Thứ Bảy, 19 tháng 9, 2015

CÁI KHÓ LÓ CÁI … TIN

Habacuc 1-3
Khác với sách Nahum hay một số sách tiểu tiên tri khác, sách Habacuc được nhiều người biết đến. Có đến 3 lần trong kinh Tân Ước, sờ-ta-tút của Habacuc trong 2: 4 được lập lại … ‘nguyên con’ đấy. Đó là trong Rô-ma 1: 17; Galati 3: 11, và trong Hê-bơ-rơ 10: 38. Và với khẩu hiệu lệnh: “Người công bình sống bởi đức tin”, Martin Luther đã được Chúa dùng để mở ra một trang mới trong lịch sử Hội Thánh: thời kỳ Cải Chánh với nổ lực đem Hội Thánh trở lại với tình trạng tinh ròng buổi ban đầu.
Sách tiên tri Habacuc thực chất là bản ghi chép lại cuộc đàm thoại trực tiếp … qua đường dây nóng giữa vị tiên tri và Đức Chúa Trời. Habacuc hỏi và Chúa trả lời.
Câu hỏi thứ nhất: “Tại sao Chúa lại để cho phường gian ác cứ phây phây như thế?” (1: 2-4) Đây cũng chính là câu hỏi của mỗi chúng ta, khi hàng ngày phải nhìn vào hiện tình đất nước. Đây cũng chính là trăn trở, nhức nhối của mỗi chúng ta.
Trả lời: “Con cho là Ta im lặng à. Không hề nhé. Có điều là con chưa nhận ra câu trả lời của Ta đấy thôi. Chắc chắn là Ta sẽ trừng phạt những kẻ phạm pháp trong dân Ta. Bằng công cụ gì ấy à? – Đấy, quân Canh-đê tàn ác đấy. Đạo quân ngoại xâm hung ác ấy sẽ là ngọn roi trong tay Ta để trừng phạt dân Giu-đa đấy.”
Câu hỏi thứ hai: “Vâng, dân Giu-đa phạm tội thì phải bị trừng phạt là đúng rồi, nhưng … tại sao Chúa lại sử dụng những kẻ còn xấu xa, tội lỗi hơn dân Giu-đa để trừng phạt dân Giu-đa là răng?”
Phần lớn chúng ta cũng thường có thắc mắc như vậy. Ừ, đã phạm tội thì phải bị phạt thôi. Bị kẻ lớn hơn mình, tốt hơn mình, ‘thánh’ hơn mình, … mà xử mình thì dễ dàng chấp nhận … đau thương thôi. Nhưng còn để cho cái quân bé hơn, xấu hơn, kém hơn, … mình xử mình thì làm sao chấp nhận cho được.
Thế nhưng, chúng ta thường quên mất rằng, con người – dù tốt hơn hay xấu hơn ta – cũng chỉ là ngọn roi, là công cụ thi hành án mà thôi. Đức Chúa Trời mới là Quan án, là Đấng xét xử đích thực. Do đó, Chúa có toàn quyền quyết định trong việc dùng loại công cụ thi hành án nào chớ không phải phạm nhân.
Đối với Giu-đa, vương quốc phía Nam, con bệnh đang trong thời kỳ cuối thì chỉ có quân Canh-đê, tức Babilon tàn ác kinh khiếp như thế, mới đủ tầm để làm sạch xứ sở này khỏi tội thờ hình tượng, cùng những bất công xã hội mà thôi.
“Nhưng còn đạo quân ngoại xâm quá độc ác này thì sao?” – Ta biết phải xử lý thế nào. Yên tâm đi. Ta biết chúng kiêu, Ta biết chúng tham, Ta biết chúng ác, Ta biết chúng say sưa, Ta biết tội thờ lạy hình tượng của chúng và Ta còn biết chúng thần thánh sức mạnh của mình và sống theo phương châm: “luật pháp trong tay kẻ mạnh” nữa kia.
Sẽ có thời điểm thi hành án cho những “công cụ thi hành án” gian ác này, tức là quân Canh-đê. Chắc chắn điều đó sẽ xảy ra. Con hãy ghi điều này lên bảng đi. Và chờ đó mà xem, không có chuyện trì hoãn đâu!
Nếu luôn ý thức được rằng con người chỉ là công cụ để thực thi ý muốn của Chúa trên đời sống của chúng ta thì dù có bị uýnh lên bờ xuống ruộng cỡ nào đi nữa, chúng ta cũng sẽ rất nhẹ nhàng, vui vẻ chịu án, mà không cay cú hay hận thù đối với “công cụ thi hành án”, tức là những người đã … xử chúng ta. Và nếu ý thức được rằng Đức Chúa Trời mà chúng ta thờ phượng luôn kiểm soát mọi sự và là Quan Án công bình thì chúng ta rất dễ dàng “yên lặng chờ ngày tai họa đến” (3: 16), dễ dàng bước đi bởi đức tin, ngay trong những giai đoạn cực kỳ khó khăn và rất dễ dàng để xác chứng lòng tin cậy của mình nơi Chúa như Habacuc đã từng, sau khi được Chúa giải tỏa mọi thắc mắc.
Cho dù cây vả sẽ không nứt lộc nữa,
Vườn nho ngưng ra trái,
Cây ô-liu bị thất mùa,
Ruộng đồng không sinh sản lương thực,
Bầy chiên bị dứt khỏi ràn,
Và không có bầy bò trong chuồng nữa,
Con vẫn vui mừng trong Đức Giê-hô-va;
Con vẫn hớn hở trong Đức Chúa Trời của sự cứu rỗi con. (3: 17-18)
Còn có nhiều bất công, áp bức, độc ác và gian trá trong xã hội mà chúng ta đang sống và thậm chí điều ác hiện như đang thắng thế. Trong hoàn cảnh như vậy, Chúa đòi hỏi gì nơi chúng ta – những người tin thờ Chúa? – Tiếp tục sống KHÁC Đời, tiếp tục sống GIỐNG Trời, tức là tiếp tục SỐNG BỞI ĐỨC TIN. Đức tin nơi một Đức Chúa công bình, thánh thiện. Chúa là Quan Án công bình, nơi Ngài luôn có sự thưởng phạt công minh.


Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

NINIVE, GIỜ PHÁN XÉT

Nahum 1-3
Có khi nào bạn đã từng giảng hoặc từng nghe một bài giảng từ sách Nahum chưa? “Chưa” chắc chắn là câu trả lời của số đông. Bởi vậy cho nên cũng không ngoa khi bảo rằng, Nahum là một trong những sách bị hất hủi nhất trong Kinh Thánh.
Sách Nahum thuật lại những gì mà vị tiên tri đã được Chúa cho thấy trước về sự trừng phạt trên Ninive, thủ đô của đế quốc Asyri thời bấy giờ. Cũng chính là Ninive này, hơn 100 năm về trước đã được Chúa tha mạng, khi từ vua chí dân hạ lòng ăn năn bởi sứ điệp trực tiếp từ tiên tri Giô-na. Thế nhưng, giờ đây thế hệ tiếp theo của Ninive mà đầu lĩnh là vua San-chê-ríp lại chứng nào tật ấy, nên án tử đã được tuyên, giờ thi hành án đã được ấn định, lực lượng thi hành án đã nhận được lịnh, và phương cách thi hành án cũng đã xác định xong. Gọn một lời là XONG PHIM.
Thế nhưng, chuyện một ông vua xa lơ xa lắc, lạ huơ lạ hoắc nào đấy, một thành phố cổ đại nào đấy ở Trung Đông bị trừng phạt thì ảnh hưởng gì đến ta hôm nay nhỉ? Hay nói cách khác, sứ điệp của sách Nahum có thật sự ích lợi cho chúng ta, những người tin thờ Chúa trong thế kỷ 21 này không?
Câu trả lời: chắc chắn là có.
Nếu muốn soạn một bài giảng từ sách tiên tri này, bạn có thể chọn đề tài là sự phán xét hay sự xử án cũng được. Mỗi một chương là nội dung của một ý chính. Chương I: Đấng phán xét; chương II: Chi tiết cuộc phán xét, và chương III: Nguyên nhân cuộc phán xét.
Thế nhưng, bài học lớn nhất của sách tiên tri Nahum là Tính Nghiêm Khắc/Nghiêm Minh hay Cơn Giận của Đức Chúa Trời. Đây là một thuộc tánh của Đức Chúa Trời mà con người hôm nay, kể cả con dân Chúa không muốn nhắc đến. Thậm chí nhiều người còn không thể chấp nhận ý tưởng rằng Đức Chúa Trời kỷ luật hay trừng phạt ai đó.
Vâng, Chúa chúng ta là Đức Chúa Trời yêu thương, chậm nóng giận và đầy sự thương xót. Chúa chậm nóng giận chớ không phải là không nóng giận nha. Mà một khi Chúa đã giận thì … thôi rồi Lượm ơi!
Chỉ cần 6 câu đầu của chương 1 là đủ choáng rồi. Nầy nhé, ghen là một, báo thù là hai, thạnh nộ là ba, nóng giận là bốn, phẫn nộ là năm, dữ dội là sáu, và mãnh liệt là bảy.
Cơn giận của Chúa không phải là nổi nóng theo kiểu phát hỏa. Nó không mang tính cách cố ý trả thù, chấp nhất vụn vặt hay tàn nhẫn … không cần thiết. Cơn giận của Chúa không theo kiểu thất thường hay vô lý. Nó cũng không mang tính ích kỷ, bừa bãi, đụng đâu giận đó hay … loạn xị ngầu.
Không. Cơn giận của Chúa là thánh thiện. Nó xuất phát vừa từ đức yêu thương, và cũng vừa từ đức công chính của Đức Chúa Trời. Đó là cơn giận … được giám sát hẳn hòi, hoàn toàn … đúng quy trình nhưng thật đáng kinh sợ khi phải chứng kiến.
Mà một khi Chúa đã giận thì đúng là … đổ lửa đổ củi, long trời lở đất, vạn vật hãi hùng. Túm lại là vô cùng kinh khiếp, đúng như tác giả thơ Hê-bơ-rơ đã xác nhận: “sa vào tay Đức Chúa Trời hằng sống thật là kinh khiếp thay!” (10: 31)
Một khi mà Chúa đã nổi trận lôi đình thì đúng là một phát chết ngay, không cần phát thứ hai nha (1:9). Cơn thạnh nộ của Chúa có thể đổ trực tiếp xuống một cá nhân, và cũng có thể xuống một tập thể hay một quốc gia.
Tội ác của Ninive là gì? – Gây đổ máu (3:1). Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay là chuyên đi “đe dọa nền hòa bình của khu vực và quốc tế”. Anh chị em hãy để ý xem kết cuộc của một vài quốc gia ngày nay đang đi vào con đường của Ninive xưa. Nếu những người lãnh đạo các quốc gia đó không ăn năn tỉnh ngộ thì chắc chắn cá nhân họ và quốc gia của họ cũng sẽ cùng chung số phận như vua San-chê-ríp và Ninive.
Có cách nào tránh khỏi cơn giận của Đức Chúa Trời không? Nahum đã cho chúng ta câu trả lời trong 1: 7
CHÚA nhân từ,
Ngài là thành trì kiên cố trong ngày hoạn nạn,
Ngài chăm sóc những ai nương náu trong Ngài.
Không một ai trở lại cùng Chúa, đặt lòng tin cậy nơi Chúa mà phải đối diện với cơn thạnh nộ của Ngài cả. Vì cớ Đức Chúa Trời chỉ bày tỏ cơn thạnh nộ của Chúa đối cùng những kẻ từ chối tình yêu của Ngài mà thôi.
Ninive đã từng một lần nhận biết lỗi lầm, ăn năn xin Chúa tha thứ và Chúa đã tha. Thế nhưng, họ lại một lần nữa tái phạm, chọc giận Chúa và kết quả là bị hủy diệt hoàn toàn. Chúa là Đức Chúa Trời yêu thương, nhưng đồng thời Ngài cũng là Đấng công bình, nghiêm minh, không bao giờ gọi kẻ có tội là vô tội. Từ ngàn xưa cho đến tận mai sau Đức Chúa Trời luôn là như thế: có cả yêu và giận trong những thuộc tánh của Ngài. Những thuộc tánh đó là không thể chia tách.
 “Nhìn thằng Nô kìa. Cỡ nó mà chỉ một phát là đi đứt vĩnh viễn, sạch sẽ luôn huống chi là ngươi!” (3: 8-10). Đó là lời cảnh báo của Chúa đối với sự tự mãn của Ninive và lời đó đáng để chúng ta ghi nhớ.
Biết bao nhiêu gương Nô A-môn thời nay, trong cũng như ngoài Hội Thánh, “đã bị lưu đày, và bị cầm tù; Con cái nó cũng đã bị nghiền nát nơi đầu đường xó chợ”.
Hãy nhìn vào mấy tấm gương tày liếp ấy mà soi mình ; Đừng có mà tí tởn, bé cái nhầm (thực ra là bị lừa dối) mà lạm dụng tình yêu của Chúa để rồi tiếp tục miệt mài trong đời sống bất kính, bất khiết nha anh chị em.


Thứ Năm, 17 tháng 9, 2015

GIU-ĐA, NGÀY HẦU TÒA

Mica 6-7
Mica kết thúc những lời tiên tri của mình bằng quang cảnh một phiên tòa. Bị cáo là toàn thể Y-sơ-ra-ên nói chung, chớ không phải chỉ là vương quốc Y-sơ-ra-ên phía Bắc. Còn “các núi, các đồi và các nền vững chắc muôn đời của đất” thì được triệu tập làm nhân chứng.
Và sau đây là trích đoạn “tường thuật trực tiếp” từ phiên tòa:
“Nào, bị cáo hãy trả lời xem: Ta đã hành hạ, đày ải các ngươi như thế nào?
Có phải Ta đã giải thoát các ngươi khỏi kiếp nô lệ; ban cho các ngươi những người lãnh đạo tuyệt vời; ngăn cản kẻ thù làm hại các ngươi; và còn biết bao nhiêu điều công chính khác nữa mà Ta đã làm cho các ngươi …”
“Thế chúng tôi phải cúng tế đến cỡ nào thì Chúa mới vừa lòng đây? Phải chiên đực, bò con cả nghìn, dầu chảy thành sông thì Ngài mới thỏa dạ? Hay là Chúa muốn chúng tôi phải thiêu sống con mình trên lửa thì Ngài mới bỏ qua tội lỗi của chúng tôi? Chúa muốn gì cứ nói thẳng ra đi …”
“Chẳng có gì bí mật hay rắc rối phức tạp trong chuyện này cả. Thế chẳng phải Ta đã từng bảo các ngươi điều gì là tốt rồi sao. Và điều CHÚA đòi hỏi ngươi chẳng phải là thực thi công lý, yêu thích việc thương xót, và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời của ngươi sao?”
Hóa ra, việc hành đạo hay sống đạo không nằm ở chỗ tham gia đầy đủ các sinh hoạt tôn giáo ở nhà thờ, mà là “thực thi công lý, yêu mến sự thương xót, và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời” (6: 8). Tham gia các sinh hoạt tôn giáo ở nhà thờ là điều tốt nhưng nếu chỉ có chừng đó thì chưa đủ. Người tin thờ Chúa còn phải đáp ứng được những đòi hỏi của Chúa trong đời sống thường nhật nữa.
Dân Chúa xưa đã thất bại tại chỗ này: Họ giàu có vì gian lận, lường gạt người khác trong làm ăn buôn bán. Và khi đã giàu lên, có của ăn của để thì trở nên hống hách, bạo ngược. Người người đều giả trá, người người đều dối gạt lẫn nhau.
Một khi mà dân sự Chúa cũng gian, cũng dối, cũng giả, … y như người không tin thờ Chúa thì xã hội đó sẽ càng tăm tối biết chừng nào. Ấy là vì Chúa chọn chúng ta, những người tin Ngài, để làm sự sáng cho thế gian. Nhưng “nếu ánh sáng trong con chỉ là bóng tối thì bóng tối ấy sẽ lớn là dường nào!”” (Mathiơ 6: 23)
Chúng ta thường hay lên án và thậm chí lên án cách gay gắt những kẻ nhận hối lộ nhưng cũng chính chúng ta lại cảm thấy bình thường khi đưa tiền hối lội người khác (cảnh sát, quan chức chính quyền, …) để … “được việc”, đúng không? Nhiều người trong chúng ta rất ‘to mồm’ trong việc lên án, nếu không muốn nói là chữi rủa mấy tay cán bộ tham nhũng, nhưng lại rất vô tư trong việc trộm cắp.
Từ việc sử dụng những phần mềm bị bẻ khóa, sử dụng internet ‘chùa’, đánh cắp mật khẩu các tài khoản xã hội của người khác, đến ăn cắp thời gian lao động, đánh bắt trộm chó mèo và … kính thưa các thể loại động vật hoang dã khác. Thậm chí, nhiều con dân Chúa còn khoe việc đó khắp nơi, cứ như là những chiến tích không bằng.
Chúng ta thường hay kêu gào về bất công trong xã hội, luôn đòi hỏi công lý phải được thực thi, nhưng ta lại tiếp tay cho bất công, cổ xúy cho việc bẻ cong công lý như thế thì chúng ta sẽ phải trả lời với Chúa thế nào?
Đó là nói về việc thực thi công lý, còn việc yêu thích bày tỏ lòng thương xót đối với người khác - đặc biệt là đối với những người thấp kém hơn - và bước đi cách khiêm nhường với Đức Chúa Trời thì sao? Nếu Chúa mở một phiên tòa như thế thì có bao nhiêu người trong chúng ta được tuyên là … không đủ yếu tố để kết thành tội phạm (?)
Dân Y-sơ-ra-ên xưa bị Chúa phạt nặng không chỉ vì tội thờ hình tượng (6: 16) mà còn vì những quá phạm của họ trong quan hệ xã hội dân sự mỗi ngày (6: 10-12). Vì cớ Chúa không hề thay đổi, nên những đòi hỏi nơi Mica 6: 8 vẫn còn nguyên hiệu lực đối với người tin thờ Chúa ngày nay. Khá nhớ rằng, “tất cả chúng ta đều phải trình diện trước tòa án Đấng Christ để mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hoặc ác mình đã làm lúc còn trong thân xác” (2 Corinhto 5: 10)
Hình phạt mà Chúa dành cho tuyển dân xưa vì những sai phạm của họ trong quan hệ dân sự cũng đáng để cho chúng ta – dân sự Chúa ngày hôm nay – suy gẫm thường xuyên.
Đây này, trước hết là bị uýnh cho “trọng thương chí tử”, cho te tua tàn tạ. Tiếp theo là thiếu thốn triền miên. Nếu có làm ra được tiền của thì cũng không giữ được, mà nếu có tích trữ được thì cũng dành cho … đứa khác nó xơi. Tiếp theo nữa là làm gì cũng thất bại, thậm chí cơm đưa tới miệng cũng không được ăn rồi cuối cùng là bị lưu đày, giam cầm, bị bắt làm nô lệ, và trở thành đề tài chế giễu của thiên hạ. Còn nhục nào nhục hơn! (6: 13-16)
Dù cho con người luôn có xu hướng sa sút, thiên về tội lỗi; Dù cho xã hội loài người ngày càng băng hoại, đạo đức suy đồi, bất công xã hội gia tăng khắp nơi, kể cả trong cộng đồng dân Chúa, thì Đức Chúa Trời vẫn không hề thay đổi. Đức công chính của Ngài vẫn y nguyên, lòng nhân từ và sự thương xót của Chúa vẫn vẹn toàn từ đời nọ sang đời kia (7: 18-20). Công lý của Chúa cuối cùng sẽ chiến thắng, những kẻ đặt lòng tin nơi Ngài, sống đời kính sợ Ngài sẽ không bao giờ bị thiệt thòi.
Đó chính là là cơ sở để mỗi một chúng ta – dù trong bất cứ cảnh ngộ nào – cũng có thể dõng dạc tuyên bố như Mica đã từng: “Về phần tôi, tôi sẽ ngưỡng trông nơi CHÚA, Tôi sẽ trông đợi Đức Chúa Trời, Đấng Giải Cứu của tôi; Đức Chúa Trời của tôi sẽ nghe tôi.” (7: 7)
Bạn có tin quyết đủ để nói ra điều này ngay bây giờ không?


Thứ Tư, 16 tháng 9, 2015

GIU-ĐA, NGÀY CHIẾN THẮNG

Mica 3-5
Ngày chiến thắng ở đây là chiến thắng của Công Lý Đức Chúa Trời trên xã hội loài người nói chung và trên tuyển dân Do-thái nói riêng.
Dù những người lãnh đạo chính quyền và giáo quyền ở vương quốc Giu-đa có “ghét điều thiện, chuộng điều ác” (3: 2), “ghét công lý và làm bại hoại sự bình đẳng” (3: 9) cỡ nào đi nữa, thì cũng không vì thế mà có thể bẻ cong Công Lý thiên thượng được. Điều đó là chắc chắn.
Chỉ cần một câu thôi là Mica đã khắc họa đầy đủ mọi góc cạnh của những gương mặt làm tàn mạt đất nước:
Các nhà lãnh đạo phán xét vì hối lộ,
Các thầy tế lễ dạy dỗ vì tiền công,
Còn các kẻ tiên tri nói tiên tri vì bạc;
Rồi chúng lại nương cậy CHÚA mà nói rằng:
“Chẳng phải CHÚA đang ở giữa chúng ta sao?
Tai vạ sẽ chẳng đến trên chúng ta đâu!” (3: 11)
Vâng, tất cả chỉ vì TIỀN, tất cả cùng phục vụ theo đúng nguyên tắc “đầu tiên là … tiền đâu”! Vâng, dấu hiệu thời mạt vận của một xã hội, của một quốc gia luôn là như thế đấy.
Án phạt nhỡn tiền dành cho hạng quan tham gian ác này là ri: Chúa không trả lời khi họ kêu, Chúa sẽ lánh mặt khi họ tìm.
Mà những người này thì khi nào họ thèm kêu đến Chúa? – Có đấy, khi hình phạt giáng xuống trên họ, trên gia đình của họ, trên chức vụ của họ. Có điều, khi đó mới kêu cầu Chúa, mới tìm kiếm mặt Chúa thì … hết cửa rồi cưng.
Nhiều người ngày nay, thậm chí chẳng quyền cao chức trọng gì nhưng cũng tinh tướng ra phết, cũng tham, cũng ác và thậm chí còn thách thức Chúa nữa mới ghê chớ. Đúng là điếc không sợ súng.
Ừ nó cương thì nó chịu. Thế nhưng, nếu ‘nó’ là lãnh đạo – kể cả chính quyền, lẫn giáo quyền – mà ‘cương’ với Chúa thì không chỉ nó chết mà cả Si-ôn sẽ bị cày như đồng ruộng, Giê-ru-sa-lem sẽ thành những đống đổ nát, và hòn núi nơi xây đền thờ chỉ là một đỉnh cao giữa rừng. (3: 12). Điều này có nghĩa rằng, tội lỗi của người lãnh đạo sẽ khiến cho hình phạt từ Chúa giáng xuống không chỉ trên cá nhân người đó mà còn cả trên cộng đồng mà người đó lãnh đạo nữa đấy.
Cũng trong chương 3 này, Mica cũng đã trình bày một bức chân dung tự họa của chính mình, và cũng chính là chân dung của những đầy tớ thật của Chúa qua mọi thời đại, đặc biệt là trong những giai đoạn mà tình trạng thuộc linh và đạo đức của xã hội đang vào hồi suy thoái trầm trọng:
“Nhưng về phần tôi, tôi đầy dẫy quyền năng bởi thần CHÚA; đầy dẫy trí phán xét công bình và lòng dũng cảm, để công bố cho Gia-cốp biết sự phản nghịch của nó, và cho Y-sơ-ra-ên biết tội lỗi nó. (3: 8)
Nếu anh chị em là những người đang hầu việc Chúa thì xin hãy so mình với ‘chiếc gương’ này mỗi ngày mà gọt giũa, mà rèn tập, mà khẩn xin Chúa tài bồi cho thật giống nhé.
Bước sang chương 4, trong sự thần cảm của Chúa, tiên tri Mica đưa ra một sứ điệp mang tầm nhìn xuyên hàng bao thế kỷ, vượt qua cả thời kỳ mà chúng ta đang sống đây, để đến tận cõi tương lai. Ấy là lời tiên tri về việc phục hồi lại thành thánh Jerusalem, phục hồi lại vương quyền của nhà Đa-vít, phục hồi lại sức mạnh của Israel.
Nói cách khác, từ cảnh đổ nát hoang tàn của Jerusalem và Đền Thờ trong 3: 12 đến cảnh rực rỡ huy hoàng của Jerusalem mới và Đền Thờ mới trong 4: 1-3 cách nhau … không dưới 30 thế kỷ đấy. Mênh mông, đúng không?
Và cũng như những tiên tri khác, khi công bố sứ điệp này thì chắc chắn là Mica không thể nào tưởng tượng là ‘tầm bắn’ của mình xa đến thế. Tuy nhiên, điều gì đến từ Chúa thì chắc chắn sẽ thành hiện thực vào đúng thời điểm của nó. Và điều gì đến từ Chúa thì đều đem lại sự sống cho con người.
Lời tiên tri của Mica đã cứu mạng sống của tiên tri Giê-rê-mi gần 100 năm về sau đấy (Giê-rê-mi 26: 17-19). Và cũng tại địa chỉ Kinh Thánh này, chúng ta biết được rằng, vua Ê-xê-chia đã hạ lòng ăn năn khi nghe lời tuyên án của Mica. Kết quả là cơn phấn hưng đã xảy ra tại vương quốc Giu-đa dưới thời vua này.
Đối nghịch lại với cảnh Jerusalem bị hủy phá, Đền Thờ bị thiêu rụi là một Jerusalem mới, một Đền Thờ mới sẽ xuất hiện. Và đối nghịch lại với những người lãnh đạo gian ác, bất công sẽ là việc xuất hiện một nhà lãnh đạo công bình, thay mặt Thiên Chúa mà cai trị tuyển dân của Ngài (5: 2-6)
Đây chính là lời tiên tri về Chúa Cứu Thế, tức Đấng Mê-sia hay Đấng Christ. Và lời tiên tri này đã ứng nghiệm nơi Đức Giê-xu, người Nazaret, Đấng ra đời cách siêu phàm bởi trinh nữ Mary tại một quán trọ ở Bết-lê-hem (Mathiơ 2: 2-6)
Lời tiên tri trong Mica 5: 2 không chỉ báo trước chính xác về địa điểm nơi Chúa Cứu Thế ra đời, mà còn tỏ bày ‘gốc gác’ thiên thượng của Đấng Cứu Thế nữa: Gốc tích người từ thuở trước, Từ những ngày xa xưa. Tất cả những đều này đã được ứng nghiệm nơi Đức Chúa Giê-xu. Ngài vừa là người cũng vừa là Thiên Chúa. Ngài chính là nhân vật mà Mica luôn hướng độc giả và thính giả của ông tìm kiếm và gặp gỡ: “Người giống như Đức Giê-hô-va”. Đó cũng chính là ý nghĩa của tên ông: Mica.
Như đã từng gặp trong nhiều sách tiên tri khác, chương 4 và đặc biệt là trong chương 5 của sách Mica luôn đan xen những tiết tấu “lúc xa, lúc gần” hoặc “vừa gần vừa xa”, tức là tính ứng nghiệm kép trong cùng một sứ điệp tiên tri. (Anh chị em nên lưu ý điều này khi đọc nhé)
Đối với những người trực tiếp nghe Mica thì tất cả những điều ông tiên báo đều chưa xảy ra. Còn đối với chúng ta thì không như vậy. Có những điều đã ứng nghiệm, song có những điều còn chưa ứng nghiệm. Tuy vậy, chỉ cần nhìn vào những lời tiên tri đã ứng nghiệm ta cũng có thể vững tin nơi sự thành tín của Đức Chúa Trời.
Chúa mà chúng ta thờ phượng là Đức Chúa Trời thành tín. Chúa luôn giữ lời và điều gì Chúa đã phán thì Ngài cũng thừa khả năng để hoàn thành. Bạn có biết điều đó không? 


Thứ Ba, 15 tháng 9, 2015

GIU-ĐA, NGÀY PHÁN XÉT

Mica 1-2 
Nghĩ cũng lạ, chỉ có mỗi mình anh mà kẻ khen (Mi-ca, theo các Bản Dịch Mới), người chê (Mi-chê, theo Bản Dịch Cũ và Hiệu Đính). He he. Người ta chê anh bởi vì anh thẳng quá, trực tính quá. Giảng chi mà cứ như phang thẳng vào mặt người ta như thế. Còn khen thì … chắc là chỉ có Chúa.
Căn cứ theo tên làng Mê-rô-sết, một địa danh nằm cách Jerusalem khoảng 40 km thuộc vùng biên giới giữa Giu-đa và Philitin, người ta cho rằng, Mica cũng xuất thân từ thành phần dân lao động như Hai Lúa A-mốt vậy. Có khác chăng chỉ là một anh thì từ dưới ruộng lên, còn một anh thì từ trên rừng xuống thôi.
Mà xuống đâu? – Thì xuống phố, xuống thủ đô chớ đâu. Mà không phải một đâu nha. Mica chơi liền một phát xuyên cả 2 thủ đô là Samari và Jerusalem luôn. Oách chưa?
Mica hầu việc Chúa cùng thời với Ô-sê, A-mốt và Ê-sai trong thời điểm cả hai vương quốc phía Bắc và phía Nam vẫn còn đang … ‘ngon lành’. Thế nhưng, đằng sau cái vẻ hoành tráng, phông độ ấy là một thân thể đang sắp hết thời kỳ … ủ bệnh nan y.
“Bà con làng nước ơi, mau ra đây mà xem này!” Mica luôn mở đầu những sứ điệp của mình bằng lời ca mang đậm chất núi rừng cao nguyên như thế (1: 2; 3: 1; 6: 1).
“Xem chi? Xem chi?” – Xem Chúa xử án
“Xử ai? Xử ai?” – Xử hai con … gà móng đỏ! Con nhỏ tên Dê-rù, còn con lù lù thì tên là Xà ma rí.
Chị truyền lại cho em. Cả 2 chị em đều phạm một tội giống nhau: làm gái mãi dâm thuộc linh, tức thờ lạy hình tượng (1: 5). Kết quả: cả hai đều được lên xe … tang, sang làm ‘dâu’ xứ người (1: 6-7; 10-16).
Không có tội lỗi nào có thể khiến Chúa nổi giận như tội thờ lạy hình tượng. Và cũng không có tội lỗi nào làm sụp đổ một quốc gia nhanh hơn tội thờ lạy hình tượng. Thế cho nên, bất kỳ nơi đâu khi mà việc thờ lạy hình tượng được phục hồi, được cổ xúy thì đó cũng là lúc mà sự suy thoái, thoái trào và sụp đổ đang tiến nhanh đến chỗ hoàn thành.
Là con dân Chúa, chúng ta cần phải làm gì trong hoàn cảnh người người nhà nhà cuồng si thờ lạy hình tượng? – Hãy tiếp tục giảng ra trong nước mắt (1: 8) hay nói như Gia-cơ thì là “hãy noi gương chịu bạc đãi và kiên nhẫn của các tiên tri đã nhân danh Chúa mà nói (Gia-cơ 5: 10)
Một số người hơi bị ‘lăn tăn’ khi đọc đến phần cuối của câu 7 chương 1. “Vì nó thu góp những của lễ từ tiền công của gái mại dâm; Cho nên, những của lễ đó sẽ lại được dùng làm tiền công cho gái mại dâm khác.” Đây là cách nói ví sánh hơi bị … cay, có nghĩa là những vàng bạc châu báu mà những người thờ thần tượng (hình bóng là gái mãi dâm) cúng dường để đúc tượng, thì khi giặc ngoại xâm (cũng là những tay thờ hình tượng) đến, chúng sẽ khuân đi hết như là chiến lợi phẩm dzậy đó.
Và lối chơi chữ này cũng chính là xì-tai (style) hay thương hiệu của vị tiên tri đến từ núi rừng biên giới đó nha. Trong phần tuyên án dành cho ‘con’ Dê-rù (1: 10-16), Mica dùng toàn món này thôi đó.
Này nhé, Bết-lê-áp-ra nghĩa là “bụi” thì đây: “bụi ơi, hãy lăn lóc trong bụi đi em”, vì cớ tai họa khủng khiếp sắp giáng xuống kìa (c. 10); Sa-phi-rơ nghĩa là “đẹp”, là “xinh” thì đây: “xinh ơi, xấu tới nơi rồi em ơi, đừng kiêu nữa nhé” (c. 11a); còn Xa-a-nan nghĩa là “đi ra”, là “xuất hành”, là “trình diễn” thì đây: “tìm chỗ mà trốn đi chớ nhục như thế thì còn chường mặt ra mà làm gì” (c.11b).
Rồi còn Bết-hê-xen, còn Ma-rốt, còn Laki, còn Ạc-xíp, còn A-đu-lam, … mỗi địa danh được đem ra để minh họa, hoặc với nghĩa tương đồng hoặc với nghĩa tương phản, cho họa ngoại xâm và lưu đày khủng khiếp hầu đến, đối cùng toàn vương quốc Giu-đa phía Nam.
Đấy, nông dân có cách giảng của nông dân. Lạ, khác người, đúng không? Nhưng, … đảm bảo nhớ lâu, vì nhìn vào đâu cũng được nhắc đến sứ điệp của Chúa.
Ấy là chương 1, giờ sang chương 2
Chương 2, Mica bắt đầu … ‘gõ cửa trái tim’ hai đối tượng hình sự cộm cán. Một, mấy tay nhà giàu có chức có quyền, và hai là mấy ông giả … tiên tri.
“Khốn cho những kẻ lập mưu gian ác, Và toan tính chuyện tội lỗi trên giường mình! Đến sáng, chúng thực hiện mưu đồ, vì chúng có quyền lực trong tay! Chúng tham đất ruộng và cướp đi, Tham nhà cửa và lấy đi. Chúng ức hiếp người ta và gia đình họ, tức người và tài sản của họ” (2: 1-2).
“Nhưng các ngươi nổi dậy chống lại dân Ta như kẻ thù. Các ngươi lột áo choàng sang trọng ra khỏi áo dài mặc bên trong, của những người ung dung qua đường, những người trở về từ chiến trận. Các ngươi đuổi những người đàn bà trong dân Ta ra khỏi căn nhà họ quí mếnCác ngươi tước mất vinh quang của Ta khỏi con cái họ đời đời. (2: 8-9)
Chuyện xảy ra bên xứ Do-thái vào thế kỷ thứ VIII trước công nguyên (TCN) mà sao thấy quen quen như cảnh ở ta ngày nay ấy nhỉ.
Nào là "xiết giường ngủ của gia đình liệt sĩ để trừ nợ", nào là đi đêm, lập dự án, rồi công khai chiếm đoạt ruộng đất, tài sản của người dân. Ai phản đối thì liền bị quy là chống đối, là thế lực thù địch. Nếu đọc thật kỹ, thì câu 8-9 của chương 2 không khác cảnh Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc Việt Nam, hơn 60 năm về trước là mấy. Bao gia đình lầm than, ly tán; bao nhiêu người phải chịu cảnh tù đày, tự vẫn và bị giết chết. Oan ức thấu trời xanh.
Chúa tha cho quân gian tham, ác nhân thất đức này sao? – Đừng có mơ. Xưa sao nay vậy, vì Chúa là Chúa chung của cả cõi trời đất, là Quan Án công bình cho cã cõi vũ trụ và Ngài không hề thay đổi bao giờ.
Án phạt dành cho đám có chức, có quyền “ăn không từ một thứ gì” là đây: giải tỏa trắng, đì-lít sạch, chuyển toàn bộ tài sản cho người khác sử dụng. Nói cho vuông một từ là “của thiên, trả địa”.
Thời nào cũng có hàng giả nha bà con, thời Mica cũng có hạng giả tiên tri. Đó là những người khoát áo đầy tớ Đức Chúa Trời nhưng chỉ rao giảng những gì “đúng quan điểm” của thành phần có tiền, có quyền mà thôi.
Họ giảng gì? – Rằng tai họa, sụp đổ sẽ chẳng bao giờ xảy ra với chúng ta đâu. Họ còn là những chuyên gia trong những đề tài về “rượu và rượu mạnh”, tức là những thú vui, đam mê và khoái lạc nơi cuộc sống vật chất đời này.
Ăn năn ư, làm ơn đừng có giảng. Sự phán xét tội lỗi à, thời này sao còn đi giảng mấy chuyện đó. Làm ơn xì-tốp dùm đi. Kết cuộc: Biến ngay khỏi đất này (2: 10). Đấy, kết cuộc của một chức vụ giảng theo “yêu cầu khán thính giả” là như rứa.
Bạn có nghe được Chúa phán riêng với mình điều gì qua hai chương Kinh Thánh hôm nay không?


Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015

HÃY YÊU NGƯỜI NHƯ CHÚA YÊU TA

Dừng Chân Lần Thứ 33
NHÌN LẠI
A-mốt, Áp-đia và Giô-na là ba tiên tri ‘mỏng’ nhưng lại có một sứ điệp khá nặng ký.
A-mốt – tên của ông có nghĩa là “người mang gánh nặng” – lìa khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của mình trong tư thế của một anh nông dân thứ thiệt để truyền rao cho vương quốc Y-sơ-ra-ên phía Bắc một sứ điệp phán xét rực lửa. Ap-đia – nghĩa là “đầy tớ của CHÚA” – công bố lời buộc tội đanh thép dành cho dân Ê-đôm vì cớ sự tàn nhẫn của chúng đối với ‘đệ quốc’ Giu-đa. Còn Giô-na – nghĩa là “bồ câu” – lại có một chuyến hải hành rợn người vừa bằng tàu khách, vừa bằng tàu … cá ngầm để đến được Ninive rao báo tai họa sắp xảy ra cho đô thành hùng mạnh này sau 40 ngày nữa.
A-mốt sử dụng 3 bài giảng và 5 sự hiện thấy để miêu tả cách sống động mọi chi tiết liên quan đến cơn đoán phạt không thể tránh khỏi đối với Y-sơ-ra-ên. Áp-đia với một ‘nàng’ tiên … tri ngắn nhất trong kinh Cựu Ước đã trình làng một sứ điệp phán xét vô cùng mạnh mẽ dành cho dân Ê-đôm: một tai họa mang tầm quốc gia, mà không có một lời biện minh hay hứa hẹn miễn xá nào hết. Riêng Giô-na – sách tiên tri duy nhất trong kinh Cựu Ước chỉ xoay quanh một quốc gia ngoại bang – cho thấy rằng, việc khán thính giả ngoại giáo (Ninive) ăn năn là điều hoàn toàn có thể, thậm chí ngay cả khi diễn giả (Giô-na) lưỡng lự không muốn giảng!
NHÌN LÊN
“Thế giới sẽ trở nên tốt hơn nếu như Chúa tiêu diệt …… (thằng A hay con B, chẳng hạn. Hic) …
Chỉ có một vài người trong chúng ta đủ can đảm tuyên bố như thế, nhưng đa phần chúng ta đều cho là như thế, không lúc này cũng lúc khác. Đúng không?
Giá như Chúa xóa sổ mấy nước lớn chuyên đi đe dọa hòa bình và ổn định của đất nước chúng ta ...; Giá mà Chúa loại bỏ hoàn toàn đám tội phạm chuyên giết người cách vô lương tâm … những tay bác sĩ ác nhân thất đức, giết người thay vì cứu người; … những chính trị gia quá khích, những nhà hoạt động xã hội cuồng tín luôn hãm hại người khác theo lý lẽ của chúng; … những người cha, người mẹ luôn đánh đập hành hạ và thậm chí là giết chết con mình.
Sách Giô-na là nhắm đến khao khát của chúng ta được trả thù và được trừng phạt đối với những kẻ làm ác đấy. Asyri là một thế lực hung ác và khát máu trên thế giới vào thời của Giô-na. Nếu có cơ hội, Giô-na sẽ xin Chúa đì-lít chúng vĩnh viễn ngay, và chắc chắn là ông sẽ cảm thấy vô cùng ô-kơ với lời cầu xin như thế!
Thế nhưng, Đức Chúa Trời thì lại có ý tưởng khác. Chúa muốn Giô-na nhìn người Ninive như chính Chúa nhìn thấy họ: hư mất, vô vọng, thơ dại thuộc linh, cần được thương xót và xứng đáng được cứu rỗi.
Thành kiến của Giô-na đối với người Asyri vốn thâm căn cố đế rồi. Lòng căm thù của ông thì vô cùng mãnh liệt, và ông mong mõi có một ngày được nhìn thấy kẻ thù của mình bị Chúa vằm nát như tương!
Suốt 4 chương sách, chúng ta thấy được Đức Chúa Trời đã làm việc cách đầy kiên nhẫn đối với vị tiên tri cố chấp này. Rồi khi sách kết thúc, vấn đề vẫn còn đang bỏ ngỏ. Bạn có cho rằng, Giô-na đã lãnh hội được “xung động” của Đức Chúa Trời liên quan đến người Ninive không?
NHÌN TỚI
Đừng để cho một cá nhân hay một tập thể những con người vốn là đối tượng yêu thương của Đức Chúa Trời lại trở nên đối tượng căm thù hay trả thù của bạn. Điều đó không có nghĩa là bỏ qua những hành vi mà Chúa lên án, nhưng là xóa bỏ bất cứ những cay đắng, hoặc sự không tha thứ nào mà ta còn chất chứa đối với những người được Chúa yêu thương.
Bất kể lòng căm thù là vì nguyên nhân gì đi nữa thì phản ứng cần phải có nơi mỗi chúng ta luôn giống nhau: nhìn người khác như cách Chúa nhìn thấy họ và hãy yêu người như cách Chúa yêu ta!
Thi sĩ Đa-vít đã cầu nguyện ri nè:
“Đức Chúa Trời ôi! Xin tra xét con và biết lòng con;
Xin thử nghiệm con và biết tư tưởng con;
Thử xem con có lối ác nào không,
Và dẫn con vào con đường đời đời.”  (Thánh Thi 139: 23-24).
Thế thì, đừng để cho “tình trạng xơ cứng” trong quan điểm của Giô-na làm tắt nghẽn “động mạch yêu” của mình bạn nhé.
Cuộc đời quá ngắn ngủi, không đủ để thù, để ghét những con người mà Đức Chúa Trời muốn yêu thương và muốn cứu chuộc đâu nha!