Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

GÁC TRỌN ĐÊM NAY

Thánh Thi 60-66
Tự do để bộc bạch trước Chúa, để bày tỏ với Ngài chính xác những gì ta cảm nhận là một phần quan trọng của sự cầu nguyện. Đời sống cầu nguyện của Đa-vít thể hiện những cảm xúc sâu kín của lòng ông.
Việc mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc (TT 60), cho triều đại của mình (TT 61) luôn đè nặng trên ông. Đa-vít khao khát được tăng trưởng trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời (TT 62-64), là mối quan hệ mà kẻ thù của ông không thể có được. Ông kinh sợ trước công việc sáng tạo đầy quyền năng của Chúa (TT 65) và hoan hỉ trong sự cứu rỗi có một không hai của Đức Chúa Trời (TT 66). Rồi ông mời gọi tất cả mọi người “Hãy đến chiêm ngưỡng công việc của Đức Chúa Trời: Công việc Ngài làm cho con cái loài người thật đáng sợ.” (66: 5)
Thánh thi 63 được viết bởi Đa-vít “khi ông đang ở trong hoang mạc Giu-đa”, một khu vực hoang vắng, nơi khan hiếm nước, cây cỏ gần như không thể sống được với cái nóng ban ngày khiến cho mọi hoạt động đều trở nên hết sức nhọc nhằn.
Trong sự khô hạn vây quanh như thế, Đa-vít đã được cảm thúc để viết “trong vùng đất khô cằn, nứt nẻ, chẳng có nước. Linh hồn con khát khao Chúa, Thân thể con mong ước Ngài.” (c.1). Cả hồn và thân, Đa-vít mong ước được ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Đa-vít biết rằng sự đói khát Chúa của ông chỉ được thỏa mãn khi ông bền đỗ theo Ngài: “Linh hồn con sẽ vui thỏa như được hưởng các vật thực béo bổ”  (c. 5). Trong giờ tìm cầu Chúa mỗi lúc tinh mơ, Đa-vít luôn tìm ra những khía cạnh trong thuộc tính của Đức Chúa Trời để suy gẫm trọn đêm (c.6).
Vì cớ Đức Chúa Trời đã giúp đỡ mình nên Đa-vít vui mừng “trong bóng cánh Chúa” (c.7). Trong sự trung thành đối với Chúa, Đa-vít nhận được sự bảo vệ, gìn giữ và chăm sóc của Ngài (c.8).
Đức Chúa Giê-xu đã nói với những môn đệ của Ngài: “Phước cho những người đói khát sự công chính, Vì sẽ được no đủ!” (Mathiơ 5: 6).
Làm thế nào để có được sự đói khát thuộc linh? Hãy dành ít nhất 15 phút hôm nay để ở riêng với Chúa. Hãy vui hưởng sự hiện diện của Ngài, thỏa thuê ăn nuốt Lời của Ngài và hãy để Chúa làm thỏa mãn lòng khao khát của bạn.
Bạn biết không, trong thời Kinh Thánh, đêm được chia thành ba phiên (chớ không phải 5 canh, như ở ta), đặc biệt là đối với ngươi lính và với người chăn cừu. Đó là: từ lúc mặt trời lặn đến 10 giờ đêm; từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng và từ hai giờ sáng đến rạng đông. Nào, giờ thì hãy đọc lại Thánh Thi 63: 6 để khám phá xem Đa-vít đã thức cùng Chúa bao lâu.
Một linh hồn thực sự đói khát Chúa là rứa đó.
Biết bao người đang sẵn sàng trắng đêm cùng World cup, nhưng có được bao linh hồn nguyện thức cùng Chúa chỉ trọn một đêm (?)


Thứ Năm, 11 tháng 6, 2015

KẾT NỐI ĐỨC TIN

Thánh Thi 55-59
Ai đó đã từng nói rằng, trong họa có phúc. Ấy là vì, hiểm họa lớn có thể khiến lòng ta nao sờn nhưng cũng có thể mở ra một đức tin lớn nơi Đức Chúa Trời.
Mặc dù, đã từng gào lên với Chúa trong cơn đau đớn khi bị bạn bè phản bội (TT 55), khi bị kẻ thù truy đuổi cách gắt gao (TT 56-57) và khi bị những vị quan án hung bạo thù ghét (TT 58), nhưng cùng lúc đó, Đa-vít đã bày tỏ lòng tin quyết lớn lao nơi thẩm quyền của Đức Chúa Trời trong việc minh oan cho ông đúng thời điểm và đúng cách (TT 59).
Một khi mà đài đã báo bão thì tàu thuyền phải nhanh chóng vào nơi trú ẩn. Tàu thuyền cần phải có những chiếc neo vững chắc; nhà cửa, cao ốc cần phải có một nền móng chắc chắn; cây cối cần có một bộ rễ cắm thật sâu vào lòng đất.
Trong mỗi một trường hợp, những gì còn sót lại khi cơn bão đi qua phụ thuộc hoàn toàn vào sự kết nối của chúng với những gì không thể lay chuyển. Chiếc neo của Đa-vít trong những cơn bão cuộc đời chính là đức tin không chuyển lay nơi một Đức Chúa Trời không hề thay đổi.
Mỗi Thánh Thi trong phần Kinh Thánh mà chúng ta đọc hôm nay, mô tả những áp lực đáng lo ngại, những tác động có tính hủy phá đã ập vào cuộc đời của Đa-vít. Ông mô tả những cuộc tấn công dữ dội này như một cơn bão tố (55: 8), như những con thú đói (57: 4); như những con rắn độc (58: 4-5) và như những con chó đang gầm gừ (59: 6).
Thế nhưng, thay vì tập chú nơi những áp lực đang gầm rống quanh mình, Đa-vít lại để tâm vào việc kết nối đức tin với Đức Chúa Trời (55: 22; 56: 10-11; 57: 11; 58: 11; 59: 9). Và kể từ lúc chiếc neo của mình kết nối thành công với Vầng Đá Tảng Không Thể Dịch Chuyển, là chính CHÚA, thì Đa-vít nhận ra rằng, ông cũng đã trở nên vững vàng – không thể dịch chuyển!
Có cơ bão nào đang lăm le bên cạnh cuộc đời của anh chị em không? Anh chị em có đang phải đối diện với sự chống đối ác liệt vì cớ niềm tin của mình không? Hãy áp dụng cách thể hiện đức tin của Đa-vít vào trong trường hợp cụ thể của mình.
Hãy viết ra một vài câu, bằng chính lời của bạn, về lòng tin quyết của cá nhân mình nơi Đức Chúa Trời – Đấng không bao giờ thay đổi. Rồi hãy dán hay đặt những … sờ-ta-tút (status) ấy vào những nơi mà có thể thường xuyên nhắc nhở bạn rằng, dông bão cuộc đời chẳng việc gì phải sợ, nếu ta có một nền móng vững chắc và một chiếc neo đức tin nơi chính Đức Chúa Trời.


Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

KIỂU GÌ CŨNG THẮNG

Thánh Thi 50-54
Đối với vấn đề tội lỗi trong đời sống của người tin Chúa lẫn người không tin thì Đức Chúa Trời, trong sự công chính của Ngài, có cùng cách xử lý giống nhau.
Với những ai mà chỉ có vỏ bên ngoài là công chính mà bên trong chất chứa tội lỗi thì sẽ được cảnh báo và quở trách (TT 50). Còn với những ai mà biết nhìn nhận tội lỗi và lìa bỏ nó thì sẽ được tha thứ và được phục hồi (TT 51). Kẻ dối gạt gian ác (TT 52) và kẻ vô thần ngu dại (TT 53) thì sẽ đối diện với sự hủy diệt. Nhưng người công chính, dầu đang bị khốn khổ trong tay kẻ ác vẫn có thể tin quyết nơi chiến thắng tất yếu của Đức Chúa Trời (TT 54).
Hãy nhìn vào Đa-vít: Có những điều còn tệ hại hơn là bị thương tích bởi kẻ thù nữa kia. Đó là bị thương tích bởi bạn bè. Một khi mà bị người tâm phúc hay đồng nghiệp của mình đâm sau lưng thì bạn nên xử lý thế nào với cảm giác phẫn uất trào dâng cách rất, rất tự nhiên?
Câu trả lời là: Xử lý bằng sự cầu nguyện. Khi Đô-e người Ê-đôm báo cáo cho vua Sau-lơ về nơi ở của Đa-vít thì chẳng có gì là ngạc nhiên – kể cả đối với Đa-vít và Sau-lơ – vì Đô-e là thân cận với vua Sau-lơ. Thế nhưng khi dân Xíp – những người đã từng được Đa-vít cứu thoát khỏi tay quân Philitin, khi thành phố biên giới Kê-i-la của họ bị tấn công (1 Samuen 23: 1-5) – đi phản bội người từng giải phóng cho mình thì đúng là niềm đau khó tả.
Giận dữ … cay đắng … thù hận … đồng thanh cất tiếng. Đó là tất cả những phản ứng tự nhiên đối với sự phản bội. Thế nhưng, không một điều nào có thể giải quyết được vấn đề hay giúp gì cho người bị phản bội cả. Đối với trường hợp này, chúng ta cần phải chạy đến với Chúa – Đấng duy nhất có thể chữa lành những thương tổn bằng tinh thần yêu thương và tha thứ (hãy xem gương mẫu của Đa-vít trong TT 52: 8-9; 54: 6-7; 55: 22).
Anh chị em có đang bị thương tổn bởi bạn bè trong những ngày gần đây không? Hãy ‘kết liễu’ nó bằng lời cầu nguyện ri nè; “Lạy Chúa, Ngài biết con có đủ quyền để đối xử với ……… (tên người đó) …………… như kẻ thù. Dù con có thể phản ứng theo cách tự nhiên, nhưng xin giúp con Chúa ơi, đáp trả theo cách siêu nhiên trong sưc toàn năng của Ngài. A-men”
Có một điều khá thú vị trong phần Kinh Thánh hôm nay. Ấy là Thánh thi 53 gần như lập lại nguyên xi Thánh thi 14. Tựa đề giống nhau, câu cú cũng giống nhau, ba lần danh xưng Giê-hô-va được thay thế bằng danh xưng Đức Chúa Trời trong TT 53. Chỉ có một khác biệt duy nhất: anh sau (TT 53) bỏ mất của anh trước (TT 14) đúng 1 câu. Chịu khó đọc lại để biết em nào bị bỏ nhé.
Theo bạn thì đâu là lý do mà Thánh Thi 14 quan trọng đến nỗi phải được lập lại một lần nữa trong Thánh Thi 53?


Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015

PHÁO ĐÀI KIÊN CỐ

Thánh Thi 42-49 
Thánh Thi tập 2 (từ 42-72) bắt đầu bằng 8 bài thơ, được cho là do con cháu của Cô-rê (hay Cô-ra) cảm tác.
Mà Cô-rê là ai? Cứ theo ‘sơ yếu lý lịch’ mà tra xét thì đây là người bị chôn sống vì tội đầu têu phản loạn chống Môi-se (Dân số ký 16). Không hiểu bằng cách nào mà vẫn còn sót lại được một phần hậu tự của ông, về sau được chọn là những người gác cổng Đền Thờ (1 Sử Ký 9: 19) và một phần khác là những ca sĩ và nhạc công phục vụ trong ca đoàn tại Đền Thờ (1 Sử ký 6: 31-47).
Tám chương Kinh Thánh hôm nay có thể chia thành 3 nhóm theo ba tiểu đề khác nhau. Đó là: kêu cứu cùng Chúa (TT 42-44), chúc tán Chúa là Vua (TT 45-48), và chê mấy anh giàu mà dại (TT 49).
Chúng ta không biết được bối cảnh sáng tác của những bài thơ này, nhưng rõ ràng người viết đang ở trong một hoàn cảnh rất bi đát. Bị hoạn nạn, áp bức (44: 24); bị thất trận, bị bắt làm tù binh, (44: 10-12); bị sỉ nhục, bị mắng chửi, trở thành đề tài đàm tếu của dân ngoại (44: 13-16); bị lưu lạc, không còn được thờ phượng Chúa (42: 4, 43: 2); bị người ta trêu chọc, chê giễu (42: 3, 10).
Nói chung, là vừa đau vừa nhục.
Càng nghĩ về quá khứ – về lịch sử của dân tộc, về kinh nghiệm của bản thân, nhất là những năm tháng được gần gũi Chúa, được phục vụ Chúa trong Đền Thờ của Ngài – người viết càng hối tiếc, càng đau đớn. Nhất là khi kẻ qua người lại cứ trêu ngươi: “Thế Chúa của mi ở đâu, mà mi ra nông nỗi này?”
Xưa con đi cùng đoàn dân,
Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời
Với tiếng reo mừng và ca ngợi,
Giữa đoàn dân đông dự lễ.
Bây giờ nhớ lại những điều ấy
Lòng con buồn thảm, xót xa. (42: 4)
Có lẽ đây là tâm trạng của không ít người vốn đã từng ‘vào ra’ nơi nhà Chúa, tức hội thánh của Đức Chúa Trời. Đó là những người đã từng là trưởng ca đoàn, là người hướng dẫn ngợi khen thờ phượng trong các hội thánh, đặc biệt là các hội thánh – mục vụ Việt Nam tại xứ Cọ này.
Ước gì những người ấy, giờ này – dù đang lưu lạc ở “đất Giô-đanh”, hay “núi Hẹt-môn” hoặc cao nguyên “Mít-sê-a” đi nữa – vẫn còn biết nhớ đến Chúa như “nai cái thèm khát khe nước”.
Con nai cần nước và thèm khát nước để có thể tung tăng vui sống khắp nơi. Trái lại, lạc đà thì không. Nó thể đi suốt 3 tháng mà không cần uống nước. Có ai đó đã từng bảo rằng, thật là dễ cho chúng ta trở nên giống như con lạc đà hơn là con nai trong cuộc sống đầy đủ này. Riêng bạn thì sao?
Giữa một thế giới đầy biến động và luôn thay đổi như hiện nay; trong thời điểm mà những nan đề khẩn cấp – từ mức độ cá nhân đến tầm quốc gia và quốc tế – luôn vượt trội bội phần hơn so với những giải pháp khả thi, thì đâu là chốn vững an thật sự mà chúng ta có thể chạy đến?
Hãy chạy đến chính nơi trú ẩn mà người viết Thánh Thi đã tìm thấy được.
Trong thánh thi 46, con cháu Cô-rê đã miêu tả những tai họa kinh hoàng ập xuống thế giới này: động đất, lở đất và sóng thần (c. 2-3). Và khi mọi thứ dường như mất sạch, thì nơi Trú Ẩn vững an – Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên – vẫn còn nguyên ở đó.
Phải, chính Đức Chúa Trời của Apraham, Ysac, Gia-cốp – Đức Chúa Trời mà chúng ta đang thờ phượng là Vầng Đá vững an của bao thời đại. Hãy nương náu mình nơi chính mình Ngài.
Trước khi, gấp Kinh Thánh lại, hãy làm theo sự hướng dẫn trong Thánh Thi 46: 10.
Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời;
Ta sẽ được tôn cao trong các nước,
Ta sẽ được tôn cao trên đất nầy.
Hãy gác sang bên tất cả những vướng bận đời thường và dành ít thời gian yên lặng, lắng lòng trước Chúa. Hãy trao cho Ngài tất cả những sợ hãi kín giấu nào có trong bạn.
Nếu có thể, hãy lấy một miếng bìa cứng và viết câu Kinh Thánh này vào đấy để tiện suy gẫm và học thuộc lòng. Rồi mỗi khi sự sợ hãi, như a-xít, bắt đầu gặm nhấm sự bình an trong tâm trí mình, bạn hãy rút câu này ra, mà tống khứ nó đi. Khá nhớ rằng, Nơi Trú Ẩn của bạn “hôm qua, hôm nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi” (Hê-bơ-rơ 13: 8)


Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

TỪ BÊN DƯỚI NHÌN LÊN

Thánh Thi 36-41
Sáu chương Kinh Thánh hôm nay kết thúc sách Thánh Thi thứ 1, gồm 41 bài thơ. Đây là sách có nhiều nét tương đồng như sách Sáng Thế ký trọng bộ Ngũ Kinh Môi-se.
Sáu chương này có thể chia thành ba cặp: 36-37; 38-39 và 40-41 theo ba chủ đề. Theo đó, cặp đầu tiên nói về sự chống đối từ bên ngoài hay ‘ngoại kích’. Cặp thứ hai đề cập đến những áp lực từ bên trong hay ‘nội công’. Và cặp cuối là lời chứng về chiến thắng bởi ân điển của Đức Chúa Trời mà có.
Đối diện với sự chống đối của kẻ ác, thay vì ‘dĩ độc trị độc’, ăn miếng trả miếng thì Đa-vít khuyên ‘nạn nhân’ tìm kiếm sự an ủi nơi tình yêu bất diệt của Đức Chúa Trời.


Hãy tin cậy CHÚA và làm điều lành;
Khá ở trong xứ và nuôi mình bằng đức thành tín của Ngài.
Hãy vui thỏa trong CHÚA,
Rồi Ngài sẽ ban cho bạn mọi điều lòng bạn ao ước.
Hãy phó thác đường lối của bạn cho CHÚA,
Cứ nhờ cậy Ngài, Ngài sẽ làm thành điều bạn muốn. (37: 3-5)
Thế cứ để chúng lộng hành, lấn lướt mãi à? – Không hề. Thấy dzậy chớ không phải dzậy đâu. Chúng ‘đi’ hồi nào không hay đấy. Nói cách khác, xử kẻ ác không phải là việc của chúng ta. Đó là việc của Chúa. Việc của chúng ta là tiếp tục tin cậy Chúa, tiếp tục làm lành và giao thác tương lai mình trong tay Chúa.
Đối với áp lực từ bên trong bởi tội lỗi và sự nản lòng thì Đa-vít tìm kiếm sức lực trong sự giúp đỡ của Chúa. Thánh thi 38, 39 đặc tả những hậu quả của tội lỗi hơn là hành vi phạm tội. Nào là bị lên án, bị bỏ rơi, cô đơn, nhục nhã, đau đớn, …
Thường thì trong những cảnh ngộ như vậy, người ta luôn bị mặc cảm tội lỗi đè nặng. Người phạm lỗi luôn ấm áp tư tưởng bỏ cuộc, thối lui, xa lánh Chúa, tránh mặt anh em đồng đạo.
Thế nhưng, Đa-vít thì khác. Ông không bi lụy trong hậu quả của tội lỗi, không chìm đắm trong hối tiếc mà là vận hết … nội công để bò đến cùng Chúa, dồn chút hơi tàn kêu lên với Chúa.
Lạy Chúa, bây giờ con trông mong gì?
Niềm hi vọng của con ở nơi Chúa.
Xin giải cứu con khỏi mọi vi phạm;
Đừng khiến con trở nên sự nhuốc nhơ cho kẻ ngu dại. (39: 7-8)
Đây cũng chính là phản ứng mà Chúa muốn nhìn thấy nơi mỗi chúng ta khi gặp phải cảnh ngộ tương tự. Vì Lời Chúa đoan chắc rằng, “còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín và công bình sẽ tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (1 Giăng 1: 9)
Sau hết, đối cùng những hoàn cảnh tối tăm trong đời như bệnh tật, tai ương thì người của Chúa – thay vì nhìn vào nan đề của mình – lại tập chú nơi lòng nhân từ và sự thương xót dư dật của Đức Chúa Trời. Thật là một kiểu mẫu cầu nguyện đáng để chúng ta noi theo.
Nói về Chúa thay vì nói về nan đề, hoạn nạn của mình. Xin Chúa giải cứu, chữa lành cho mình nhưng không phải vì cớ mình mà là vì cớ Chúa, chính xác là vì cớ Danh Chúa. (Đừng để kẻ thù coi thường Chúa, sỉ nhục Danh Chúa). Xin Chúa giải cứu, chữa lành cho mình còn là vì … người khác nữa.
Nhiều người sẽ thấy điều đó và kính sợ
Đem lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va. (40: 3)
Nguyện tất cả những ai tìm cầu Chúa
Được vui vẻ và hoan lạc nơi Chúa;
Nguyện những người yêu mến sự cứu rỗi của Chúa
Luôn nói rằng: “Đức Giê-hô-va thật vĩ đại!” (40 : 16)
Và bây giờ, đã đến lúc chúng ta cần phải áp dụng những kiểu mẫu cầu nguyện này vào thực tiển cá nhân của mình. Có thể bạn đang bị hoạn nạn, yếu đau; có thể bạn đang bị mặc cảm tội lỗi dày vò, không dám đến gần Chúa hoặc có thể bạn đang bị vu khống, bị công kích, hăm dọa? Hãy chọn 1 trong 3 kiễu mẫu cầu nguyện, phù hợp với trường hợp của mình và … phát hết cỡ volum đi.


Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2015

TÂM ĐIỂM TIÊN TRI

Dừng Chân Lần Thứ 21
NHÌN LẠI
Sách Gióp giới thiệu cho chúng ta về QUYỀN CHỦ TỂ của Đức Chúa Trời, còn Thánh Thi thì giúp ta học biết THỜ PHƯỢNG Chúa.
Thánh Thi là sách dài nhất trong Kinh Thánh, và cần phải dành trọn một tháng thì ta mới có thể … bước qua đời ‘hắn’. He he. Thế nhưng, đừng để cho độ dài (hay dày) của ‘hắn’ làm nhụt chí anh hùng của bạn. Hãy xem ‘hắn’ như là bộ hợp tuyển “150 tình ca bất hủ”, mô tả những thuộc tính đa dạng của Đức Chúa Trời, do Đa-vít, A-sáp, Môi-se, Salomon và một số người khác phổ nhạc đang khi họ đồng đi với Chúa.
Ta có thể tìm thấy nơi Thánh Thi đủ loại tâm trạng: phấn khích và chán nãn; vui sướng và buồn khổ; hy vọng tràn lan và căm giận … trào dâng. Những trải nghiệm rất người ẩn sau những vần thơ đã làm cho từng lời của tác giả trở nên gần gũi, sống động với người đọc thuộc mọi thế hệ, mọi vùng miền.
(Đừng bỏ qua những chú thích lúc mở đầu của đại đa số các bài thơ. Những câu chú thích đó không phải là Lời Chúa, nhưng cung cấp cho người đọc những thông tin bổ ích về hoàn cảnh ra đời của Thánh Thi đó). Cũng có thể, bạn sẽ có ước muốn đọc lại những phần mà chúng ta đã đi qua trong sách 2 Samuen và 1 Sử ký, để hiểu thêm về bối cảnh lịch sử của những bài thơ mà Đa-vít đã viết cũng nên.
Thánh Thi còn hơn là một tuyển tập thơ ca. Hãy xem nó như là lá thơ tình của Chúa gởi cho bạn. Chúa muốn bạn học biết Ngài nhiều hơn, và một khi biết Ngài sẽ dẫn bạn đến chỗ yêu Ngài – Đấng chăn giữ, Đấng Hướng dẫn, Đấng Chu cấp, Đấng Bảo vệ và là Vua của chính bạn.
NHÌN LÊN
Thánh Thi còn hơn là một kho báu thi ca và những bài chúc tụng. Nó còn là nơi ẩn chứa của rất nhiều lời tiên tri về Đấng Cứu Thế (Mesia/Christ) trong kinh Cựu Ước.
Hàng trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế ra đời, Đức Chúa Trời đã dùng ngòi bút của những thi sĩ được chọn, báo trước cách chính xác những chi tiết liên quan đến sự giáng sinh, đến đời sống, chức vụ, sự chết và sự sống lại của Đức Giê-xu, người Na-xa-rét.
Khi tiếp tục đọc suốt kinh Cựu Ước, chúng ta sẽ thấy được những lời tiên tri liên quan đến Chúa Cứu Thế ngày càng rõ ràng hơn, cụ thể hơn.
Dưới đây là một phần những lời tiên báo đó, được tìm thấy trong các Thánh Thi mà chúng ta đã đọc xong và việc ứng nghiệm cũng đã được xác chứng trong những sách của kinh Tân Ước.
§  Muôn vật sẽ quy phục dưới chân Ngài                        (8: 6) – (Hê-bơ-rơ 2: 8)
§  Ngài sẽ sống lại từ trong kẻ chết                               (16: 10) – (Mac 16: 6-7)
§  Ngài sẽ bị Đức Chúa Trời lìa bỏ                                 (22: 1) – (Mathiơ 27: 46)
§  Ngài sẽ bị khinh bỉ và chế nhạo                                 (22: 7-8) – (Luca 23: 35)
§  Tay và chân Ngài sẽ bị đâm thủng                             (22: 16) – (Giăng 20: 25, 27)
§  Quân lính sẽ bốc thăm để chia áo choàng của Ngài      (22: 18) – (Mathiơ 27: 35-36)
§  Không một chiếc xương nào của Ngài sẽ bị gãy           (34: 20) – (Giăng 19: 32-36)
§  Ngài sẽ bị thù ghét cách vô cớ                                   (35: 19) – (Giăng 15: 25)
NHÌN TỚI
Hãy tưởng tượng rằng bạn được giao nhiệm vụ phải báo trước về việc ra đời của một em bé sau … 800 năm nữa! Bạn phải báo trước cách chính xác tên của bé, nơi sinh, thời gian sinh, bối cảnh ra đời, nó sẽ sống và phục vụ thế nào, rồi chết ra làm sao và những lời cuối cùng của nó trước lúc chết.
“Tại sao lại phải như thế? Không cách chi làm được!”
Chính xác. Hoàn toàn chính xác. Trừ khi được Đức Chúa Trời bày tỏ cách ‘hai năm rõ mười’, còn bằng không thì không một ai có thể làm được việc này.
Bạn có vui mừng vì được thờ phượng và phục vụ một Đức Chúa Trời, Đấng “đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên” không ? (Esai 46: 10).
Hãy cầu xin Đức Thánh Linh giúp đỡ bạn chia sẻ lại những gì mình đã đã học được từ những lời tiên tri về Chúa Cứu Thế trong sách Thánh Thi cho một người khác trong tuần này, và đem người ấy đến “điểm hẹn tình yêu” để gặp gỡ Ngài cách cá nhân, như bạn đã và đang vui hưởng.
Nào lên đường thôi!


Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

NHẠC KHÚC TUYÊN NGÔN

Thánh Thi 31-35
Năm chương Kinh Thánh hôm nay như một bản nhạc hiệu đầy cung bậc, từ rên rỉ ỉ ôi đến … thôi rồi sung sướng!
Hai Thánh Thi ngoài cùng (31, 35) là lời cầu nguyện tín thác nơi Đức Chúa Trời khi bị … ‘giặc ngoài’ vây phủ, còn hai chương liền kề (32, 34) là lời cầu nguyện xử lý … ‘thù trong’ (tội chưa xưng nhận và nỗi sợ hãi kín giấu) và cuối cùng, đỉnh cao cảm hứng là một thánh thi tuyệt đẹp ngợi khen Thiên Chúa, vì “Kế hoạch của Chúa được vững lập đời đời, Tư tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia.” (33: 11)
Nếu bạn đang ‘tứ bề thọ địch’ thì 2 bài cầu nguyện của Đa-vít trong Thánh Thi 31 và 35 là khuôn mẫu tuyệt vời để bạn cóp nguyên văn. Phần để … méc với Chúa (31: 1-18), phần để … ‘tăng lực’ cho chính mình (31: 19-24). Riêng Thánh thi 35 thì sẽ vô cùng hiệu quả trong trường hợp bạn bị (hoặc sắp bị) uýnh cách oan ức. Hãy học cách giao đứt đối thủ cho Chúa xử lý.
Muốn cự cãi, muốn uýnh nhau à? Cứ tự nhiên. Đây là vị đại diện toàn quyền của ngộ. Mấy ‘nị’ cứ tha hồ nhé. Chúa ơi, xin ‘chăm sóc’ chúng chu đáo giùm con nha.
Những câu từ trong Thánh Thi 35 mạnh mẽ và đầy tính chiến đấu hơn rất nhiều nếu so với Thánh Thi 31. Những lời cầu nguyện này giống như những cuộc gọi pháo binh yểm trợ trong chiến tranh vậy. MSB tui đã có vài lần phải sử dụng “cuộc gọi yểm trợ” TT35 này, kết hợp với sự kiêng ăn, và kết quả xảy ra cấp kỳ, vô cùng kinh khiếp. Mọi sự liền đổi chiều 180o: kẻ bị uýnh được thoát hiểm trong gang tấc, còn người ‘ra đòn’ thì bổng dưng … ‘đứt bóng’! Không đứt bóng thì cũng xuất huyết dạ dày hoặc bị đơ thần kinh. Thật đấy.
Như đã đề cập trong phần ‘nhạc dạo’ ở trên, thì hai Thánh Thi 32, 34 là kiểu cầu nguyện xưng tội. Điểm đặc biệt trong hai lời cầu nguyện này là nhấn mạnh đến lòng nhân từ của Chúa, Đấng sẵn lòng tha thứ cho những ai bằng lòng công khai xưng nhận sai phạm của mình hơn là nói về tội lỗi cụ thể nào đó.
Theo đánh giá của Chúa, thông qua môi miệng của Đa-vít, thì người mà “lỗi được tha, tội được xóa” bởi Chúa, mới chính là người có phước (32: 1-2). Đây là Cội Phước, hay là Phước của phước. Đây là khởi đầu của mọi mối phúc thật trong đời sống của một người. Chính vì biết rõ như thế nên Đa-vít đã mạnh dạn tuyên bố “Con đã thú tội cùng Chúa, Không giấu gian ác con; Con nói: 'Con sẽ xưng các sự vi phạm con với Đức Giê-hô-va, Và Chúa tha tội cho con.’”  (32: 5)
Trong Thánh Thi 32 còn có câu này cũng … ‘đụng chạm’ lắm nè: “Đừng như con ngựa và con la là vật vô tri. Phải dùng hàm khớp và dây cương mới giữ chúng được. Nếu không, chúng chẳng chịu đến gần con.”  (c. 9). Tự giác nha bà con, chịu khó … lớn giùm nghe. Nhớ rằng mình là chiên, chớ hổng phải ngựa hay la nhé. Đừng để Chúa phải dùng ‘biện pháp mạnh’ mới chịu đi à nha.
Hoặc là “nhiều nỗi đau đớn”, hoặc là “sự nhân từ” của Chúa bao phủ (32: 10), tùy nghi chọn lựa nhé.
Tuy cùng đề cập đến lòng nhân từ của Đức Chúa Trời như Thánh Thi 32, nhưng Thánh Thi 34 lại kêu gọi người ta đáp ứng cách tích cực đối với bản tính nhân từ của Chúa. Không phải vì biết Chúa nhân từ, đầy lòng thương xót, dồi dào sự tha thứ mà ta có thể tiếp tục sống một đời bất kính. Ngược lại, thái độ cần phải có của chúng ta đối với lòng nhân từ của Đức Chúa Trời là “kính sợ Chúa và lánh khỏi điều ác”, kể cả “lời ác” lẫn “việc ác” (34: 12-14)
Cuối cùng, Thánh Thi 33 là lời cầu nguyện thuộc thể loại cảm tạ và ngợi khen. Phần đông chúng ta thường hay hiểu rằng hễ cảm tạ hay cảm ơn thì phải có cụm từ “con tạ ơn Chúa” hay “con cảm ơn Chúa”, còn đụng đến ngợi khen có nghĩa là … hát. Vâng, đúng là có mấy ‘món’ này trong lời cảm tạ và ngợi khen. Tuy nhiên, cảm tạ và ngợi khen Chúa còn nhiều hơn là như thế.
Đầy đủ phải là ri nè: cảm tạ và ngợi khen là HAI trong ba phương cách tiếp cận Đức Chúa Trời của tâm linh con người (cách thứ ba là thờ phượng). Cảm tạ và ngợi khen đem lại cho chúng ta khả năng kết nối với hai phương diện khác nhau của bản tánh Chúa.
Bằng việc cảm tạ tất cả những gì thiện lành và tốt đẹp mà Chúa làm cho mình, chúng ta xưng nhận sự nhân từ của Ngài. Bằng việc ngợi khen, tức là thái độ đáp ứng đúng đắn trước ân sủng lớn lao của Chúa, chúng ta nhận biết sự vĩ đại của Ngài.
Hãy ghi nhớ định nghĩa này và đọc lại một lần nữa Thánh Thi 34 cách chậm rãi để ‘ngấm’ được hết những gì mà Đa-vít đã tuyên rao. Nếu bạn có khả năng hãy phổ nhạc Thánh Thi này, còn nếu không thì hãy dùng nó để ngâm, để ca, để xướng, để họa … tùy thích. Miễn là bạn đừng quên rằng mình đang ‘mượn’ nó để bày tỏ lòng mình trước lòng nhân từ và sự vĩ đại của Chúa Toàn Năng.
“Hỡi những người trung tín, hãy reo mừng trong CHÚA.
Ca ngợi Ngài là điều thích đáng cho người ngay thẳng.
Hãy dùng đàn hạc ca ngợi CHÚA,
Hãy ca tụng Ngài với đàn lia mười dây.
Hãy hát cho Ngài một bài ca mới.
Hãy gẩy đàn dây thật hay với tiếng reo vang (33: 1-3)