Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

TRÔNG & ĐỢI

Dừng Chân Lần Thứ 32 
NHÌN LẠI
Tuần rồi chúng ta đã chứng kiến cảnh Giu-đa nhận được trọn gói những gì mà tiên tri Ê-xê-chi-ên đã cảnh báo. Như một người lính canh cần mẫn, Ê-xê-chi-ên bảo vệ nhà Y-sơ-ra-ên bằng những lời cảnh báo về sự phán xét hầu đến. Ông rao báo, rao báo không ngừng nghỉ, nhưng không một lời nào của ông được người ta lắng nghe. Rồi cuối cùng, điều gì đến đã đến, vì “Thành đã bị thất thủ rồi!” (33: 21).
Thật ra thì dân sự Chúa muốn nghe lời Chúa, chỉ có điều họ không chịu áp dụng những gì đã nghe vào trong đời sống thực tiễn của mình mà thôi. Họ thuộc típ: “học không đi đôi với hành”.
Do đó, một khi biết được điều gì nên làm thì chúng ta cần phải chuyển thành hành động cụ thể ngay, tức là thực hiện những gì mà mình đã biết.
Giống như chiên không có người chăn, như những chiếc xương chết khô, rời rạc, cả một dân tộc nằm dưới sự cướp bóc và tàn phá cách không thương tiếc bởi các nước láng giềng ngoại giáo. Thế nhưng kể cả trong lúc dân sự Chúa thất bại, thì mục đích của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục tỏa sáng, vì Ngài muốn cho mọi dân, mọi nước nhận biết rằng, chỉ mỗi mình Ngài – Giê-hô-va Đức Chúa Trời – là CHÚA mà thôi. Ngoài Giê-hô-va Đức Chúa Trời ra thì không có một CHÚA nào khác.
Sách tiên tri Ê-xê-chi-ên kết thúc với hình ảnh vinh quang CHÚA trở lại Đền Thờ. Điều đó minh chứng rằng, Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục công việc của Ngài đối với dân sự Ngài và Đền Thờ của họ.
Trong khi đó, Đa-ni-ên rơi vào cảnh tương phản hoàn toàn. Bị dứt khỏi thành phố yêu thương Giê-ru-sa-lem, Đa-ni-ên bị buộc phải bắt đầu “chương trình nội trú” ba năm tại học đường Babilon. Trong việc ăn uống và giải mộng của mình, Đa-ni-ên đã chứng tỏ cho những kẻ giam giữ mình biết rằng “có một Đức Chúa Trời ở trên trời” (2: 28), là Đấng giải bày những điều huyền nhiệm của thế giới này và là Đấng bảo vệ dân lưu đày của Ngài nơi đất khách quê người.
NHÌN LÊN
Cuộc sống được miêu tả như là “một tuyển tập những cuộc khủng hoảng, được liên kết cách khéo léo bởi những vụn vặt đời thường mỗi một ngày”. Những mảnh vụn đời thường tại Giê-ru-sa-lem vào lúc thiếu thời, đã mở lối cho đức tin của Đa-ni-ên vượt qua mọi cơn khủng hoảng nơi hải ngoại.
Bị bắt như là một tù binh chiến tranh, Đa-ni-ên ngay sau đó phải đối diện với hàng loạt sự chọn lựa:
“Có nên ăn những thức ăn mà họ dọn cho mình không ta?”, “Có nên chấp nhận tên mà họ đặt cho mình không?”, “Có nên kể công về những lần giải mộng cho vua không?”, “Có nên quỳ lạy tượng vàng không? Nếu không là chết chắc à”
Bố mẹ của Đa-ni-ên có thể không biết trước được những nguy hiểm mà con trai mình sẽ phải đối diện tại Babilon, nhưng họ sẽ rất tự hào vì cách vận dụng đức tin đầy khôn ngoan vào trong thực tiễn cuộc sống mỗi ngày của cậu ấy.
Cho nên chẳng có gì lạ khi danh phận của Đa-ni-ên ngày một thăng tiến. Không còn là một thiếu niên nhập cư, Đa-ni-ên đã lớn lên, và trở thành một người nam của Đức Chúa Trời, người mà sự khôn ngoan và tài xử lý giờ đã nên truyền thuyết.
NHÌN TỚI
Dù Đa-ni-ên không hề giảng một bài nào nhưng những gì ông làm trong cuộc đời của mình đúng là những bài giảng sống. Đó là sự chọn lựa mà ông đã làm; là sự khôn ngoan mà ông đã thể hiện; là sự ưu tiên một cho sự cầu nguyện với Chúa, bất chấp mọi nguy hiểm đến tính mạng; và là sự mẫn cán đối với mỗi nhiệm vụ được giao phó.
“Dám là một Đa-ni-ên” không chỉ là tựa đề của một bài thánh ca. Đó là thách thức vô tận đối với mỗi thế hệ mới trong việc trở nên “những tác nhân thay đổi” của Đức Chúa Trời tại bất cứ nơi nào mà Ngài sai phái họ đến. Có thể chưa và không bao giờ bạn nhìn thấy được bên trong của cung vua (hoặc trong … hang sư tử), nhưng bạn có thể chắc chắn là cuộc đời mình sẽ luôn đầy dẫy sự phấn khích và thách thức.
Bằng thói quen ăn uống … ‘đúng chuẩn’ của mình, Đa-ni-ên đã minh chứng rằng, thân thể của ông là đền thờ của Đức Chúa Trời. Thân thể của bạn chỉ là một phương tiện mà Đức Chúa Trời ban cho để thực hiện ý muốn của Ngài ở mặt bên này của thiên đàng mà thôi.
Thế thì, bạn có thật sự chăm sóc tốt thân thể của mình như đáng phải có không? Tức là bạn có ăn uống đủ dinh dưỡng, có nghỉ ngơi đúng mực, có thường xuyên luyện tập thể dục và tránh xa những chất gây hại không? Nếu không, thì hãy suy gẫm về tấm gương của Đa-ni-ên cách cẩn thận và rồi hãy “dám là một Đa-ni-ên”!


Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

LÒ LUYỆN SIÊU NHÂN

Đanien 1-3 
Tạm biệt Ê-xê-chi-ên, với những lời tiên tri trĩu nặng tình dân tộc, nay chúng ta cùng bắt đầu gặp gỡ  tiên tri Đa-ni-ên, một vị tiên tri thuộc hàng quý tộc, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cùng cảnh lưu vong nơi đất khách quê người như nhau, nhưng tiên tri Ê-xê-chi-ên thì sống và phục vụ giữa thành phần lao động bình dân, còn Đa-ni-ên thì sống và phục vụ trên chót vót đỉnh cao danh phận. Sứ điệp tiên tri của Ê-xê-chi-ên phần lớn là dành cho dân sự Chúa, còn sứ điệp của tiên tri Đa-ni-ên mang tầm quốc tế, chính xác hơn là liên quan đến hậu thế, đến cả dòng lịch sử của loài người.
Trong Kinh Thánh có hai sách được Đức Chúa Trời ban cho con loài người chúng ta để biết được chương trình của Ngài trong lịch sử. Đó là sách Đa-ni-ên và sách Khải Huyền. Đây là hai sách trong Kinh Thánh mà những lời tiên báo trong đó chưa được ứng nghiệm hoàn toàn. Sách Khải Huyền giải thích cho sách Đa-ni-ên, còn sách Đa-ni-ên thì đặt nền tảng để hiểu sách Khải Huyền. Do đó, để biết được chương trình của Đức Chúa Trời dành cho tương lai, thì trước hết, chúng ta cần phải hiểu được sách Đa-ni-ên.
Thế nhưng, Chúa lại sử dụng 2 ‘chốt chặn’ trong những mặc khải của Ngài về tương lai. Rõ ràng là có chủ ý rồi. Chốt thứ nhất, là các sứ điệp tiên tri luôn được ‘bọc’ trong dạng ngôn ngữ biểu tượng. Còn chốt thứ hai nằm ở chỗ Chúa muốn chúng ta hiểu được những phẩm chất đạo đức mà Ngài đòi hỏi nơi chúng ta trước khi kế hoạch mang tính tiên tri này bắt đầu trở nên có ý nghĩa.
Sáu chương đầu tiên của sách tiên tri này rất nên được nghiền ngẫm và thậm chí là nên ‘gối đầu giường’ đối với những con cái Chúa đang làm việc trong các cơ quan công quyền mà người lãnh đạo và phần lớn đồng nghiệp là những người không tin thờ Chúa.
Phần Kinh Thánh này cũng đặc biệt đáng đọc đối với các bạn Cơ-đốc nhân tuổi teen. Ấy là vì những nhân vật được mô tả trong đó cũng tuổi teen như rứa, sống trong một môi trường đầy cám dỗ, không có gia đình hay cha mẹ nào kiểm soát cả, nhưng họ vẫn vững vàng đức tin nơi Chúa, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Gọn một lời: trong bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào nếu MUỐN thì người tin Chúa vẫn có thể sống một đời tin kính, vẫn giữ vững đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời.
Còn làm răng mà sống được như thế thì giờ ta đi vào cụ thể nhé.
Chương 1, giới thiệu 4 gương mặt trẻ dòng dõi quý tộc Giu-đa là Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. Họ được chọn là những “hạt giống đỏ” trong chính phủ của cường quốc số một thế giới thời bấy giờ.
Vị vua của chính phủ ngoại giáo này có một kế hoạch rất căn cơ nhằm biến những chàng trai trẻ này thành người Babilon hoàn toàn. Bước một: đổi thành tên … Tây (Á). He he. Tiếp theo, tập ăn những món ăn … Tây. Ác nỗi là những món mà họ được ‘mời’, tức những món khoái khẩu của người Babilon, lại là những món mà Chúa truyền bảo con dân Chúa không được ăn.
Vậy, những thanh niên này đã ‘kiêng’ những món đó như thế nào?
Không cương đâu nha. Họ rất khôn ngoan, biết thân biết phận. Không phải khôn ngoan hay biết thân biết phận theo kiểu thỏa hiệp mà là rất nhẹ nhàng đến cầu xin ân huệ nơi lãnh đạo trực tiếp của mình là ‘sếp’ Ham-mên-xa. Để ý là họ không làm khó Ham-mên-xa vì niềm tin của mình nơi Chúa. Đó là cách xử lý tình huống cực khéo mà mỗi một chúng ta cần phải học. Vẫn có thể đẹp lòng Chúa, đẹp lòng người ta mà không bao giờ thỏa hiệp. Nhớ nha.
Chính niềm tin sắt đá, kiên định của những người trai trẻ này đã bảo vệ họ khỏi mọi sự tàn phá, hủy hoại bởi những kiến thức ngoại giáo mà họ phải học trên ghế nhà trường hoàng cung mỗi ngày.
Thế nhưng, đỉnh điểm của sự thử luyện là khi “ba chàng ngự lâm pháo thủ” của chúng ta được yêu cầu phải quỳ lạy trước tượng vàng mà vua vừa dựng lên giữa muôn trùng cán bộ chính quyền các cấp trong toàn đế quốc.
Đây là lúc mà nguyên tắc sống: “người ta sao mình vậy” lên tiếng mạnh mẽ chưa từng có. Thế nhưng, trước sau như một ba chàng tuổi teen này vẫn một mực bảo lưu quan điểm:
“Tâu vua Nê-bu-cát-nết-sa, chúng tôi không cần trình lại với vua vấn đề nầy. Nếu chúng tôi bị ném vào lò lửa, thì thưa đức vua, Đức Chúa Trời mà chúng tôi thờ phượng có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực và khỏi tay vua. Còn nếu Ngài không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phục vụ các thần của vua và không thờ lạy pho tượng vàng mà vua đã dựng” (3: 17-18).
Rất rõ ràng, rất dứt khoát, họ đã bày tỏ lòng tin cậy của mình nơi Đức Chúa Trời, dù sống hay thậm chí phải chết.
Nhưng người trẻ tuổi này đã học được một điều gì đó quan trọng hơn cả sự sống. Ấy là thà phải chết mà vâng lời Chúa còn hơn là sống mà không vâng lời Ngài. Lợi ích cá nhân của việc đồng đi và đồng chết với Chúa bao giờ cũng trổi hơn muôn phần so với việc được sống sau khi đã không vâng lời Ngài.
Đức Chúa Trời đã tôn quý những người này trong hình thức thăng chức cho họ, sau khi bảo vệ họ và đem họ ra khỏi lò lửa hực. Thật sự, họ đã bước ra khỏi lò lửa mà “chẳng có một sợi tóc nào trên đầu họ bị sém, quần áo họ không bị nám, ngay cả mùi lửa cũng không dính vào họ (3: 27)
Những người trẻ tuổi này đã đi qua lò thử thách và được đóng nhãn OK bởi chính Đức Chúa Trời. Họ đã được thử luyện và họ đã xuất sắc vượt qua. Việc họ đã giữ vững đức tin của mình trước những sự cám dỗ, trước những cơn thử thách, chính là lời chứng sống động cho những bậc cầm quyền về một Đức Chúa Trời duy nhất, đầy quyền năng, hiện đang sống và đang cầm quyền tể trị trên mọi thể chế, mọi vương quyền và mọi quốc gia.
Hãy nghe lời xưng nhận của đại đế Nê-bu-cát-nết-xa:
“Tôn ngợi Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô, Đấng đã sai thiên sứ Ngài đến và giải cứu các đầy tớ Ngài. Họ biết nhờ cậy Ngài, dám trái mạng vua và liều bỏ thân thể mình để không phục vụ và thờ phượng thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời mình. Vì vậy, ta ban chiếu chỉ nầy: Bất kỳ dân tộc nào, quốc gia nào, ngôn ngữ nào có người xúc phạm đến Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-nê-gô thì sẽ bị xé ra từng mảnh, và nhà nó sẽ trở thành đống phân; vì không có thần nào khác có thể giải cứu được như thế” (3: 28-29)
Bạn cũng có thể làm vinh danh Đức Chúa Trời cùng một cách như thế trong công ty, trong cơ quan, trong trường học của bạn. Chúa đang dõi theo bạn, và những người lãnh đạo, đồng nghiệp ngoại giáo của bạn đang chờ đợi để được biết Đức Chúa Trời qua đức tin năng động của bạn đấy.


Thứ Tư, 26 tháng 8, 2015

MỌI SỰ ĐỀU NÊN MỚI


Ê-xê-chi-ên 44-48
Ê-xê-chi-ên tiếp tục rao báo sứ điệp về một ngày mai tươi sáng cho những người đồng hương của mình đang còn trong phận lưu đày tại Babilon. Phần cuối sự hiện thấy của ông liên quan đến sự thờ phượng trong Đền Thờ mới vào kỳ tương lai.
Tất cả các của lễ (thiêu, chay, bình an, chuộc tội, chuộc lỗi, rưới rượu, tức lễ quán) và phần lớn các kỳ lễ trong thời Sa-lô-môn đều được tuân giữ vào lúc ấy. Và trong sự thờ phượng Chúa ở thời kỳ mới này, có 3 thành phần tham dự được nêu tên trực tiếp: thầy tế lễ thuộc con cháu của Xa-đốc, những người Lê-vi và một ông hoàng (prince).
Hẳn nhiên, ông hoàng này (mà hầu hết các bản Kinh Thánh tiếng Việt đều dịch là vua) không phải là Đức Chúa Giê-xu như nhiều người lầm tưởng. Nhưng ông ấy là ai thì đúng là đến nay chưa một ai đưa ra được câu trả lời cho thỏa đáng. Chỉ biết rằng, ông ấy có vợ con đàng hoàng, năm nào cũng cần được chuộc tội và là … ‘nhà tài trợ chính’ trong việc chu cấp các của lễ cho các kỳ lễ.
Đúng là còn nhiều điều chưa rõ ràng trong phần Kinh Thánh hôm nay, nhưng đừng quên là lúc ấy Ê-xê-chi-ên buộc phải sử dụng một vốn từ giới hạn để diễn tả những sự vật, những hoạt động mà có thể là vào thời của ông (và có thể là cả thời của chúng ta) chưa hề có hoặc chưa hề được biết đến. Cũng giống như Giăng về sau này trong sách Khải Huyền đã ‘tường thuật trực tiếp’ tình hình thế giới trong những ngày cuối cùng bằng ngôn ngữ của thế kỷ thứ I vậy thôi.
Trong 4 chương Kinh Thánh hôm nay, chúng ta chỉ sẽ chọn ra vài điểm nhấn để … nhấm mà thôi (chớ còn liệt kê cho hết những sự dạy dỗ thì ‘chéc chén lòa’ thời lượng không cho phép rồi). He he
Trước hết là chuyện chỉ có con cháu thầy tế lễ Xa-đốc mới được đảm nhiệm chức vụ thánh, tức là được vào ra trong sự hiện diện đầy vinh hiển của Đức Chúa Trời, chớ không phải tất cả người Lê-vi như quy định của luật Môi-se.
Lý do? – Ông ấy trung tín với chức phận được giao (44: 15; xem thêm: 2 Samuen 15: 24-29), còn toàn bộ những người Lê-vi thì bất trung (44: 10).
Tuy không bị loại bỏ vĩnh viễn nhưng những người hầu việc Chúa bất trung này không còn được Chúa tín nhiệm trong những chức phận cao hơn trong ngày tương lai, khi Chúa trở lại ngự giữa dân sự của Ngài. Hỡi những người hầu việc Chúa – những thầy tế lễ của ngày hôm nay – xin hãy nhìn vào đấy mà răn mình!
Tiếp theo, khi Chúa trở lại thì mọi sự đều sẽ thay đổi, kể cả ranh giới địa lý của một quốc gia (47: 13-48: 35). Mà trong trường hợp cụ thể ở đây là quốc gia Israel.
Lãnh thổ tương lai này lớn hơn rất nhiều so với lãnh thổ được đề cập trong Dân Số Ký 34 hoặc lãnh thổ mà dân Y-sơ-ra-ên, dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, đã chiếm hữu được (Giô-suê 13:1 – 21:45). Đây chính là lãnh thổ mà Đức Chúa Trời đã hứa với Apraham (Sáng Thế Ký 15: 18-21). Và đây cũng chính là điều khiến cho những người Giu-đa đang bị phu tù tại Babilon tràn trề hy vọng.
Ngày ấy chắc chắn sẽ đến. Vì điều chi Đức Chúa Trời đã hứa thì Ngài cũng có quyền làm cho trọn (Roma 4: 21).
Chưa hết, một khi Chúa trở lại thì cả địa hình, lẫn môi trường cũng sẽ thay đổi.
Cho đến tận hôm nay thì trong thành phố Jerusalem không có một con sông nào. Thế nhưng, ngày đến sẽ có một con sông xuất phát từ Đền Thờ Chúa, chảy về hướng đông, rồi nhập vào sông Giô-đanh, mang dòng nước sống tươi mát từ nơi chính Chúa, đem sự chữa lành đến mọi nơi – trước là Biển Chết, và sau đó là những vùng sa mạc khô cằn phía Nam (47: 1-12).
Rất nhiều người cho rằng “con sông ra từ Đền Thờ” này chỉ là biểu tượng, nên được hiểu theo nghĩa bóng mà thôi. Vâng, chúng ta có thể rút ra được nhiều sự dạy dỗ hay bài học áp dụng thuộc linh từ hình ảnh con sông đặc biệt này. Thế nhưng, con sông này là hoàn toàn có thật. Nó chắc chắn sẽ xuất hiện tại Jerusalem.
Khi mô? – Khi Đức Chúa Giê-xu tái lâm.
Kinh Thánh cho biết rằng, khi Chúa tái lâm thì “núi Ô-liu sẽ chẻ làm đôi, từ đông sang tây, tạo thành một thung lũng rất lớn. Phân nửa núi sẽ lui về phía bắc, và phân nửa về phía nam và rồi “ngày ấy, nước ban sự sống sẽ chảy ra từ Giê-ru-sa-lem, phân nửa ra biển đông, phân nửa ra biển tây, chảy luôn suốt cả mùa hè và mùa đông” (Xachari 14: 4, 8). Đây chính là “con sông, mà các dòng nước nó làm vui thành Đức Chúa Trời, là nơi ngự thánh của Đấng Chí Cao đã được đề cập đến trong Thánh Thi 46 đấy.
Hãy tưởng tượng xem cảnh Biển Chết mà có cá. Không chỉ có cá, mà còn có nhiều và đủ loại cá như ở Địa Trung Hải nữa cơ. Biển Chết ngày ấy sẽ tràn đầy sự sống và những vùng sa mạc khô cằn sẽ trở nên những vườn cây ăn trái sum suê suốt 4 mùa xuân hạ thu đông!
Thật đúng là một sứ điệp đầy hy vọng cho một dân tộc đang trong cảnh ly tán nơi đất khách quê người. Và tất cả đều phải được bắt đầu tại “bàn thờ trước mặt Chúa” (41: 22).
Dù là sự hồi sinh của một dân tộc, hay là sự phấn hưng của một hội thánh, một gia đình hay một cá nhân thì tất cả cũng phải bắt đầu tại bàn thờ dâng sinh tế trước mặt Chúa. Ngày hôm nay, “bàn thờ dâng sinh tế trước mặt Chúa” chính là thập tự giá của Đấng Christ. Nếu bạn chưa thật sự bắt đầu ở chân thập tự giá, thì dù có sinh ra trong gia đình có đạo đi nữa, bạn cũng chưa được cứu đâu đấy.
Nếu bạn chưa từng được hưởng ơn cứu rỗi, thì hãy nhanh chóng tiến đến chân thập tự giá, ăn năn tội lỗi của mình, dâng trọn đời mình cho Chúa và chân thành mời Đức Chúa Giê-xu bước vào lòng làm Cứu Chúa của riêng mình. Còn nếu bạn đã có Chúa Giê-xu ngự trong ngai lòng rồi, thì hãy nhanh chóng bước vào dòng sông sự sống – hình bóng của Đức Thánh Linh – để được nếm trải những mức độ sâu nhiệm càng hơn trong hành trình tăng trưởng thuộc linh.
Đầu tiên là bước đi trong Đức Thánh Linh (mắt cá chân), tiếp theo là cầu nguyện trong Đức Thánh Linh (đầu gối), tiếp theo là trang bị mọi khí giới thuộc linh (thắt lưng) và cuối cùng là chìm ngập trong quyền năng của Đức Thánh Linh (bơi lội).
Đừng do dự, sợ hãi. Chúa đang chờ đợi bạn. Chúa “đang ngự tại đó” – Ngài là Giê-hô-va Shama! (48: 35)


Thứ Ba, 25 tháng 8, 2015

ĐỀN THỜ MỚI

Ê-xê-chi-ên 40-43
Hai mươi năm về trước, Ê-xê-chi-ên đã thực hiện một chuyến du lịch về Jerusalem trong một phương tiện “siêu hình, siêu tốc” để công bố sự sụp đổ của nó (8: 1-3). Giờ đây, trong chuyến đi tương tự, ông trở lại thành đô đã bị hủy phá này để tiên báo về sự tái thiết của nó.
Phần đầu tiên trong sự hiện thấy cuối cùng của Ê-xê-chi-ên, là 4 chương (40-43) mà chúng ta đọc hôm nay, tập trung mô tả về Đền Thờ Chúa – trung tâm mọi sinh hoạt của xã hội và dân tộc Israen trong thời kỳ hồi sinh, phục quốc. Và bốn chương Kinh Thánh này đã, đang và sẽ còn khiến cho bao nhiêu người đọc – từ hạng bình dân tới bậc tri thức – ‘đâu cái điền’ là … điên cái đầu … dài dài.
Đơn giản là vì không cách chi hiểu cho thấu suốt ngọn ngành được.
Đúng là Đền Thờ được đề cập đến, nhưng dường như Ê-xê-chi-ên chỉ quan tâm đến việc ghi số đo: dài, ngang, cao, rộng của công trình, chớ không ngó ngàng gì đến những vật dụng thờ tự trong đó hay sao í. Không hiểu là bác í cố tình bỏ qua hay là những vật dụng đó thật sự không có trong Đền Thờ mới này, nhưng rõ ràng là thiếu nhiều lắm đấy. Từ trong ra ngoài chỉ còn có mỗi chiếc bàn dâng tế lễ thiêu!
Chính vì ‘khác người’ như thế nên sự hiện thấy về Đền Thờ của Ê-xê-chi-ên cho đến nay vẫn còn có nhiều cách giải thích khác nhau, hoặc hiểu theo nghĩa bóng hoặc hiểu theo nghĩa đen.
Nghĩa bóng thì cho rằng Đền Thờ chỉ là hình bóng, là biểu tượng về sự hồi sinh của dân tộc Israen, hoặc có người còn … ‘tít’ hơn thì Đền Thờ này là ám chỉ về Hội Thánh ngày nay.
Còn nghĩa đen thì có nghĩa là sẽ có một Đền Thờ như thế sẽ được xây dựng ở tương lai (tính từ lúc sự hiện thấy này được công bố, tức là vào năm 537 TCN). Người thì cho rằng tương lai là sau khi dân Do Thái được hồi hương, số khác lại tin vào tương lai nằm tận ở thời kỳ Thiên Hy Niên, tức 1000 năm bình an dưới sự trị vì của Đức Chúa Giê-xu Christ cơ.
Nếu là sau khi hồi hương thì tại sao Đền Thờ được tái thiết dưới thời tổng trấn Xô-rô-ba-bên chẳng giống chi với bản vẽ của Ê-xê-chi-ên cả? Còn nếu là trong thời kỳ Thiên Hy Niên thì tại sao lại còn phải dâng sinh tế bằng các con thú (vì Chúa Giê-xu đã chết đền tội một lần đủ cả cho toàn nhân loại rồi kia mà)?
Đúng là kiểu chi cũng vướng. Dầu vậy, nếu Đền Thờ này được xây dựng trong thời kỳ 1000 năm bình an thì có vẻ tương thích hơn với phần còn lại của sự hiện thấy (các chương 44-48).
Thế nhưng, dù là nghĩa đen hay nghĩa bóng thì có một điều mà chúng ta không được phép quên. Đó là sự hiện thấy về Đền Thờ của Ê-xê-chi-ên – trước hết – là một sứ điệp an ủi, đem lại hy vọng cho những người Giu-đa đang trong phận lưu đày đầy tủi nhục tại Babilon. Họ là một nhóm người không còn tổ quốc, tiêu tan mọi hy vọng vì nước mất nhà tan, Đền Thờ Chúa đã bị hủy phá tan tành.
“Hỡi con người, hãy lấy mắt mà xem, lấy tai mà nghe và để lòng vào những việc mà tôi sẽ tỏ cho ông; vì để cho ông nhìn thấy mà ông được đem đến đây. Vậy hãy thuật lại mọi điều ông thấy cho nhà Y-sơ-ra-ên.” (40: 4)
Vì người đọc và người nghe là “nhà Y-sơ-ra-ên” thời bấy giờ, nên Ê-xê-chi-ên bắt buộc phải sử dụng những khái niệm, những hình ảnh mà họ quen thuộc (nhưng hẳn nhiên là không đầy đủ) để diễn tả những điều ông được thấy, tức những điều sẽ xảy ra ở tương lai. Có thể lắm, “việc dâng sinh tế” trong sự hiện thấy về Đền Thờ là nằm trong kiểu truyền thông … ‘thiếu vốn từ’ như thế đấy. Vì từ xưa cho đến lúc đó, đối với người Y-sơ-ra-ên thì chỉ có duy nhất một kiểu thờ phượng Đức Chúa Trời mà thôi – thờ phượng với các nghi thức dâng sinh tế!
Trước đó, trong các sứ điệp của mình tiên tri Ê-xê-chi-ên đã loan báo về sự hồi sinh của dân tộc Israel (các chương từ 34-39). Và giờ đây, là việc tái lập nơi chốn thờ phượng (chương 40-42). Một khi sự thờ phượng Chúa được thiết lập đúng quy cách thì sự hiện diện đầy vinh hiển của Chúa cũng sẽ trở lại (chương 43).
Không biết đằng sau những số đo (am-ma, cu-đê) khô khan kia có ẩn chứa sự dạy dỗ gì cho dân sự Chúa ngày xưa, cũng như cho chúng ta ngày nay hay không, nhưng thiết kế Đền Thờ mới này thì nhắm vào mục đích phân rẽ thánh phàm là khá rõ (42: 20).
Theo đó, phần hành lang của Đền Tạm Môi-se hay Đền Thờ Sa-lô-môn xưa thì giờ đã được gọi là phần sân trong hay hành lang trong (inner court). Chỉ người nào dâng lễ thì mới được vào khu vực này, và người ấy phải đi qua 2 cổng có bảo vệ nghiêm ngặt.
Chúng ta học được điều gì qua việc này?
Sẽ không bao giờ có chuyện Đức Chúa Trời giảm tiêu chuẩn thánh khiết đối với những người đến thờ phượng Ngài cả. Dù dân Chúa xưa đã thất bại trong việc giữ sự thánh khiết khi thờ phượng Chúa – và hậu quả là họ bị Chúa giận, bị Chúa phó cho dân ngoại bắt làm phu tù – nhưng không vì thế mà Chúa hạ tiêu chuẩn, giảm yêu cầu đối với họ. Ngược lại, Chúa còn đòi hỏi tất cả những ai đến thờ phượng Ngài phải khác đời, phải tách biệt, phải nên thánh càng hơn, “vì nếu không nên thánh thì chẳng ai được thấy Đức Chúa Trời” (Hê-bơ-rơ 12: 14)
“Hỡi con người, hãy mô tả đền thờ cho nhà Y-sơ-ra-ên để họ biết xấu hổ về tội lỗi mình. Hãy để họ đo theo kiểu mẫu nầy. Khi họ hổ thẹn về mọi điều mình đã làm thì con hãy cho họ xem đồ án của đền thờ: sự sắp đặt, đường ra, lối vào, tất cả các đồ án, các quy định và tất cả luật lệ về nó. Hãy viết những điều ấy trước mắt họ để họ giữ lấy mọi đồ án lẫn luật lệ của nó để tuân theo. (43: 10-11)
Bản vẽ Đền Thờ của Ê-xê-chi-ên được giới thiệu cho dân Chúa xưa là nhằm mục đích giúp “họ biết xấu hổ về tội lỗi mình”. Khi “họ đo theo kiễu mẫu nầy” thì họ sẽ nhận ra được sai lầm, thiếu kém, và tội lỗi của họ. Và chỉ khi nào họ “xấu hổ” – tức ăn năn – về điều đó, thì họ mới được mở mắt để nhận biết “sự sắp đặt, đường ra, lối vào, tất cả các đồ án, các quy định và tất cả luật lệ”, tức thế nào là sự thờ phượng thật mà họ cần phải có là thể nào.
Ngày hôm nay, thân thể của người tin thờ Chúa chính là Đền Thờ của Chúa. Mà Đền Thờ Chúa thì cần phải biệt riêng ra thánh cho Chúa. Không phải chỉ có nơi chí thánh (là tấm lòng chúng ta); không phải chỉ có nơi thánh (là phần hồn của chúng ta); không phải chỉ có hành lang trong, (tức thân thể của chúng ta) mới cần phải biệt riêng ra thánh. Chúng ta cần biệt riêng ra thánh cả hành lang ngoài (gia đình của chúng ta). Hơn thế nữa, chúng ta cần phải thiết lập một bức tường xung quanh gia đình mình, cá nhân mình để ngăn cách “nơi thánh với nơi tục”.
Anh chị em có sẵn sàng “đo theo kiểu mẫu” của Chúa cho Đền Thờ mới của Ngài là chính thân thể và đời sống của anh chị em không?


Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

TỬ SINH, SINH TỬ

Ê-xê-chi-ên 37-39
Ba chương Kinh Thánh hôm nay tiếp tục triển khai sứ điệp an ủi từ Đức Chúa Trời cho con dân Ngài đang trong cảnh lưu đày. Mà còn gì an ủi hơn cho kẻ đang lưu lạc xứ người cho bằng việc được trở về quê cha, đất tổ. Đúng không?
Vâng, an ủi thì đúng là có an ủi thật. Nhưng, làm thế nào được? Vì xương chúng tôi đã khô, niềm hi vọng chúng tôi đã mất, chúng tôi bị diệt sạch còn đâu (37: 11)?
Chính sự hiện thấy về thung lũng hài cốt khô được … hô biến “thành một đạo quân rất lớn” của Ê-xê-chi-ên là câu trả lời cho thắc mắc đó của dân sự Chúa.
Dầu hiện tại của họ là vô cùng ảm đạm, thân phận của dân tộc họ là vô cùng bi đát nhưng hy vọng vẫn còn cho họ. Chính quyền năng siêu phàm của Đức Chúa Trời sẽ gom nhóm họ, hồi sinh họ (37: 1-14) và hiệp họ lại thành một quốc gia như trong thời vua Đa-vít (37: 15-28).
Chúa xác quyết như thế, và thật sự thì lịch sử chứng minh là Chúa đã làm như thế.
Chúng ta rút ra được điều gì từ 2 phần của chương 37 này?
Trước hết, đó là giảng Lời Chúa cho “những hài cốt khô”. Giảng về điều gì? – Về những lời hứa của Đức Chúa Trời. Đó là những lời hứa ban sự sống, những lời hứa thay đổi tình trạng hiện tại của họ. Nói cách khác, đó là những lời giảng đem lại hy vọng cho người nghe.
Nhưng chỉ có LỜI không thôi thì chưa đủ. Để “xương khô” có thể sống lại thành người thì ta cần phải mời gọi “Thần Linh sự sống” đến trên họ nữa. (Trong tiếng Hê-bơ-rơ, từ ruach có thể được dịch là gió, là hơi thở, mà cũng có thể dịch là thần linh. Căn cứ vào ngữ cảnh thì nên dịch là Thần Linh, tức Linh của Đức Chúa Trời, tức là Linh ban sự sống).
Có đối tượng nào mà bạn chăm sóc … đã ‘khô đét’ như những bộ hài cốt kia chưa? Tổ tế bào của bạn, hội thánh của bạn đã khô đến cỡ ấy chưa? – Hãy áp dụng liệu pháp Ê-xê-chi-ên ngay đi nhé. Song nhớ là phải cầu hỏi xem Chúa muốn mình giảng gì cho họ như Ê-xê-chi-ên í, rồi thì hẵn “nói tiên tri như Ngài đã phán dặn”. Chúa bảo nói gì thì cứ thế mà nói, Chúa bảo làm gì thì cứ thế mà làm – bất kể việc đó có bình thường, có lô-gic, … hay không.
Cứ đúng y khuôn như thế thì dù có khô, có ‘tắt thở’ lâu đến mấy chăng nữa, chúng cũng phải “vùng dậy từ trong đám người chết” để tập hợp trong đội quân của Đức Chúa Trời mà thôi. Tràn trề hy vọng chưa?
Còn nữa, trong những ngày đến tình trạng chia rẽ phân tán, thù hận bất hòa sẽ dzĩnh dziễn chấm dứt. Chính quyền năng của Đức Chúa Trời sẽ làm nên cuộc hòa giải, tái thống nhất này. Ngày đó chỉ có một vương quốc, một dân tộc thánh, một trung tâm thờ phượng thánh dưới sự chăn dắt của một vua, là Đầy Tớ thánh của Đức Giê-hô-va mà thôi.
Bạn có tìm thấy hy vọng cho hôn nhân của mình, cho sinh hoạt tâm linh của gia tộc mình, cho tương lai của hội thánh và của dân tộc mình trong lời hứa “hai cây gậy” này của Đức Chúa Trời không?
Đấy là xong phần 1 của ngày hôm nay – phần tử sinh, tức là từ chết chuyển sang sống. Giờ ta sang phần 2: sinh tử, nghĩa là đang sống chuyển sang … từ trần!
Hai chương 38-39 là phần tiên tri có thể liệt vào nhóm khó hiểu nhất trong Kinh Thánh đấy ạ. Vì lý do đó nên từ xưa đến nay đã có không biết bao nhiêu là suy đoán, bình giải về ‘đồng chí … Gót’ (hay Gốc – BCG) và về thời điểm mà ‘đồng chí’ í mang liên quân đến đất Israel để nộp mạng.
Kinh Thánh chỉ cho biết rằng trận chiến đó sẽ xảy ra “trong những năm sau rốt” (38: 8); và Gót là vị thủ lĩnh thuộc đất Ma-got, nằm về “phương cực bắc” mà thôi (38: 15). Vị vua này sẽ đứng đầu liên minh quân sự hùng mạnh bao gồm Rô-sơ (Rosh), Mê-siếc, Tu-banh, Phe-rơ-sơ hay Ba-tư (I-ran), Cút (vùng thượng Ai-cập ngày nay), Phút (Liby), Gô-me (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) và Bết Tô-ga-ma (Ac-mê-nia). (Hãy xem lại Sáng Thế Ký 10 để thấy được nguồn gốc của những sắc dân này).
Chúng ta thật sự không biết được là “những năm sau rốt” đã gần chúng ta chưa. Còn nếu mà đã gần rồi thì rõ ràng là nằm ở “cực bắc” của Israel hiện tại không ai khác hơn chính là Liên Bang Nga. Mà Nga thì vốn có quan hệ rất chi là tình thương mến thương với khối Ả-rập, đặc biệt là với I-ran và Syria – hai quốc gia căm thù Israel ra mặt.
Còn nữa, quân Nga hiện đang tìm cách nuốt gọn miền Đông Ucraine, nhằm nối liền với bán đảo Crưm mà họ đã thôn tính trước đó. Thêm vào đó, việc Israel phản ứng quyết liệt với Mỹ và các cường quốc châu Âu về vụ ký thỏa thuận hạt nhân với I-ran mới đây có thể sẽ khiến cho Israel bị các đồng minh phương Tây … nghỉ chơi lắm à. Mà không còn được đồng minh bảo vệ thì đúng là ở trong những nơi không có tường, không then và không cửa  rồi còn gì (38: 11).
Và như thế thì phải chăng, con đường chuyển quân của “vua Gót” hướng về xứ Thánh Israel sắp được khai thông?
Một liên quân rất chi là hùng hậu, và cũng rất chi là hùng hổ. Đúng là như một đám mây che phủ đất (38: 16). Thế nhưng, không phải anh í (vua Gót) tự phát động chiến tranh đâu nha. Chúa đấy. Chúa truyền lịnh cho anh í nam tiến, Chúa bổ nhiệm anh í làm tổng chỉ huy, Chúa khiến anh í đến Trung Đông để phó thân mình làm tiệc đãi chim trời, thú đồng cách miễn phí dzậy đóa.
Mà răng Chúa làm rứa? – “để các dân tộc nhìn biết Ta khi Ta dùng ngươi để bày tỏ sự thánh khiết của Ta trước mắt chúng” (38: 16)
Điều an ủi dành cho dân sự Chúa qua sứ điệp tiên tri này là gì? - Ấy là Chúa sẽ làm bại mưu của kẻ ác đối cùng họ; Chúa sẽ tiếp tục bảo vệ họ cách siêu nhiên trước bất kỳ một sự tấn công nào của kẻ thù. Hãy vững lòng tin cậy nơi Chúa luôn luôn và hãy nhớ đến Jerusalem, nhớ đến dân tộc Do Thái, tức Israel – tuyển dân của Chúa – trong lời cầu nguyện mỗi ngày của anh chị em.
Hãy cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem,
Nguyện những người yêu mến ngươi được thịnh vượng (Thánh Thi 122: 6)



Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2015

VỌNG GÁC ĐÊM THÂU

Ê-xê-chi-ên 33-36
Từ đầu sách đến giờ, tức là suốt 32 chương vừa qua, với đủ các thể loại truyền thông, từ hải ngoại, Ê-xê-chi-ên đã không ngừng nghỉ trong việc cảnh báo cho đồng hương của mình về tai họa sắp giáng xuống trên Jerusalem. Và hôm nay, hung tin đã đến: “Thành đã bị thất thủ rồi!” (33: 21)
Hơn chục năm trời Ê-xê-chi-ên trung tín truyền rao sứ điệp của Chúa cho đồng bào của mình nhưng kết cuộc là quốc gia, dân tộc của ông vẫn không thoát khỏi cảnh diệt vong.
Có lẽ, trong lúc đau đớn tột cùng như vậy, nhà tiên tri đã chất vấn Chúa: “Con được chọn làm phát ngôn viên cho Chúa có ích lợi gì đâu cơ chứ. Chúa chọn con làm người cảnh báo và con đã trung tín cảnh báo hơn 10 năm rồi nhưng kết cuộc dân tộc con vẫn bị diệt vong. Vậy thì giảng để làm gì?”
Câu trả lời là: để cho người ta biết được ý muốn Chúa, để cho người ta biết được đường lối Chúa. Ấy là vì Chúa “không muốn cho một ai hư mất, nhưng muốn mỗi người đều ăn năn.”
Có thể anh chị em đang ở trong tình trạng tương tự tiên tri Ê-xê-chi-ên năm xưa khi rao giảng, cảnh báo hoài nhưng người thân của mình, đồng hương của mình vẫn tiếp tục xây lưng lại với Chúa chăng? Nếu đúng là như thế thì chớ bỏ cuộc vì cớ người ta “nghe tiếng kèn báo động mà không chịu để ý”. Hãy tiếp tục làm trọn chức phận của mình cho đến khi nào xong phiên gác. Khá nhớ là, bạn và tôi được Chúa chọn làm người canh gác cho gia đình của mình, cho dòng tộc của mình và rộng hơn nữa là cho dân tộc Việt Nam của chúng ta đấy. Và phiên gác của chúng ta là phiên gác cuối cùng – từ khuya đến sáng.
Bạn đã từng thổi kèn báo động cho người thân của mình, cho đồng hương của mình về sự chết đời đời đang chờ họ chưa?
Khi được tin thành phố Jerusalem đã bị thất thủ, thì những người Giu-đa đang bị lưu đày ở xứ người liền sốt sắng rủ nhau đến cùng tiên tri Ê-xê-chi-ên để “nghe sứ điệp từ Đức Giê-hô-va”. Những tưởng rằng tin tức về tai họa từ quê nhà truyền sang đã làm thức tỉnh họ, khiến họ trở lại cùng Chúa. Thế nhưng, sự thật thì không phải như vậy.
Đúng là họ có kéo đến cả đoàn, rồi ngồi xuống lắng nghe đàng hoàng nhưng … “chúng không làm theo”. Đối với họ thì người của Chúa cũng giống như một ca sĩ có giọng tốt, hát hay, đàn giỏi vậy thôi. Nghe thì vẫn nghe “nhưng không làm theo” (33: 30-33)
Đọc cảnh này sao thấy giống chuyện thời nay, khi con dân Chúa cứ ùn ùn kéo nhau đi tham dự hết hội nghị này đến đại hội khác, từ trong nước ra hải ngoại, nghe hết diễn giả này đến diễn giả khác, nhưng có quá ít người thật sự được biển đổi, có quá ít hội chúng, quá ít tổ chức, quá ít mục vụ thật sự được dứt dấy sau những sự kiện đó. Không lẽ, đa phần là thuộc thành phần “nghe mà không làm theo” sao ta?
Không cứ gì đến những đại hội hay trại bồi linh, ngay trong những sứ điệp mà chúng ta được nghe hàng tuần hay những sự dạy dỗ từ nơi Lời Chúa mà ta đọc hàng ngày cũng đủ để chỉ ra là bạn và tôi có thuộc vào nhóm tín hữu “nghe nhưng không làm theo” hay không. Thế thì, anh chị em ơi, hãy khiêm nhu mà tra xét chính mình đi nhé. Đừng để đến khi tai nạn xảy ra, ta mới nhớ ra rằng, Chúa đã từng sai tôi tớ Chúa cảnh báo mình nhiều lần nhiều cách rồi đấy nhé. Lúc ấy mới nhớ thì cũng bằng thừa.
Vừa khi Jerusalem thất thủ, vương quốc Giu-đa hoàn toàn bị xóa sổ thì Ê-xê-chi-ên cũng được lịnh chuyển hướng hoàn toàn trong nội dung sứ điệp. Từ sứ điệp phán xét sang sứ điệp an ủi. An ủi cho dân sót đang trong cảnh lưu đày.
Theo đó – từ chương 34-48 – trong giờ an ủi hầu đến, Đức Chúa Trời sẽ tập họp, phục hồi và làm mới lại dân giao ước của Ngài. Cho dù dân tộc này hiện đang rên xiết dưới ách lưu đày tại xứ người, nhưng sẽ có một ngày vinh quang hầu đến khi mà mọi núi đồi, sông suối đều lớn tiếng tôn cao Đức Chúa Trời của Israen về sự vĩ đại của Ngài.
Chính Chúa sẽ là người chăn, hay người lãnh đạo của dân sự Ngài. Và dưới sự lãnh đạo của Chúa thì công lý chắc chắn sẽ được thiết lập (34: 16).
Chúa phục hồi dân Chúa từ chốn lưu đày chẳng phải vì họ đã thi hành xong bản án, mà là vì cớ Danh thánh của Chúa. Chúa cho họ được hưởng lịnh đặc xá, về lại cố hương không phải vì chúng đã cải tà quy chánh, hay đã tốt đủ. Không, Chúa đem họ về sớm chỉ là để … đỡ mang tiếng … cho Chúa. Rứa thôi. He he. (35: 22-32).
Thế thì, một lần nữa, hãy canh giữ lòng mình để không bị … “bé cái nhầm” nha anh chị em. Nhất là những anh chị em đang được Chúa tin dùng hay những hội thánh đang được Chúa thăm viếng. Không phải do chúng ta là người như thế nầy thế kia, hay do chúng ta làm điều này điều nọ mà Chúa đã làm như thế như thế đâu nhá. Chúa cũng không làm điều đó là vì một ai trong chúng ta mà là chỉ vì Danh Thánh của Chúa mà thôi. Nhớ nha.
Có rất nhiều lần Chúa hứa trong 4 chương Kinh Thánh hôm nay: “Ta sẽ”. Con người hứa thì mới có cảnh: “biết bao lần dzu (you) đã hứa, hứa cho nhiều rồi lại quên”, còn Chúa thì hoàn toàn khác à nha. Ấy là vì “Đức Chúa Trời không phải là người mà nói dối” (Dân Số Ký 23: 19). Đức Chúa Trời không có chuyện sớm nắng chiều mưa hay chập chờn trong việc giữ lời Ngài đã hứa. Một khi Chúa tuyên bố: “Nầy là lời Đức Giê-hô-va vạn quân phán” thì bạn có thể hoàn toàn yên tâm mà neo đậu cuộc đời mình trên đó. Luôn luôn là như vậy.
Hãy thử dành vài phút của ngày hôm nay để khám phá xem có bao nhiêu lời hứa quý báu mà Chúa dành cho riêng bạn chỉ trong chương 36 mà thôi. Không dưới 20 đâu đấy.
A dzu ré-đi (Are you ready)?