Hãy tưởng tượng rằng bạn được giao nhiệm vụ phải báo trước về việc ra đời của một em bé sau … 800 năm nữa! Bạn phải báo trước cách chính xác tên của bé, nơi sinh, thời gian sinh, bối cảnh ra đời, nó sẽ sống và phục vụ thế nào, rồi chết ra làm sao và những lời cuối cùng của nó trước lúc chết.
“Tại sao lại phải như thế? Không cách chi làm được!”
Chính xác. Hoàn toàn chính xác. Trừ khi được Đức Chúa Trời bày tỏ cách ‘hai năm rõ mười’, còn bằng không thì không một ai có thể làm được việc này.
Bạn có vui mừng vì được thờ phượng và phục vụ một Đức Chúa Trời, Đấng “đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên” không ? (Esai 46: 10).
Hãy cầu xin Đức Thánh Linh giúp đỡ bạn chia sẻ lại những gì mình đã đã học được từ những lời tiên tri về Chúa Cứu Thế trong sách Thánh Thi cho một người khác trong tuần này, và đem người ấy đến “điểm hẹn tình yêu” để gặp gỡ Ngài cách cá nhân, như bạn đã và đang vui hưởng.
Nào lên đường thôi!


Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

NHẠC KHÚC TUYÊN NGÔN

Thánh Thi 31-35
Năm chương Kinh Thánh hôm nay như một bản nhạc hiệu đầy cung bậc, từ rên rỉ ỉ ôi đến … thôi rồi sung sướng!
Hai Thánh Thi ngoài cùng (31, 35) là lời cầu nguyện tín thác nơi Đức Chúa Trời khi bị … ‘giặc ngoài’ vây phủ, còn hai chương liền kề (32, 34) là lời cầu nguyện xử lý … ‘thù trong’ (tội chưa xưng nhận và nỗi sợ hãi kín giấu) và cuối cùng, đỉnh cao cảm hứng là một thánh thi tuyệt đẹp ngợi khen Thiên Chúa, vì “Kế hoạch của Chúa được vững lập đời đời, Tư tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia.” (33: 11)
Nếu bạn đang ‘tứ bề thọ địch’ thì 2 bài cầu nguyện của Đa-vít trong Thánh Thi 31 và 35 là khuôn mẫu tuyệt vời để bạn cóp nguyên văn. Phần để … méc với Chúa (31: 1-18), phần để … ‘tăng lực’ cho chính mình (31: 19-24). Riêng Thánh thi 35 thì sẽ vô cùng hiệu quả trong trường hợp bạn bị (hoặc sắp bị) uýnh cách oan ức. Hãy học cách giao đứt đối thủ cho Chúa xử lý.
Muốn cự cãi, muốn uýnh nhau à? Cứ tự nhiên. Đây là vị đại diện toàn quyền của ngộ. Mấy ‘nị’ cứ tha hồ nhé. Chúa ơi, xin ‘chăm sóc’ chúng chu đáo giùm con nha.
Những câu từ trong Thánh Thi 35 mạnh mẽ và đầy tính chiến đấu hơn rất nhiều nếu so với Thánh Thi 31. Những lời cầu nguyện này giống như những cuộc gọi pháo binh yểm trợ trong chiến tranh vậy. MSB tui đã có vài lần phải sử dụng “cuộc gọi yểm trợ” TT35 này, kết hợp với sự kiêng ăn, và kết quả xảy ra cấp kỳ, vô cùng kinh khiếp. Mọi sự liền đổi chiều 180o: kẻ bị uýnh được thoát hiểm trong gang tấc, còn người ‘ra đòn’ thì bổng dưng … ‘đứt bóng’! Không đứt bóng thì cũng xuất huyết dạ dày hoặc bị đơ thần kinh. Thật đấy.
Như đã đề cập trong phần ‘nhạc dạo’ ở trên, thì hai Thánh Thi 32, 34 là kiểu cầu nguyện xưng tội. Điểm đặc biệt trong hai lời cầu nguyện này là nhấn mạnh đến lòng nhân từ của Chúa, Đấng sẵn lòng tha thứ cho những ai bằng lòng công khai xưng nhận sai phạm của mình hơn là nói về tội lỗi cụ thể nào đó.
Theo đánh giá của Chúa, thông qua môi miệng của Đa-vít, thì người mà “lỗi được tha, tội được xóa” bởi Chúa, mới chính là người có phước (32: 1-2). Đây là Cội Phước, hay là Phước của phước. Đây là khởi đầu của mọi mối phúc thật trong đời sống của một người. Chính vì biết rõ như thế nên Đa-vít đã mạnh dạn tuyên bố “Con đã thú tội cùng Chúa, Không giấu gian ác con; Con nói: 'Con sẽ xưng các sự vi phạm con với Đức Giê-hô-va, Và Chúa tha tội cho con.’”  (32: 5)
Trong Thánh Thi 32 còn có câu này cũng … ‘đụng chạm’ lắm nè: “Đừng như con ngựa và con la là vật vô tri. Phải dùng hàm khớp và dây cương mới giữ chúng được. Nếu không, chúng chẳng chịu đến gần con.”  (c. 9). Tự giác nha bà con, chịu khó … lớn giùm nghe. Nhớ rằng mình là chiên, chớ hổng phải ngựa hay la nhé. Đừng để Chúa phải dùng ‘biện pháp mạnh’ mới chịu đi à nha.
Hoặc là “nhiều nỗi đau đớn”, hoặc là “sự nhân từ” của Chúa bao phủ (32: 10), tùy nghi chọn lựa nhé.
Tuy cùng đề cập đến lòng nhân từ của Đức Chúa Trời như Thánh Thi 32, nhưng Thánh Thi 34 lại kêu gọi người ta đáp ứng cách tích cực đối với bản tính nhân từ của Chúa. Không phải vì biết Chúa nhân từ, đầy lòng thương xót, dồi dào sự tha thứ mà ta có thể tiếp tục sống một đời bất kính. Ngược lại, thái độ cần phải có của chúng ta đối với lòng nhân từ của Đức Chúa Trời là “kính sợ Chúa và lánh khỏi điều ác”, kể cả “lời ác” lẫn “việc ác” (34: 12-14)
Cuối cùng, Thánh Thi 33 là lời cầu nguyện thuộc thể loại cảm tạ và ngợi khen. Phần đông chúng ta thường hay hiểu rằng hễ cảm tạ hay cảm ơn thì phải có cụm từ “con tạ ơn Chúa” hay “con cảm ơn Chúa”, còn đụng đến ngợi khen có nghĩa là … hát. Vâng, đúng là có mấy ‘món’ này trong lời cảm tạ và ngợi khen. Tuy nhiên, cảm tạ và ngợi khen Chúa còn nhiều hơn là như thế.
Đầy đủ phải là ri nè: cảm tạ và ngợi khen là HAI trong ba phương cách tiếp cận Đức Chúa Trời của tâm linh con người (cách thứ ba là thờ phượng). Cảm tạ và ngợi khen đem lại cho chúng ta khả năng kết nối với hai phương diện khác nhau của bản tánh Chúa.
Bằng việc cảm tạ tất cả những gì thiện lành và tốt đẹp mà Chúa làm cho mình, chúng ta xưng nhận sự nhân từ của Ngài. Bằng việc ngợi khen, tức là thái độ đáp ứng đúng đắn trước ân sủng lớn lao của Chúa, chúng ta nhận biết sự vĩ đại của Ngài.
Hãy ghi nhớ định nghĩa này và đọc lại một lần nữa Thánh Thi 34 cách chậm rãi để ‘ngấm’ được hết những gì mà Đa-vít đã tuyên rao. Nếu bạn có khả năng hãy phổ nhạc Thánh Thi này, còn nếu không thì hãy dùng nó để ngâm, để ca, để xướng, để họa … tùy thích. Miễn là bạn đừng quên rằng mình đang ‘mượn’ nó để bày tỏ lòng mình trước lòng nhân từ và sự vĩ đại của Chúa Toàn Năng.
“Hỡi những người trung tín, hãy reo mừng trong CHÚA.
Ca ngợi Ngài là điều thích đáng cho người ngay thẳng.
Hãy dùng đàn hạc ca ngợi CHÚA,
Hãy ca tụng Ngài với đàn lia mười dây.
Hãy hát cho Ngài một bài ca mới.
Hãy gẩy đàn dây thật hay với tiếng reo vang (33: 1-3)


Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

NGỢI KHEN & CẢM TẠ

Thánh Thi 25-30
Việc gia tăng mối quan hệ với Đức Chúa Trời bao gồm cả việc tăng trưởng trong sự hiểu biết về những gì mà Chúa sẽ làm thành trong đời sống của chúng ta một khi ta tin cậy nơi Ngài. Chúa sẽ dẫn dắt ta trên đường lối của Ngài (TT 25), bênh vực ta khi ta bị chèn ép, khi ta bị đối xử cách bất công (TT 26) và bảo vệ chúng ta khi ta trong cơn nguy hiểm (TT 27-28).
Phản ứng của Đa-vít – và cũng chính là phản ứng mà Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy nơi mỗi một tín hữu thật – là tuôn đổ lòng mình ra trong sự ngợi khen (TT 29) và cảm tạ (TT 30).
Ngợi khen và cảm tạ là hai thuật ngữ giống nhau hay khác nhau? Thánh Thi 29 và 30 cung cấp cho chúng ta một minh họa hữu ích về sự khác biệt.
Thánh Thi 29 là một bài tụng ca, tập chú vào sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, là sự vinh hiển được bày tỏ qua cơn bão tố sấm động rền vang đất trời. Còn Thánh Thi 30 là lời cảm tạ, tập trung nơi kinh nghiệm của Đa-vít về sự giải cứu thiên thượng, cùng lòng biết ơn của ông đối với Đức Chúa Trời.
Thánh Thi 29 minh họa cho sự ngợi khen với Đức Chúa Trời là trung tâm, tập chú nơi vinh quang được bày tỏ của Chúa qua những thuộc tính và công việc đầy quyền uy của Ngài. Còn Thánh Thi 30 minh họa cho sự cảm tạ với việc tập trung nơi con người nhiều hơn, và nhấn mạnh đến thái độ của Đa-vít đối với việc can dự của Đức Chúa Trời trong đời sống của ông.
Việc hiểu được sự khác biệt giữa hai phạm trù này có thể mở ra một chiều kích mới trong đời sống cầu nguyện của chúng ta!
Rất dễ dàng để phát triển thói quen cầu nguyện lấy mình là trung tâm, hay huỵch toẹt là lối cầu nguyện ích kỷ theo mô hình … 3 ngôi: Tôi – của tôi và … cho tôi. Trong đó nan đề CỦA TÔI luôn được nhấn mạnh hết công suất. (Đúng dzậy không hỡ bà con cô bác?)
Dù rằng cầu xin là một phần quan trọng của sự cầu nguyện (Mathiơ 7: 7-8) nhưng nó không phải là phần duy nhất đâu nha.
Khi bạn dành thời giờ cầu nguyện hôm nay, hãy bắt đầu với việc tôn vinh Danh Chúa và những thuộc tính của Ngài thay vì … ‘con đường xưa em đi’ là đề cao nan đề, nhu cầu của chính mình. Nếu khuôn mẫu cầu nguyện của bạn là đề cập đến sự vĩ đại của Chúa trước khi đề cập đến những việc riêng của mình, thì giống như tác giả Thánh thi, bạn sẽ kinh nghiệm được cả hai, vừa ngợi khen vừa cảm tạ Đức Chúa Trời.
Giờ thì chúng ta cùng quay trở lại với Thánh Thi 27: 13 và ghi khắc lời công bố đầy xác quyết của Đa-vít trong giờ thử thách.
Ôi! Nếu tôi không tin chắc rằng sẽ thấy ơn của Đức Giê-hô-va tại đất kẻ sống, thì tôi hẳn đã ngã lòng rồi! … 
Bạn có tin chắc rằng Chúa sẽ đáp lời bạn, làm ơn cho bạn ngay trong đời này không?


Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

CHÚNG TÔI TIN CẬY NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI

Thánh Thi 19-24
Sự liên quan hay dính dáng của Đức Chúa Trời trong đời sống của dân sự Ngài là đề tài bao quát cho 6 chương Thánh Thi mà ta đọc hôm nay.
Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài trong cõi trời và trong cõi … Lời (TT 19); Chúa ban năng lực và chiến thắng cho những ai đang chiến đấu vì cớ Danh Ngài (TT 20-21); Chúa sai Đấng Mê-sia (Cứu Thế) của Ngài đến để chịu khổ nạn trên thập giá (TT 22), để chăn dắt dân Ngài (TT 23) và để thiết lập quyền cai trị của Ngài trên khắp đất (TT 24). Quả thật, Đức Chúa Trời xứng đáng được tin cậy!
Hỏi: Điểm giống nhau giữa … sổ hưu (của đại tá Thanh), bằng tốt nghiệp đại học và … tàu ngầm hạt nhân (hoặc tàu ngầm lớp kilo mới mua của Nga-xô) … là gì?
Trả lời: Tất cả chúng đều được thiết kế để cho người ta cảm giác được an toàn. Tương lai được bảo đảm, công ăn việc làm được bảo đảm và chủ quyền quốc gia được bảo đảm. Thế nhưng, chúng có bảo đảm không?
Bảo vệ, bảo đảm hay bảo đảm an ninh hoặc gọn một từ thành “bảo an” đã trở thành những món hàng được ưa thích, được săn đón trong một thế giới ngày càng biến động như hiện nay.
Gần 3,000 năm trước, khí tài chủ yếu của một đội quân chỉ là ngựa và … xe ngựa, tương tự như ngày nay là vũ khí … ‘hột nhưn’, là tên lửa, là máy bay, là tàu ngầm, tàu sân bay và kể cả … dàn khoan nước sâu kiểu HD-981!
Ngày xưa, nước nào mà mạnh về kỵ binh và chiến xa … ngựa là coi như bất khả chiến bại. Thế nhưng, đối với Y-sơ-ra-ên thì không như thế. Luật pháp Chúa nghiêm cấm vua tậu nhiều ngựa (Phục Truyền 17: 16).
Thay vì đặt lòng tin cậy của mình nơi sức mạnh chiến lược của thời bấy giờ là sức ngựa và sức người (cỡi ngựa) thì Y-sơ-ra-ên đã dựa nương nơi nguồn sức thiêng thượng vĩnh hằng là chính Chúa. Bởi cớ, Chúa đã hứa là sẽ đánh trận vì cớ dân Ngài. Đó là lý do mà lời xưng nhận của Đa-vít về việc tin cậy nơi sự giải cứu của Đức Chúa Trời là hoàn toàn xác đáng.
“Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa,
Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng tôi” (20: 7)
Đây chính là câu trả lời cho vấn đề an ninh quốc gia, cả trong thời của Đa-vít, đối với nước Y-sơ-ra-ên, và cả trong thời hiện nay, đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung, và Việt Nam chúng ta nói riêng.
Giờ ta hãy cùng thực hành một bài tập nho nhỏ thế này nhé. Lấy một tờ giấy rồi dùng bút chì viết ra 5 điều mà người đời cho rằng sẽ đem lại sự an ninh cho chúng ta. Sau đó, dùng bút mực chép lại Thánh Thi 20: 7 đè lên trên rằng, “Chúng tôi tin cậy nơi Danh của Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chúng tôi”. Hãy để ‘tác phẩm’ thủ công của mình nơi nào mà bạn có thể dễ dàng nhìn thấy mỗi ngày.
Bạn biết không, trên tờ giấy bạc đô-la của Mỹ có in dòng chữ: “In God We Trust” (Chúng Tôi Tin Cậy Nơi Đức Chúa Trời). Thế còn nơi lòng của bạn thì có dòng chữ nào thể hiện niềm tin của bạn được ghi khắc trên đó không? 


Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

CHẲNG DẠI

Thánh Thi 13-18
Giống như trong thời Đa-vít, đức tin của người tin Chúa hôm nay cũng luôn đối diện với những thách thức. Thách thức từ chính tấm lòng lo sợ của mình (TT 13) và từ những con người phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời cách dại dột (TT 14).
Đâu là giải pháp cho vấn nạn này?
Bước đi trong mối thông công với Đức Chúa Trời (TT 15), nương cậy nơi những lời hứa của Chúa (TT 16) và kết nối với nguồn sức lực không hề cạn tắt của Ngài (TT 17-18).
Khi đọc Thánh Thi hay Thi Thiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng sách này thuộc thể loại thơ ca. Mà ngôn ngữ của thơ ca không giống như văn kể chuyện. Từ ngữ, hình ảnh, … mà nhà thơ sử dụng thấy dzậy mà chưa chắc phải dzậy đâu nha. Ta không thể hiểu tất tần tật theo nghĩa đen … thùi lùi đâu nhé.
Thế cho nên, đọc thơ nói chung và sách Thánh thi này nói riêng thì không có gì khó khăn cả. Nhưng để hiểu đúng, hiểu … đủ, để thấm được, để cảm được … thơ thì không hề … đang giỡn được. He he.
Chẳng hạn, trong 13: 3 Đa-vít ngâm ri nè: Xin cho mắt con được sáng, kẻo con phải ngủ trong sự chết chăng! Thoạt nghe, cứ như anh í đang bị … đục thủy tinh thể hay là một biến chứng về mắt rất chi là nghiêm trọng, mà nếu Chúa không ra tay ngay là ảnh … ‘đai’ liền chớ chẳng chơi.
Thế nhưng ở đây không có bịnh tật gì ráo trọi. Đa-vít bị kẻ thù … ‘đì’ tới bến. Anh í kêu Chúa tha thiết luôn, nhưng chẳng thấy Chúa động tịnh chi cả. Đang chờ mà, cảm thấy lâu, thấy chậm là chuyện thường. Khi nhận thấy việc gào thảm thiết rằng, “răng Chúa quên con và tránh mặt con cho đến chừng nào” coi bộ không ép-phê, Đa-vít bèn chuyển tông sang “xin Chúa tỏ cho con biết điều Chúa muốn dạy con qua chuyện này”. Rứa thôi.
‘Mắt’ ở đây là ‘con mắt lòng’, như Phao-lô về sau có nói trong Ê-phê-sô 1: 18, chớ không phải mắt thịt hoặc bị biến chửng tiểu đường hay bị giằm xóc vào đâu nha.
Thế thì 13: 3 nên được hiểu thế này: Chúa ơi đừng để con phải chết mà không hiểu được … vì sao con chết nha Chúa. Và đây cũng là một cách nói khác để giục Chúa trả lời, rứa thôi. He he.
Một điểm khác cần lưu ý trong xì-tai cầu nguyện của Đa-vít là luôn có những lời công bố đầy tin quyết về kết cuộc tốt đẹp của mình. Dù trước đó, ngôn từ của ông có thể nãn, có thể buồn … chảy nước luôn, nhưng kiểu gì thì cuối cùng Đa-vít vẫn thốt ra được những lời rất tích cực. Ấy chẳng phải là Đa-vít tự an ủi hay tự động viên mình theo kiểu ‘hết cơn bĩ cực, tới hồi thới lai’ hay ‘ngày mai trời lại sáng’, mà là kết quả của thời giờ riêng tư, đổ lòng mình ra trong sự hiện của Chúa.
Nếu chúng ta đến với Chúa, mang cả những gánh nặng, nan đề, buồn vui của mình trải ra trước mặt Ngài và rồi tập chú nơi chính Chúa, nơi những thuộc tính của Ngài thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ kết thúc lời cầu nguyện của mình với sự tin quyết tương tự như thế.
Một điểm khác nữa, cần ghi nhớ là cách Đa-vít luôn cầu Chúa xử thẳng tay đối với kẻ thù. Đa-vít sống dưới thời Luật Pháp Môi-se, là thời kỳ “mắt đền mắt, răng đền răng” nên lời cầu nguyện như thế là không có gì … trái luật! Còn chúng ta ngày nay thì được dạy là “Hãy thương yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con để các con được trở nên con của Cha các con ở trên trời, vì Ngài khiến mặt trời mọc lên chiếu sáng kẻ gian ác lẫn người lương thiện, ban mưa cho người công chính lẫn người bất chính.” (Mathiơ 5: 44-45). Thế cho nên, Chúa đòi hỏi tín hữu thời nay cao hơn rất nhiều so với thời xưa chớ không phải thấp hơn như nhiều người từng hiểu sai đâu nha.
Thánh Thi 14 điểm mặt những người NGU chính hiệu. Đây không phải là mấy anh đoảng cỡ Mit-tơ Bin hay hậu đậu như Nô-bi-ta hoặc ở xứ ta thì có … ‘vợ thằng Đậu’. Ngu được thiên đàng cấp chứng chỉ ở đây không phải là những người ít học, hay … ‘thiếu muối i-ốt’ mà là những người phủ nhấn sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, tại sao ‘chúng’ từ chối tin nhận Chúa? – Đơn giản là kiêu. Đơn giản là không muốn thừa nhận tội lỗi của mình trước một Đức Chúa Trời thánh khiết.
Nếu ‘chúng’ thừa nhận rằng, Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, là Cha của muôn loài, trong đó có ‘chúng’ thì sẽ ‘lòi’ ra cái tội … bất hiếu của ‘chúng’ ngay. Thế là, cố sống cố chết mà chối bay chối biến rằng thì là … nỏ có Chúa. Thế nhưng, dù có thừa nhận hay không thừa nhận thì Đức Chúa Trời vẫn hiện hữu, và chính Ngài sẽ xét xử mọi người trên đất tùy theo những việc mà họ đã làm “khi còn trong xác thịt”. Ngày đó chắc chắn đến.
Ác nỗi có ai ngu mà biết được mình ngu đâu, nên cần lắm thay một lời cầu thay của con dân Đức Chúa Trời cho những kẻ tưởng mình khôn nhưng thực sự là quá ngu. Ngu vì không nhận biết Đức Chúa Trời và không thờ phượng Con Ngài là Đức Chúa Giê-xu.
Cuối cùng, hãy đọc lại một lần nữa 5 câu Kinh Thánh trong chương 15 và đặt mình vào đấy để tự đánh giá xem: mình đã đạt chuẩn để ở trong sự hiện diện của Chúa (được nói cách đầy hình tượng ở đây là đền tạm, là núi thánh) chưa?