Thứ Năm, 17 tháng 9, 2015

GIU-ĐA, NGÀY HẦU TÒA

Mica 6-7
Mica kết thúc những lời tiên tri của mình bằng quang cảnh một phiên tòa. Bị cáo là toàn thể Y-sơ-ra-ên nói chung, chớ không phải chỉ là vương quốc Y-sơ-ra-ên phía Bắc. Còn “các núi, các đồi và các nền vững chắc muôn đời của đất” thì được triệu tập làm nhân chứng.
Và sau đây là trích đoạn “tường thuật trực tiếp” từ phiên tòa:
“Nào, bị cáo hãy trả lời xem: Ta đã hành hạ, đày ải các ngươi như thế nào?
Có phải Ta đã giải thoát các ngươi khỏi kiếp nô lệ; ban cho các ngươi những người lãnh đạo tuyệt vời; ngăn cản kẻ thù làm hại các ngươi; và còn biết bao nhiêu điều công chính khác nữa mà Ta đã làm cho các ngươi …”
“Thế chúng tôi phải cúng tế đến cỡ nào thì Chúa mới vừa lòng đây? Phải chiên đực, bò con cả nghìn, dầu chảy thành sông thì Ngài mới thỏa dạ? Hay là Chúa muốn chúng tôi phải thiêu sống con mình trên lửa thì Ngài mới bỏ qua tội lỗi của chúng tôi? Chúa muốn gì cứ nói thẳng ra đi …”
“Chẳng có gì bí mật hay rắc rối phức tạp trong chuyện này cả. Thế chẳng phải Ta đã từng bảo các ngươi điều gì là tốt rồi sao. Và điều CHÚA đòi hỏi ngươi chẳng phải là thực thi công lý, yêu thích việc thương xót, và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời của ngươi sao?”
Hóa ra, việc hành đạo hay sống đạo không nằm ở chỗ tham gia đầy đủ các sinh hoạt tôn giáo ở nhà thờ, mà là “thực thi công lý, yêu mến sự thương xót, và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời” (6: 8). Tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nhà thờ là điều tốt nhưng nếu chỉ có chừng đó thì chưa đủ. Người tin thờ Chúa còn phải đáp ứng được những đòi hỏi của Chúa trong đời sống thường nhật nữa.
Dân Chúa xưa đã thất bại tại chỗ này: Họ giàu có vì gian lận, lường gạt người khác trong làm ăn buôn bán. Và khi đã giàu lên, có của ăn của để thì trở nên hống hách, bạo ngược. Người người đều giả trá, người người đều dối gạt lẫn nhau.
Một khi mà dân sự Chúa cũng gian, cũng dối, cũng giả, … y như người không tin thờ Chúa thì xã hội đó sẽ càng tăm tối biết chừng nào. Ấy là vì Chúa chọn chúng ta, những người tin Ngài, để làm sự sáng cho thế gian. Nhưng “nếu ánh sáng trong con chỉ là bóng tối thì bóng tối ấy sẽ lớn là dường nào!”” (Mathiơ 6: 23)
Chúng ta thường hay lên án và thậm chí lên án cách gay gắt những kẻ nhận hối lộ nhưng cũng chính chúng ta lại cảm thấy bình thường khi đưa tiền hối lội người khác (cảnh sát, quan chức chính quyền, …) để … “được việc”, đúng không? Nhiều người trong chúng ta rất ‘to mồm’ trong việc lên án, nếu không muốn nói là chữi rủa mấy tay cán bộ tham nhũng, nhưng lại rất vô tư trong việc trộm cắp.
Từ việc sử dụng những phần mềm bị bẻ khóa, sử dụng internet ‘chùa’, đánh cắp mật khẩu các tài khoản xã hội của người khác, đến ăn cắp thời gian lao động, đánh bắt trộm chó mèo và … kính thưa các thể loại động vật hoang dã khác. Thậm chí, nhiều con dân Chúa còn khoe việc đó khắp nơi, cứ như là những chiến tích không bằng.
Chúng ta thường hay kêu gào về bất công trong xã hội, luôn đòi hỏi công lý phải được thực thi, nhưng ta lại tiếp tay cho bất công, cổ xúy cho việc bẻ cong công lý như thế thì chúng ta sẽ phải trả lời với Chúa thế nào?
Đó là nói về việc thực thi công lý, còn việc yêu thích bày tỏ lòng thương xót đối với người khác - đặc biệt là đối với những người thấp kém hơn - và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời thì sao? Nếu Chúa mở một phiên tòa như thế thì có bao nhiêu người trong chúng ta được tuyên là … không đủ yếu tố để kết thành tội phạm (?)
Dân Y-sơ-ra-ên xưa bị Chúa phạt nặng không chỉ vì tội thờ hình tượng (6: 16) mà còn vì những quá phạm của họ trong quan hệ xã hội dân sự mỗi ngày (6: 10-12). Vì cớ Chúa không hề thay đổi, nên những đòi hỏi nơi Mica 6: 8 vẫn còn nguyên hiệu lực đối với người tin thờ Chúa ngày nay. Khá nhớ rằng, “tất cả chúng ta đều phải trình diện trước tòa án Đấng Christ để mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hoặc ác mình đã làm lúc còn trong thân xác” (2 Corinhto 5: 10)
Hình phạt mà Chúa dành cho tuyển dân xưa vì những sai phạm của họ trong quan hệ dân sự cũng đáng để cho chúng ta – dân sự Chúa ngày hôm nay – suy gẫm thường xuyên.
Đây này, trước hết là bị uýnh cho “trọng thương chí tử”, cho te tua tàn tạ. Tiếp theo là thiếu thốn triền miên. Nếu có làm ra được tiền của thì cũng không giữ được, mà nếu có tích trữ được thì cũng dành cho … đứa khác nó xơi. Tiếp theo nữa là làm gì cũng thất bại, thậm chí cơm đưa tới miệng cũng không được ăn rồi cuối cùng là bị lưu đày, giam cầm, bị bắt làm nô lệ, và trở thành đề tài chế giễu của thiên hạ. Còn nhục nào nhục hơn! (6: 13-16)
Dù cho con người luôn có xu hướng sa sút, thiên về tội lỗi; Dù cho xã hội loài người ngày càng băng hoại, đạo đức suy đồi, bất công xã hội gia tăng khắp nơi, kể cả trong cộng đồng dân Chúa, thì Đức Chúa Trời vẫn không hề thay đổi. Đức công chính của Ngài vẫn y nguyên, lòng nhân từ và sự thương xót của Chúa vẫn vẹn toàn từ đời nọ sang đời kia (7: 18-20). Công lý của Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng, những kẻ đặt lòng tin nơi Ngài, sống đời kính sợ Ngài sẽ không bao giờ bị thiệt thòi.
Đó chính là là cơ sở để mỗi một chúng ta – dù trong bất cứ cảnh ngộ nào – cũng có thể dõng dạc tuyên bố như Mica đã từng: “Về phần tôi, tôi sẽ ngưỡng trông nơi CHÚA, Tôi sẽ trông đợi Đức Chúa Trời, Đấng Giải Cứu của tôi; Đức Chúa Trời của tôi sẽ nghe tôi.” (7: 7)
Bạn có tin quyết đủ để nói ra điều này ngay bây giờ không?


Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

GIU-ĐA, NGÀY CHIẾN THẮNG

Mica 3-5
Ngày chiến thắng ở đây là chiến thắng của Công Lý Đức Chúa Trời trên xã hội loài người nói chung và trên tuyển dân Do-thái nói riêng.
Dù những người lãnh đạo chính quyền và giáo quyền ở vương quốc Giu-đa có “ghét điều thiện, chuộng điều ác” (3: 2), “ghét công lý và làm bại hoại sự bình đẳng” (3: 9) cỡ nào đi nữa, thì cũng không vì thế mà có thể bẻ cong Công Lý thiên thượng được. Điều đó là chắc chắn.
Chỉ cần một câu thôi là Mica đã khắc họa đầy đủ mọi góc cạnh của những gương mặt làm tàn mạt đất nước:
Các nhà lãnh đạo phán xét vì hối lộ,
Các thầy tế lễ dạy dỗ vì tiền công,
Còn các kẻ tiên tri nói tiên tri vì bạc;
Rồi chúng lại nương cậy CHÚA mà nói rằng:
“Chẳng phải CHÚA đang ở giữa chúng ta sao?
Tai vạ sẽ chẳng đến trên chúng ta đâu!” (3: 11)
Vâng, tất cả chỉ vì TIỀN, tất cả cùng phục vụ theo đúng nguyên tắc “đầu tiên là … tiền đâu”! Vâng, dấu hiệu thời mạt vận của một xã hội, của một quốc gia luôn là như thế đấy.
Án phạt nhỡn tiền dành cho hạng quan tham gian ác này là ri: Chúa không trả lời khi họ kêu, Chúa sẽ lánh mặt khi họ tìm.
Mà những người này thì khi nào họ thèm kêu đến Chúa? – Có đấy, khi hình phạt giáng xuống trên họ, trên gia đình của họ, trên chức vụ của họ. Có điều, khi đó mới kêu cầu Chúa, mới tìm kiếm mặt Chúa thì … hết cửa rồi cưng.
Nhiều người ngày nay, thậm chí chẳng quyền cao chức trọng gì nhưng cũng tinh tướng ra phết, cũng tham, cũng ác và thậm chí còn thách thức Chúa nữa mới ghê chớ. Đúng là điếc không sợ súng.
Ừ nó cương thì nó chịu. Thế nhưng, nếu ‘nó’ là lãnh đạo – kể cả chính quyền, lẫn giáo quyền – mà ‘cương’ với Chúa thì không chỉ nó chết mà cả Si-ôn sẽ bị cày như đồng ruộng, Giê-ru-sa-lem sẽ thành những đống đổ nát, và hòn núi nơi xây đền thờ chỉ là một đỉnh cao giữa rừng. (3: 12). Điều này có nghĩa rằng, tội lỗi của người lãnh đạo sẽ khiến cho hình phạt từ Chúa giáng xuống không chỉ trên cá nhân người đó mà còn cả trên cộng đồng mà người đó lãnh đạo nữa đấy.
Cũng trong chương 3 này, Mica cũng đã trình bày một bức chân dung tự họa của chính mình, và cũng chính là chân dung của những đầy tớ thật của Chúa qua mọi thời đại, đặc biệt là trong những giai đoạn mà tình trạng thuộc linh và đạo đức của xã hội đang vào hồi suy thoái trầm trọng:
“Nhưng về phần tôi, tôi đầy dẫy quyền năng bởi thần CHÚA; đầy dẫy trí phán xét công bình và lòng dũng cảm, để công bố cho Gia-cốp biết sự phản nghịch của nó, và cho Y-sơ-ra-ên biết tội lỗi nó. (3: 8)
Nếu anh chị em là những người đang hầu việc Chúa thì xin hãy so mình với ‘chiếc gương’ này mỗi ngày mà gọt giũa, mà rèn tập, mà khẩn xin Chúa tài bồi cho thật giống nhé.
Bước sang chương 4, trong sự thần cảm của Chúa, tiên tri Mica đưa ra một sứ điệp mang tầm nhìn xuyên hàng bao thế kỷ, vượt qua cả thời kỳ mà chúng ta đang sống đây, để đến tận cõi tương lai. Ấy là lời tiên tri về việc phục hồi lại thành thánh Jerusalem, phục hồi lại vương quyền của nhà Đa-vít, phục hồi lại sức mạnh của Israel.
Nói cách khác, từ cảnh đổ nát hoang tàn của Jerusalem và Đền Thờ trong 3: 12 đến cảnh rực rỡ huy hoàng của Jerusalem mới và Đền Thờ mới trong 4: 1-3 cách nhau … không dưới 30 thế kỷ đấy. Mênh mông, đúng không?
Và cũng như những tiên tri khác, khi công bố sứ điệp này thì chắc chắn là Mica không thể nào tưởng tượng là ‘tầm bắn’ của mình xa đến thế. Tuy nhiên, điều gì đến từ Chúa thì chắc chắn sẽ thành hiện thực vào đúng thời điểm của nó. Và điều gì đến từ Chúa thì đều đem lại sự sống cho con người.
Lời tiên tri của Mica đã cứu mạng sống của tiên tri Giê-rê-mi gần 100 năm về sau đấy (Giê-rê-mi 26: 17-19). Và cũng tại địa chỉ Kinh Thánh này, chúng ta biết được rằng, vua Ê-xê-chia đã hạ lòng ăn năn khi nghe lời tuyên án của Mica. Kết quả là cơn phấn hưng đã xảy ra tại vương quốc Giu-đa dưới thời vua này.
Đối nghịch lại với cảnh Jerusalem bị hủy phá, Đền Thờ bị thiêu rụi là một Jerusalem mới, một Đền Thờ mới sẽ xuất hiện. Và đối nghịch lại với những người lãnh đạo gian ác, bất công sẽ là việc xuất hiện một nhà lãnh đạo công bình, thay mặt Thiên Chúa mà cai trị tuyển dân của Ngài (5: 2-6)
Đây chính là lời tiên tri về Chúa Cứu Thế, tức Đấng Mê-sia hay Đấng Christ. Và lời tiên tri này đã ứng nghiệm nơi Đức Giê-xu, người Nazaret, Đấng ra đời cách siêu phàm bởi trinh nữ Mary tại một quán trọ ở Bết-lê-hem (Mathiơ 2: 2-6)
Lời tiên tri trong Mica 5: 2 không chỉ báo trước chính xác về địa điểm nơi Chúa Cứu Thế ra đời, mà còn tỏ bày ‘gốc gác’ thiên thượng của Đấng Cứu Thế nữa: Gốc tích người từ thuở trước, Từ những ngày xa xưa. Tất cả những đều này đã được ứng nghiệm nơi Đức Chúa Giê-xu. Ngài vừa là người cũng vừa là Thiên Chúa. Ngài chính là nhân vật mà Mica luôn hướng độc giả và thính giả của ông tìm kiếm và gặp gỡ: “Người giống như Đức Giê-hô-va”. Đó cũng chính là ý nghĩa của tên ông: Mica.
Như đã từng gặp trong nhiều sách tiên tri khác, chương 4 và đặc biệt là trong chương 5 của sách Mica luôn đan xen những tiết tấu “lúc xa, lúc gần” hoặc “vừa gần vừa xa”, tức là tính ứng nghiệm kép trong cùng một sứ điệp tiên tri. (Anh chị em nên lưu ý điều này khi đọc nhé)
Đối với những người trực tiếp nghe Mica thì tất cả những điều ông tiên báo đều chưa xảy ra. Còn đối với chúng ta thì không như vậy. Có những điều đã ứng nghiệm, song có những điều còn chưa ứng nghiệm. Tuy vậy, chỉ cần nhìn vào những lời tiên tri đã ứng nghiệm ta cũng có thể vững tin nơi sự thành tín của Đức Chúa Trời.
Chúa mà chúng ta thờ phượng là Đức Chúa Trời thành tín. Chúa luôn giữ lời và điều gì Chúa đã phán thì Ngài cũng thừa khả năng để hoàn thành. Bạn có biết điều đó không? 


Thứ Ba, 15 tháng 9, 2015

GIU-ĐA, NGÀY PHÁN XÉT

Mica 1-2 
Nghĩ cũng lạ, chỉ có mỗi mình anh mà kẻ khen (Mi-ca, theo các Bản Dịch Mới), người chê (Mi-chê, theo Bản Dịch Cũ và Hiệu Đính). He he. Người ta chê anh bởi vì anh thẳng quá, trực tính quá. Giảng chi mà cứ như phang thẳng vào mặt người ta như thế. Còn khen thì … chắc là chỉ có Chúa.
Căn cứ theo tên làng Mê-rô-sết, một địa danh nằm cách Jerusalem khoảng 40 km thuộc vùng biên giới giữa Giu-đa và Philitin, người ta cho rằng, Mica cũng xuất thân từ thành phần dân lao động như Hai Lúa A-mốt vậy. Có khác chăng chỉ là một anh thì từ dưới ruộng lên, còn một anh thì từ trên rừng xuống thôi.
Mà xuống đâu? – Thì xuống phố, xuống thủ đô chớ đâu. Mà không phải một đâu nha. Mica chơi liền một phát xuyên cả 2 thủ đô là Samari và Jerusalem luôn. Oách chưa?
Mica hầu việc Chúa cùng thời với Ô-sê, A-mốt và Ê-sai trong thời điểm cả hai vương quốc phía Bắc và phía Nam vẫn còn đang … ‘ngon lành’. Thế nhưng, đằng sau cái vẻ hoành tráng, phông độ ấy là một thân thể đang sắp hết thời kỳ … ủ bệnh nan y.
“Bà con làng nước ơi, mau ra đây mà xem này!” Mica luôn mở đầu những sứ điệp của mình bằng lời ca mang đậm chất núi rừng cao nguyên như thế (1: 2; 3: 1; 6: 1).
“Xem chi? Xem chi?” – Xem Chúa xử án
“Xử ai? Xử ai?” – Xử hai con … gà móng đỏ! Con nhỏ tên Dê-rù, còn con lù lù thì tên là Xà ma rí.
Chị truyền lại cho em. Cả 2 chị em đều phạm một tội giống nhau: làm gái mãi dâm thuộc linh, tức thờ lạy hình tượng (1: 5). Kết quả: cả hai đều được lên xe … tang, sang làm ‘dâu’ xứ người (1: 6-7; 10-16).
Không có tội lỗi nào có thể khiến Chúa nổi giận như tội thờ lạy hình tượng. Và cũng không có tội lỗi nào làm sụp đổ một quốc gia nhanh hơn tội thờ lạy hình tượng. Thế cho nên, bất kỳ nơi đâu khi mà việc thờ lạy hình tượng được phục hồi, được cổ xúy thì đó cũng là lúc mà sự suy thoái, thoái trào và sụp đổ đang tiến nhanh đến chỗ hoàn thành.
Là con dân Chúa, chúng ta cần phải làm gì trong hoàn cảnh người người nhà nhà cuồng si thờ lạy hình tượng? – Hãy tiếp tục giảng ra trong nước mắt (1: 8) hay nói như Gia-cơ thì là “hãy noi gương chịu bạc đãi và kiên nhẫn của các tiên tri đã nhân danh Chúa mà nói (Gia-cơ 5: 10)
Một số người hơi bị ‘lăn tăn’ khi đọc đến phần cuối của câu 7 chương 1. “Vì nó thu góp những của lễ từ tiền công của gái mại dâm; Cho nên, những của lễ đó sẽ lại được dùng làm tiền công cho gái mại dâm khác.” Đây là cách nói ví sánh hơi bị … cay, có nghĩa là những vàng bạc châu báu mà những người thờ thần tượng (hình bóng là gái mãi dâm) cúng dường để đúc tượng, thì khi giặc ngoại xâm (cũng là những tay thờ hình tượng) đến, chúng sẽ khuân đi hết như là chiến lợi phẩm dzậy đó.
Và lối chơi chữ này cũng chính là xì-tai (style) hay thương hiệu của vị tiên tri đến từ núi rừng biên giới đó nha. Trong phần tuyên án dành cho ‘con’ Dê-rù (1: 10-16), Mica dùng toàn món này thôi đó.
Này nhé, Bết-lê-áp-ra nghĩa là “bụi” thì đây: “bụi ơi, hãy lăn lóc trong bụi đi em”, vì cớ tai họa khủng khiếp sắp giáng xuống kìa (c. 10); Sa-phi-rơ nghĩa là “đẹp”, là “xinh” thì đây: “xinh ơi, xấu tới nơi rồi em ơi, đừng kiêu nữa nhé” (c. 11a); còn Xa-a-nan nghĩa là “đi ra”, là “xuất hành”, là “trình diễn” thì đây: “tìm chỗ mà trốn đi chớ nhục như thế thì còn chường mặt ra mà làm gì” (c.11b).
Rồi còn Bết-hê-xen, còn Ma-rốt, còn Laki, còn Ạc-xíp, còn A-đu-lam, … mỗi địa danh được đem ra để minh họa, hoặc với nghĩa tương đồng hoặc với nghĩa tương phản, cho họa ngoại xâm và lưu đày khủng khiếp hầu đến, đối cùng toàn vương quốc Giu-đa phía Nam.
Đấy, nông dân có cách giảng của nông dân. Lạ, khác người, đúng không? Nhưng, … đảm bảo nhớ lâu, vì nhìn vào đâu cũng được nhắc đến sứ điệp của Chúa.
Ấy là chương 1, giờ sang chương 2
Chương 2, Mica bắt đầu … ‘gõ cửa trái tim’ hai đối tượng hình sự cộm cán. Một, mấy tay nhà giàu có chức có quyền, và hai là mấy ông giả … tiên tri.
“Khốn cho những kẻ lập mưu gian ác, Và toan tính chuyện tội lỗi trên giường mình! Đến sáng, chúng thực hiện mưu đồ, vì chúng có quyền lực trong tay! Chúng tham đất ruộng và cướp đi, Tham nhà cửa và lấy đi. Chúng ức hiếp người ta và gia đình họ, tức người và tài sản của họ” (2: 1-2).
“Nhưng các ngươi nổi dậy chống lại dân Ta như kẻ thù. Các ngươi lột áo choàng sang trọng ra khỏi áo dài mặc bên trong, của những người ung dung qua đường, những người trở về từ chiến trận. Các ngươi đuổi những người đàn bà trong dân Ta ra khỏi căn nhà họ quí mếnCác ngươi tước mất vinh quang của Ta khỏi con cái họ đời đời. (2: 8-9)
Chuyện xảy ra bên xứ Do-thái vào thế kỷ thứ VIII trước công nguyên (TCN) mà sao thấy quen quen như cảnh ở ta ngày nay ấy nhỉ.
Nào là "xiết giường ngủ của gia đình liệt sĩ để trừ nợ", nào là đi đêm, lập dự án, rồi công khai chiếm đoạt ruộng đất, tài sản của người dân. Ai phản đối thì liền bị quy là chống đối, là thế lực thù địch. Nếu đọc thật kỹ, thì câu 8-9 của chương 2 không khác cảnh Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc Việt Nam, hơn 60 năm về trước là mấy. Bao gia đình lầm than, ly tán; bao nhiêu người phải chịu cảnh tù đày, tự vẫn và bị giết chết. Oan ức thấu trời xanh.
Chúa tha cho quân gian tham, ác nhân thất đức này sao? – Đừng có mơ. Xưa sao nay vậy, vì Chúa là Chúa chung của cả cõi trời đất, là Quan Án công bình cho cã cõi vũ trụ và Ngài không hề thay đổi bao giờ.
Án phạt dành cho đám có chức, có quyền “ăn không từ một thứ gì” là đây: giải tỏa trắng, đì-lít sạch, chuyển toàn bộ tài sản cho người khác sử dụng. Nói cho vuông một từ là “của thiên, trả địa”.
Thời nào cũng có hàng giả nha bà con, thời Mica cũng có hạng giả tiên tri. Đó là những người khoát áo đầy tớ Đức Chúa Trời nhưng chỉ rao giảng những gì “đúng quan điểm” của thành phần có tiền, có quyền mà thôi.
Họ giảng gì? – Rằng tai họa, sụp đổ sẽ chẳng bao giờ xảy ra với chúng ta đâu. Họ còn là những chuyên gia trong những đề tài về “rượu và rượu mạnh”, tức là những thú vui, đam mê và khoái lạc nơi cuộc sống vật chất đời này.
Ăn năn ư, làm ơn đừng có giảng. Sự phán xét tội lỗi à, thời này sao còn đi giảng mấy chuyện đó. Làm ơn xì-tốp dùm đi. Kết cuộc: Biến ngay khỏi đất này (2: 10). Đấy, kết cuộc của một chức vụ giảng theo “yêu cầu khán thính giả” là như rứa.
Bạn có nghe được Chúa phán riêng với mình điều gì qua hai chương Kinh Thánh hôm nay không?


Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

HÃY YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA YÊU TA

Dừng Chân Lần Thứ 33
NHÌN LẠI
A-mốt, Áp-đia và Giô-na là ba tiên tri ‘mỏng’ nhưng lại có một sứ điệp khá nặng ký.
A-mốt – tên của ông có nghĩa là “người mang gánh nặng” – lìa khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của mình trong tư thế của một anh nông dân thứ thiệt để truyền rao cho vương quốc Y-sơ-ra-ên phía Bắc một sứ điệp phán xét rực lửa. Ap-đia – nghĩa là “đầy tớ của CHÚA” – công bố lời buộc tội đanh thép dành cho dân Ê-đôm vì cớ sự tàn nhẫn của chúng đối với ‘đệ quốc’ Giu-đa. Còn Giô-na – nghĩa là “bồ câu” – lại có một chuyến hải hành rợn người vừa bằng tàu khách, vừa bằng tàu … cá ngầm để đến được Ninive rao báo tai họa sắp xảy ra cho đô thành hùng mạnh này sau 40 ngày nữa.
A-mốt sử dụng 3 bài giảng và 5 sự hiện thấy để miêu tả cách sống động mọi chi tiết liên quan đến cơn đoán phạt không thể tránh khỏi đối với Y-sơ-ra-ên. Áp-đia với một ‘nàng’ tiên … tri ngắn nhất trong kinh Cựu Ước đã trình làng một sứ điệp phán xét vô cùng mạnh mẽ dành cho dân Ê-đôm: một tai họa mang tầm quốc gia, mà không có một lời biện minh hay hứa hẹn miễn xá nào hết. Riêng Giô-na – sách tiên tri duy nhất trong kinh Cựu Ước chỉ xoay quanh một quốc gia ngoại bang – cho thấy rằng, việc khán thính giả ngoại giáo (Ninive) ăn năn là điều hoàn toàn có thể, thậm chí ngay cả khi diễn giả (Giô-na) lưỡng lự không muốn giảng!
NHÌN LÊN
“Thế giới sẽ trở nên tốt hơn nếu như Chúa tiêu diệt …… (thằng A hay con B, chẳng hạn. Hic) …
Chỉ có một vài người trong chúng ta đủ can đảm tuyên bố như thế, nhưng đa phần chúng ta đều cho là như thế, không lúc này cũng lúc khác. Đúng không?
Giá như Chúa xóa sổ mấy nước lớn chuyên đi đe dọa hòa bình và ổn định của đất nước chúng ta ...; Giá mà Chúa loại bỏ hoàn toàn đám tội phạm chuyên giết người cách vô lương tâm … những tay bác sĩ ác nhân thất đức, giết người thay vì cứu người; … những chính trị gia quá khích, những nhà hoạt động xã hội cuồng tín luôn hãm hại người khác theo lý lẽ của chúng; … những người cha, người mẹ luôn đánh đập hành hạ và thậm chí là giết chết con mình.
Sách Giô-na là nhắm đến khao khát của chúng ta được trả thù và được trừng phạt đối với những kẻ làm ác đấy. Asyri là một thế lực hung ác và khát máu trên thế giới vào thời của Giô-na. Nếu có cơ hội, Giô-na sẽ xin Chúa đì-lít chúng vĩnh viễn ngay, và chắc chắn là ông sẽ cảm thấy vô cùng ô-kơ với lời cầu xin như thế!
Thế nhưng, Đức Chúa Trời thì lại có ý tưởng khác. Chúa muốn Giô-na nhìn người Ninive như chính Chúa nhìn thấy họ: hư mất, vô vọng, thơ dại thuộc linh, cần được thương xót và xứng đáng được cứu rỗi.
Thành kiến của Giô-na đối với người Asyri vốn thâm căn cố đế rồi. Lòng căm thù của ông thì vô cùng mãnh liệt, và ông mong mõi có một ngày được nhìn thấy kẻ thù của mình bị Chúa vằm nát như tương!
Suốt 4 chương sách, chúng ta thấy được Đức Chúa Trời đã làm việc cách đầy kiên nhẫn đối với vị tiên tri cố chấp này. Rồi khi sách kết thúc, vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ. Bạn có cho rằng, Giô-na đã lãnh hội được “xung động” của Đức Chúa Trời liên quan đến người Ninive không?
NHÌN TỚI
Đừng để cho một cá nhân hay một tập thể những con người vốn là đối tượng yêu thương của Đức Chúa Trời lại trở nên đối tượng căm thù hay trả thù của bạn. Điều đó không có nghĩa là bỏ qua những hành vi mà Chúa lên án, nhưng là xóa bỏ bất cứ những cay đắng, hoặc sự không tha thứ nào mà ta còn chất chứa đối với những người được Chúa yêu thương.
Bất kể lòng căm thù là vì nguyên nhân gì đi nữa thì phản ứng cần phải có nơi mỗi chúng ta luôn giống nhau: nhìn người khác như cách Chúa nhìn thấy họ và hãy yêu người như cách Chúa yêu ta!
Thi sĩ Đa-vít đã cầu nguyện ri nè:
“Đức Chúa Trời ôi! Xin tra xét con và biết lòng con;
Xin thử nghiệm con và biết tư tưởng con;
Thử xem con có lối ác nào không,
Và dẫn con vào con đường đời đời.”  (Thánh Thi 139: 23-24).
Thế thì, đừng để cho “tình trạng xơ cứng” trong quan điểm của Giô-na làm tắt nghẽn “động mạch yêu” của mình bạn nhé.
Cuộc đời quá ngắn ngủi, không đủ để thù, để ghét những con người mà Đức Chúa Trời muốn yêu thương và muốn cứu chuộc đâu nha!

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2015

GIÔ-NA HÀNH KHÚC

Giô-na 1-4
Nếu so về độ mỏng thì sách tiên tri Giô-na không thể sánh cùng … cực siêu mỏng Áp-đia của ngày hôm qua. Thế nhưng, nếu nói về độ ngắn của sứ điệp thì có lẽ Giô-na đã đạt đến độ ngoại hạng, siêu cầu thủ rồi. Ngắn đến thế này cơ mà:
Còn bốn mươi ngày nữa, thành Ni-ni-ve sẽ sụp đổ.  (3: 4) Chỉ vỏn vẹn có 10 từ. Đó là trong tiếng Việt, chớ còn trong tiếng Anh hay một số ngôn ngữ khác thì còn ngắn hơn.
Ngắn nhưng mà … bén lắm à nha. Cả thành Ninive, từ dân đến vua, từ người đến thú đều quấn bao gai, nhin ăn, nhịn uống kêu xin sự thương xót của Đức Chúa Trời ngay lập tức (3: 5-9)
Sự ăn năn đã xảy ra trên cả một cộng đồng ngoại giáo, SAU KHI người của Chúa (Giô-na) hạ lòng ăn năn, quay trở lại đầu phục Chúa. Điều này cũng đã từng xảy ra trong chức vụ của sứ đồ Phê-rơ nhưng so về số lượng người đáp ứng thì kém xa Giô-na (3.000/120.000)!
Bài học đầu tiên từ sách Giô-na là rứa đo.
Tiếp theo, hễ nơi đâu còn có người thật lòng ăn năn cầu khẩn Chúa, thì nơi đó còn nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời. Bất kể người đó là ai – là đầy tớ Chúa hay người chưa từng tin thờ Chúa.
Tiếp theo, là chuyện lạ đời khi người giảng đạo không muốn người nghe quy đạo. Tại sao Giô-na không muốn toàn quan, toàn quân, toàn dân Ninive ăn năn? Tại vì đối với Y-sơ-ra-ên thì Ninive là kẻ thù truyền kiếp. Mà kẻ thù thì chỉ có giết chớ làm gì có chuyện tha. Đúng không?
Nhưng ngặt nỗi, Đức Chúa Trời của Giô-na lại hay “động lòng thương xót” lắm cơ. Bất kỳ ai mà hạ lòng ăn năn, xưng nhận tội lỗi mình và cầu xin sự tha thứ thì Chúa tha liền à. Giô-na biết rõ điều đó. Ông biết rằng, Chúa là Đức Chúa Trời nhân từ, hay thương xót, chậm giận, và giàu tình yêu thương, lại sẵn sàng đổi ý không giáng tai họa (3: 2)
Thế cho nên, Giô-na đã chọn thà bất tuân thiên lệnh, và thậm chí thà chết chớ nhất định không cho kẻ thù của dân tộc mình có con đường sống (1: 1-3, 12). Yêu nước đến thế là cùng. Thâm thù đến thế là … tuyệt đỉnh công phu đấy.
Rồi khi bị Chúa … ‘triệt buộc’ phải xuất đầu lộ diện tại Ninive để công bố ý muốn của Đức Chúa Trời trong hình hài của người về từ cõi chết, thì Giô-na giảng theo kiểu … “mời nhưng vái trời đừng ăn!”
Ừ thì Giô-na đã vâng lời. Ông đã đến đúng nơi cần đến, nói những gì cần nói và thậm chí, ông đã có một cuộc truyền giảng thành công ngoài mong đợi.
Vâng, trong cái nhìn của con người thì đúng là như thế. Song trong cái nhìn của Đức Chúa Trời thì vẫn còn một điều cần phải được gỡ bỏ khỏi tấm lòng của tôi tớ Ngài. Người hầu việc Đức Chúa Trời cần phải có một tấm lòng thương xót.
Khi giới thiệu Chúa Giê-xu cho người khác, khi chia sẻ Tin Lành cho người khác thì chúng ta làm điều đó vì răng: vì bổn phận, trách nhiệm, vì sợ bị Chúa uýnh hay là vì ta thương họ, muốn cho họ hưởng được tình yêu của Chúa?
Khi cầu thay cho những người lãnh đạo đất nước hoặc cho những người đang chống đối, bách hại, quấy phá mình, bạn và tôi có thật sự thương cảm họ hay cầu thì cầu nhưng lòng luôn thầm mong ‘chúng’ chết phứt cho rồi?
Hỡi anh chị em yêu dấu của tôi, đặc biệt là những người đang hầu việc Chúa, hãy tra xét lòng mình xem có bị tinh thần “hận truyền kiếp” của Giô-na đang ‘ám’ không nhé. Có những đối tượng nào mà anh chị em không bao giờ muốn họ được cứu chăng?
Bài học thứ 4 mà chúng ta có thể nhận được từ sách Giô-na là quyền tể trị của Đức Chúa Trời trên toàn cõi tạo vật.
Chúa điều động và sai khiến mọi vật, mọi quy luật để hoàn thành chương trình, kế hoạch của Ngài. Từ con cá voi đến con sâu cắn lá; từ một trận bão lớn đến một cơn gió nóng. Chúa bảo nuốt, chúng nuốt; Chúa bảo cắn, chúng cắn; Chúa bảo nôn, chúng nôn. Tất tần tật, tuốt tuồn tuột đều răm rắp vâng lịnh Chúa.
Đức Chúa Trời mà chúng ta thờ phượng là như thế đấy. Hãy cố mà học biết tin cậy nơi Ngài.
Cuối cùng là hình ảnh đầy tương phản: khi đối diện với hiểm họa chết người chờ chực là cơn bão lớn trên biển thì các thủy thủ ngoại giáo đều khẩn thiết cầu xin với thần thánh của mình, riêng người của Chúa vẫn vô tư ngủ. Không phải ngủ vì “tâm linh tôi an ninh thay” mà là vì “nhắm mắt lại”, “trốn tránh thực tại”, không quan tâm gì đến những biến động xung quanh.
Sẽ là vô cùng tồi tệ khi người của Đức Chúa Trời không còn có thói quen kêu cầu Chúa của mình kể cả khi lâm vào hoạn nạn, tai ương.
Đối với con người thì việc Giô-na xuống tàu đi Ta-rê-si có thể được hiểu là đang đi “công việc Chúa ở nước ngoài”, nhưng đối với Đức Chúa Trời thì đó là một hành động đào ngũ, rời bỏ chức vụ. May mà còn có cơn bão lớn nổi lên nên người ta mới biết được Giô-na đang chống nghịch Chúa, đang lìa bỏ công việc Chúa giao. Bằng không thì …
Hóa ra không phải chuyến đi nào cũng là đi theo ý Chúa nhỉ?  

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015

Ê-ĐÔM TÀN CUỘC

Áp-đia 
Nếu nói về độ mảnh, độ mỏng thì sách tiên tri Áp-đia đúng là cực siêu mỏng luôn. ‘Em’ nó mỏng nhất trong 39 sách thuộc kinh Cựu ước đấy ạ. Mỏng nhưng không hề kém sắc, thậm chí là hơi bị bén đấy nhé. Áp-đia chỉ nhắm vào một đối tượng duy nhất, để ‘chém’ đúng một nhát thôi. Đối tượng đó là dân Ê-đôm.
Ê-đôm là hậu duệ của Ê-sau. Ê-sau là anh của Gia-cốp. Gia-cốp là tổ phụ của dân Y-sơ-ra-ên. Hai anh em nhà này (Ê-sau, biệt danh Cả Lông hay Cả Đỏ và Gia-cốp, biệt danh Út Đểu) vật lộn với nhau từ trong bụng mẹ. Và cũng từ trong bụng mẹ, Út đã được chọn để thay Cả. Rồi theo ý chí tự do của mình, ngày kia Cả đã ‘bán’ quyền trưởng nam của mình cho Út để lấy một bát súp củ cải đỏ. Út đã được tiếng. Rồi ngày kìa, Út gạt ông bố mù chiếm gọn mọi phước lành của Cả. Cả “tiếng” lẫn “miếng”, giờ đều nằm gọn trong tay Út. Thế là, huynh hận đệ hết thế hệ này sang thế hệ khác.
Và “hận Út Đểu” là nguyên nhân chính dẫn đến lời tuyên án mà Đức Chúa Trời dành cho hậu duệ của Ê-sau thông qua chức vụ của tiên tri Áp-đia.
“Vì sự tàn bạo ngươi đối với anh em ngươi là Gia-cốp, nên ngươi sẽ bị hổ thẹn và bị hủy diệt đời đời! (c. 10)
Ê-đôm đã làm gì mà bị kêu án là tàn bạo đối với em mình? – Nghe thì có vẻ lạ lùng, nhưng điều mà Ê-đôm đã làm là KHÔNG LÀM GÌ CẢ! Vâng, Ê-đôm đã không làm gì cả khi dân Giu-đa bị hoạn nạn. Ê-đôm chỉ đứng nhìn khi Giu-đa bị quân thù tấn công. Có chăng chỉ là … “hả hê” chút đỉnh khi thấy con cháu Út Đểu bị người ta uýnh te tua. Ngoài ra, thì cũng có ‘giữ giùm’ ít đồ cho chú Út nó, với lại có ‘ngăn cản’ mấy đứa nhỏ chạy lung tung vậy thôi à (c. 11-14).
Ừ chỉ có chừng đó thôi mà bị uýnh hội đồng, bị nhục và bị đì-lít (delete) vĩnh viễn, không thể phục hồi được nữa.
Nhưng chuyện anh em nhà ‘hắn’ thì liên can chi đến ta ngày nay cơ chứ? – Sao không. Nếu không liên quan, Chúa ‘dán’ em cực siêu mỏng này vào Kinh Thánh làm gì.
Này tại sao Ê-đôm lại bị uýnh hội đồng, bị nhục thôi rồi và bị đì-lít vĩnh viễn? - Ấy là vì nó xử sự không đúng với dân Giu-đa, tức là với con dân của Chúa. Đừng quên là Chúa có lập một giao ước với dân sự Ngài mà đại diện là Apraham, rằng “sẽ rủa sả kẻ nào rủa sả ngươi, và ban phước cho kẻ nào chúc phước cho ngươi” (Sáng 12: 3; Galati 3: 8-9)
Thái độ của một người đối với người tin thờ Chúa sẽ quyết định phước hay họa mà họ sẽ nhận lãnh đấy. Dân Ê-đôm đã thờ ơ, không ra tay giúp đỡ khi con dân Chúa bị hoạn nạn, lại còn “đục nước, béo cò”, “mượn gió bẻ măng” nên đã bị uýnh cho sát ván luôn. Không những thế, vào đến giữa thế kỷ thứ I, dân Ê-đôm bị tuyệt chủng hoàn toàn.
Nguyên tắc này vẫn còn nguyên hiệu lực cho đến tận hôm nay. Bất kỳ cá nhân, tổ chức hay quốc gia nào có thái độ thù ghét, chống đối hay tấn công dân sự Chúa (cả dân Israel và người tin thờ Chúa Giê-xu) thì đều phải gánh chịu sự trừng phạt từ nơi Chúa cả đấy.
Ngay cả chúng ta, những người đã tin thờ Chúa cũng chịu sự chi phối của điều khoản này của giao ước Apraham. Thế thì, có khi nào bạn hoàn toàn vô tâm đối với hoạn nạn của những anh chị em đồng đức tin nơi Đức Chúa Giê-xu như mình không? Hoặc tệ hơn, đã có khi nào bạn hể hả khi thấy một người tin thờ Chúa hay hầu việc Chúa bị hoạn nạn hay bị sa ngã không? Chắc là không đâu nhỉ?
Thế khi nghe tin những người tin thờ Chúa Giê-xu như chúng ta đang bị quân Hồi giáo cực đoan tại I-rắc, Syria chặt đầu, bách hại mỗi ngày thì chúng ta phản ứng thế nào: cầu nguyện với Chúa hay dửng dưng đọc lướt qua như bao tin tức khác?
Hoặc gần hơn, khi nghe tin một người tin Chúa hay một người hầu việc Chúa nào đó mà mình không thích hoặc là “đối thủ” của mình bị hoạn nạn, bị ngã đổ thì phản ứng của bạn sẽ là gì: hể hả vui mừng hay kêu khóc với Chúa và tìm mọi cách để ủi an?
Đọc sách Áp-đia thì thấy dân Ê-đôm sao mà bạc thế, nhẫn tâm đến thế. Song biết có mấy ai ngày nay, còn đủ tỉnh táo để nhận ra rằng, tinh thần Ê-đôm vẫn còn ngự trị, vẫn còn thắng thế đây đó trong nhiều hội thánh, trong nhiều cộng đoàn con dân Chúa.
Hãy tự soi mình, và sớm thoát khỏi “con đường dẫn đến sự chết” này hỡi anh chị em. Còn có ‘đứa’ nào mà ta mong cho ‘nó’ lụn bại, thân tàn ma dại không? Hãy giải quyết nhanh đi nhé, ‘tha’ cho nó ngay đi, kẻo Chúa sai Ap-đia đến tuyên án là chạy không thoát đâu đấy.
Bài học hôm nay thì chỉ có chừng nớ thôi, song áp dụng suốt cả đời đấy. Cực siêu mỏng mà không hề mỏng. Nhớ nha