Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015

GIỌT CŨ, GIỌT MỚI

Dừng Chân Lần Thứ 36 
NHÌN LẠI
“Cựu ước là điều được bày tỏ trong Tân ước; còn Tân ước là điều được ẩn giấu trong Cựu ước”. Một nhà thơ nọ đã dùng những từ này để cố gắng giải thích mối quan hệ giữa hai phần của Kinh Thánh.
Những tiên tri Cựu ước đã cung cấp đến hàng trăm chi tiết về sự hiện đến của Đấng Mê-sia: nơi chốn Ngài sẽ được sinh ra, Ngài sẽ được sinh ra như thế nào, Ngài sẽ sống ra làm sao, Ngài sẽ phải chết thế nào và điều gì sẽ được hoàn tất bởi sự chết của Ngài.
Giờ đây, khi đọc sách Mathiơ, bạn sẽ thấy được phần nào những lời tiên báo được kín giấu trong kinh Cựu ước và được tỏ bày ra trong kinh Tân ước.
Mathiơ là một nhân viên thuế vụ người Do thái. Ông viết cho độc giả là người Do Thái, nhằm giới thiệu Đức Giê-xu là vị Vua của người Do Thái như Thiên Chúa đã hứa cho họ. Và cũng như với bất kỳ một vị vua nào khác, gia phả của Đức Giê-xu, sự dạy dỗ và cách hành xử của Ngài đều phải ở dưới sự thẩm định nghiêm ngặt nhằm xác định Ngài thật sự có đủ ‘chuẩn’ để làm vua.
Bởi lời nói và việc làm, bởi phép lạ công khai và sứ điệp riêng tư, Đức Giê-xu đã làm cho “ủy nhiệm thư” từ thiêng thượng của mình trở nên có hiệu lực, đồng thời thiết lập một sân khấu cho một kết cuộc đầy ấn tượng đói với đời sống và chức vụ trên đất của Ngài.
NHÌN LÊN
Câu cuối cùng của kinh Cựu ước là gì ấy nhỉ? Ghi ra đây xem nào: ………………………………............
……………………………………………………………………………………………………………………………...............
Rồi, giờ cũng ‘mần’ y chang như thế đối với câu đầu tiên của kinh Tân ước: ……………….............
……………………………………………………………………………………………………………………………..............
Hai câu Kinh Thánh này cách nhau bao xa? Về phương diện khoảng cách thì chúng chỉ cách nhau chừng … 1 vài trang giấy (tùy theo loại Kinh Thánh), nhưng về phương diện thời gian, thì giữa Malachi 4: 6 và Mathiơ 1: 1 có ‘nghỉ giải lao’ sương sương không dưới 400 năm! Bốn thế kỷ dài đằng đẳng đến rồi đi trước khi ‘đêm yên lặng’ được bắt đầu với câu cuối cùng của sách Malachi bị phá vỡ bởi câu đầu tiên của sách Mathiơ.
Thơ Galati 4: 4 cho chúng ta biết tại sao ‘giờ giải lao’ dài, giữa lúc ‘kéo màn’ Cựu ước và ‘mở màn’ Tân ước, là cần thiết. “Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời bèn sai Con Ngài …” Giống như một phụ nữ mang thai chờ đợi đúng ngày, đúng tháng để con mình ra đời, Đức Chúa Trời cũng chờ đợi đúng thời điểm, khi thế giới đã được chuẩn bị cách đặc biệt cho sự ra đời của Con Ngài.
Để tin tức tốt lành về sự hiện đến của Chúa được loan truyền cách nhanh chóng khắp thế giới, cần phải có một ngôn ngữ chung cho mọi người. Lúc đó, một ngôn ngữ như thế đã sẵn sàng rồi: tiếng Hy lạp!
Để tin tức tốt lành về sự hiện đến của Chúa được chuyển tải đến những nơi tận cùng của thế giới, cần phải có một hệ thống đường giao thông thuận tiện. Xong ngay! Quân đội La mã đã làm xong việc này từ lâu rồi.
Ngày xưa, trong sự đến thế gian lần thừ nhất của Ngôi Hai Thiên Chúa thì tiếng Hy lạp là ngôn ngữ chung, và hệ thống giao thông thủy bộ của đế quốc La Mã kết nói toàn thế giới. Còn ngày nay, tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ giao tiếp quốc tế và mạng lưới Internet đã kết nối toàn thế giới lại với nhau bất chấp mọi khác biệt. Bạn có nhận thấy là thế giới ngày này cũng đã được chuẩn bị sẵn sàng cho sự đến lần thứ hai của Thiên Chúa không?
NHÌN TỚI
Giá như Đức Chúa Giê-xu, trong thân xác con người mà bước đi trên đất này, vào ngày hôm nay chớ không phải là vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (SCN), hãy nghĩ xem sự xuất hiện của Ngài sẽ tạo ra sự khuấy động như thế nào. Thử tưởng tượng sẽ có bao nhiêu ống kính truyền hình dõi theo nhất cử, nhất động của Ngài … rồi thì các chương trình bình luận với khách mời, phỏng vấn, … rồi thì một lượng ‘phen’ (fan) điệp điệp trùng trùng sẽ phủ vây từng bước chân Ngài …
Thế nhưng Chúa biết thời điểm trọn vẹn để Con Ngài bước vào trong lịch sử nhân loại không phải là thế kỷ 21 này mà là thế kỷ thứ 1.
Khi tiếp tục đọc về những người nam, người nữ, những chàng trai cô gái, từng được gặp gỡ, từng được đụng chạm với Đức Chúa Giê-xu, đừng bỏ qua sự thật rằng ngày nay Chúa vẫn đang sẵn lòng chào đón những ai lấy tấm lòng đơn sơ như con trẻ mà đến với Ngài (Mathiơ 19: 14).
Ngài vẫn đang mở rộng vòng tay … dành cho bạn! Bạn sẽ không bao giờ cô đơn, một khi chịu ở riêng với Đức Chúa Giê-xu!


Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

ẨN DỤ CỦA ĐẠI VƯƠNG (II)

Mathiơ 20-23
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay tiếp tục ghi lại những lời dạy dỗ của Đức Chúa Giê-xu dành cho các môn đệ thân tín, khi Ngài đang đi cùng họ hướng về Jerusalem – điểm cuối cùng của cuộc hành trình. Quần chúng nhân dân thì hân hoan chào đón Chúa như một người hùng, như một vị vua, trong khi hàng lãnh đạo chính quyền và tôn giáo thì hậm hực tìm mọi cách để trừ khử Ngài.
Và trong phần Kinh Thánh này, Chúa Giê-xu vẫn tiếp tục ‘chơi’ xì-tai ẩn dụ để giải bày những chân lý thiêng liêng cho các học trò – dù cho người nghe lúc đó bao gồm đủ thành phần, kể cả thành phần chống đối. Có cả thảy 4 ẩn dụ được Chúa sử dụng ở đây: Người làm công trong vườn nho (20: 1-16); Hai con trai (21: 28-32); Những người thuê vườn nho (21: 33-44) và Tiệc cưới (22: 1-14).
Ba ẩn dụ sau là ‘quất’ trực tiếp vào thành phần lãnh đạo tôn giáo, còn ẩn dụ đầu (20: 1-16) là Chúa tiếp tục trả lời cho câu hỏi của Phê-rơ “Thưa Thầy, chúng con đã bỏ tất cả mà theo Thầy, vậy thì chúng con sẽ được gì?” (19: 27).
Bỏ hết mọi sự để theo Ta thì sẽ được gì í à? – Nhiều đấy. Sự sống đời đời nè, rồi trăm lần hơn những gì mà mình đã từ bỏ nè. Còn riêng với các con (tức các môn đồ) thì sẽ đồng cai trị với Ta.
Vậy thưa Thầy, nếu tụi con “bỏ hết mọi sự” trước ‘thèng’ kia hay ‘kon’ kia … những 10 năm, chẳng hạn, thì răng Thầy: có tính thêm cho tụi con phần lãi suất lũy tiến theo số năm không?
Không. Việc vào nước Thiên đàng không có tính như rứa. Đầu hay cuối gì cũng rứa, vào trước hay vào sau (tức là tin Chúa trước hay sau) gì cũng rứa. Tất cả là bởi lòng thương xót của Chủ Vườn, chớ không phải bởi công sức của đám nhân công thất nghiệp nhà các anh đâu nhé.
Như vậy, để hiểu đúng ẩn dụ “Người Làm Công Trong Vườn Nho”, chúng ta cần phải đọc nó trong văn mạch từ 19: 16 với câu hỏi: “tôi phải làm điều lành nào để được sự sống đời đời?” Ẩn dụ này không hề dạy gì về nguyên tắc ban thưởng trong nước Thiên Đàng, cũng không có ý nói về thứ bậc hay địa vị trong nước Chúa ở ngày sau đâu nha.
Và có lẽ vì chưa hiểu rõ như thế nên mẹ của Gia-cơ và Giăng, tuy đã được Chúa Giê-xu trực tiếp giải thích qua ẩn dụ, nhưng vẫn tiếp tục xin cho hai quý tử của mình 2 chiếc ghế đầy quyền lực: bên phải và bên trái của Chúa!
Xin mà không biết mình xin chi, tức là cầu xin cách thiếu hiểu biết. Kết quả: nỏ nhận được.
Cổng Vào Thiên Đàng luôn dành ưu tiên một cho người Do-Thái. Thế nhưng, họ lại từ chối. Mà đi đầu trong việc chối Chúa, từ chối lời mời gọi của Chúa là những người lãnh đạo tôn giáo, tức những người hầu việc Chúa thời bấy giờ!
Người hầu việc Chúa mà không tin Chúa, người hầu việc Chúa mà không nhận biết Chúa, người hầu việc Chúa mà không vâng lời Chúa, người hầu việc Chúa mà lại chống đối Chúa. Khó tin quá, đúng không? Tiếc thay, đó lại là chuyện thật. Và chuyện thật này vẫn cứ lập đi lập lại mãi giữa vòng những người hầu việc Chúa mới đau chớ.
Đối với thành phần này, đối với những người hầu việc Chúa như thế thì Chúa Giê-xu mắng xối xả luôn, không kiêng dè gì … ráo trọi. Mà là ‘chửi’ công khai nha, giữa thanh thiên bạch nhật, giữa bá quan văn võ, giữa quần chúng nhân dân, chớ không theo kiểu ‘nói sau lưng’ hay ‘xử lý nội bộ’. Bởi thế, mà gần như toàn bộ chương 23 được Chúa Giê-xu dành để … rủa quân này không thương tiếc luôn.
36 câu của chương 23 chứa đựng 8 lời … “khốn”, tức lời chúc … dữ, tương phản hoàn toàn với 8 mối “Phúc”, tức lời chúc lành trong Mathiơ 5: 3-11. Có đến 7 lần Chúa Giê-xu gọi những lãnh đạo tôn giáo, tức những người hầu việc Chúa thời bấy giờ là những kẻ đạo đức giả, tức là những người nói vậy mà không phải vậy và … thấy vậy mà không phải vậy. Tệ hơn nữa, Chúa còn họ là những kẻ dẫn đường nhưng lại bị mù!
Ngày hôm nay, những người có thành kiến hay có ‘thù oán’ với những mục sư, những người hầu việc Chúa, thường hay trích dẫn chương 23 này để xử án, phê phán … “mấy ổng, mấy bả” cách khí thế luôn. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta còn thật lòng dùng phần Kinh Thánh này để so mình và răn mình mỗi ngày nhằm tránh cảnh bị Chúa chúc … dữ không ta?
Hãy đọc Lời Chúa, học Lời Chúa trước hết là cho chính mình. Đừng đọc, hay học Kinh Thánh chỉ nhằm mục đích ‘sửa lưng’, ‘lên lớp’ hay chỉ để dạy dỗ người khác mà thôi nha anh chị em.
Còn nữa, nếu thậm chí mục sư của anh chị em, những người lãnh đạo thuộc linh của anh chị em có thật sự là “kẻ mù”, là “đạo đức giả” đi nữa, thì Chúa vẫn muốn anh chị em “hãy làm và giữ tất cả những gì họ dạy” (23: 2). Đừng để cho hành vi và lối sống của họ ngăn cản anh chị em vâng giữ Lời Chúa.
Đừng để cho hành vi, lối sống của những người lãnh đạo thuộc linh của anh chị em, hay của những người hầu việc Chúa khác ngăn cản anh chị em trung tín nộp 1/10, trung tín cầu nguyện, trung tín nhóm họp, trung tín chứng đạo, bền đổ giữ đời sống thánh khiết và lớn lên trong ân điển của Đức Chúa Trời.
Khá nhớ rằng, khi bạn tin cậy Chúa, tôn kính Chúa qua việc vâng giữ và làm theo Lời Chúa thì bạn luôn được phước. Còn một khi bạn không tin cậy Chúa, không tôn kính Chúa, không còn vâng giữ và làm theo Lời Chúa – dù là vì BẤT CỨ LÝ DO GÌ – thì bạn cũng bị mất phước. Nhớ đấy!
Điều cuối cùng mà chúng ta cần ghi nhớ là cửa Thiên Đàng luôn rộng mở cho mọi thành phần, không phân biệt tốt xấu, hay điếm đàng chi hết. Thế nhưng, “nhập gia” là phải “tùy tục”, nhập Tiệc là phải ăn mặc … đúng mô-đen à nha. Bất kỳ vị khách nào mà không chịu mặc vào chiếc áo dành cho tiệc cưới mà chủ tiệc quy định thì dù có … lọt được vào trong í rồi cũng sẽ bị phát giác và bị “trói tay chân lại và ném ra chỗ bóng tối bên ngoài, nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng” mà thôi (22: 13).
Chiếc áo đặc biệt dành cho tiệc cưới ấy chính là chiếc áo choàng công chính đấy ạ. Đó không phải là sự công chính hay đạo hạnh của riêng chúng ta mà là sự công chính của Đức Chúa Giê-xu được kể cho hay gán cho những ai đặt lòng tin nơi chính Ngài. Vì Kinh Thánh chép: “Nếu miệng ngươi xưng nhận Đức Giê-xu là Chúa và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu; Vì tin trong lòng thì được sự công chính, và xưng nhận nơi miệng thì được sự cứu rỗi.” (Rô-ma 10: 9-10).
Bạn đã nhận được chiếc áo lễ đặc biệt đó để vào nước Thiên Đàng chưa?


Thứ Hai, 5 tháng 10, 2015

NHỮNG NGUYÊN TẮC CỦA ĐẠI VƯƠNG

Mathiơ 16-19 
Dù phải dành thời gian để đáp ứng nhu cầu của đông đảo quần chúng đói khát, để đối diện với những chống đối ngày càng tăng của những người lãnh đạo tôn giáo và lãnh đạo thế tục nhưng Chúa Giê-xu vẫn dành ưu tiên một cho những môn đệ của mình – những người sẽ tiếp tục công việc của Ngài trong những ngày sắp sắp đến.
Tất cả những phép lạ và ẩn dụ, những lần chữa lành và những bài giảng ngắn đều tập trung vào những môn đệ trung tín nhằm chuẩn bị họ cho những ngày gian khó hầu đến.
Sau một thời gian ‘thọ giáo’, được trực tiếp nghe, được tận mắt thấy mọi việc từ nơi Thầy của mình, các môn đệ bước vào cuộc thi trắc nghiệm: “Còn các ngươi thì xưng ta là ai?” hay nói cách khác: “Đối với các ngươi thì Ta là ai?” (16: 15).
Phê-rơ đã buộc miệng trả lời một câu … chuẩn không cần chỉnh luôn: “Chúa là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời hằng sống” (16: 16) hay “Ngài là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời hằng sống”.
Đối với nhiều người thì Đức Chúa Giê-xu chỉ là một tiên tri, một ông thầy chữa bệnh, một học giả uyên bác hay thậm chí là một lãnh tụ tôn giáo xuất sắc. Song đối với các môn đồ mà đại diện là Phê-rơ thì Đức Chúa Giê-xu còn hơn là một con người vĩ đại (vĩ nhân), Ngài là Đấng cứu nhân độ thế, đến từ Thiên Chúa.
Đây là cột mốc quan trọng trong hành trình đức tin của mỗi một người tin thờ Chúa. Ban đầu, đa số người ta tìm đến với Chúa để được bình an, để được giải quyết nan đề, để được chữa lành, để học được điều hay lẽ phải, … nhưng sẽ đến một lúc người theo Chúa phải đến chỗ xưng nhận Ngài là Cứu Chúa, là Đấng Cứu rỗi của cá nhân mình.
Đây không phải đơn thuần là lời xưng nhận nơi môi miệng mà là sự nhận biết mang tính cách kinh nghiệm hay trải nghiệm trong mối quan hệ cá nhân với Chúa. Ngày nay ta thường gọi biến cố hay sự kiện này là “gặp gỡ Chúa cách cá nhân”.
Đối với nhiều anh chị em sinh ra trong gia đình có Đạo hay gia đình tin thờ Chúa thì đây chính là lúc mà họ mới thật sự nhìn nhận rằng Đức Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của riêng mình chớ không phải là Chúa của ông bà hay cha mẹ mình như trước đó. Gặp gỡ Chúa cách cá nhân là rứa đó.
Nếu hôm nay, Chúa đột ngột hỏi bạn rằng, “Đối với con thì Ta là ai?” thì bạn đã có sẵn câu trả lời như Phê-rơ đã từng không?
Trong phần Kinh Thánh hôm nay còn có một ‘pha’ cũng không kém phần hấp dẫn. Đó là khi người xin mà không muốn nhận điều mình xin (19: 16-30).
Chàng trẻ tuổi này đúng là ô-kơ toàn tập luôn nha. Dâm không, gian không, dối không, giết (người) không, thảo kính cha mẹ, yêu quí mọi người. Trẻ mà đã biết quan tâm đến đời sống tâm linh, biết lo cho phần hồn của mình (sự sống đời đời) thì đúng là hàng hiếm rồi. Đúng không.
Còn nữa, anh í lại đến nơi Đức Chúa Giê-xu mà hỏi. Đúng cửa rồi còn gì. Và Chúa cũng chỉ bảo tận tình, đâu ra đó. Thế mà, vừa nghe xong thì chàng quay 180 độ, lạnh lùng bước đi không một lời từ giã.
Phải chăng, theo Chúa là phải trở nên “nghèo rớt mồng tơi” mới được sao ta? Hẳn nhiên là không rồi. Điều mà người thanh niên này còn thiếu là “đi theo Chúa”. Mà “để theo Chúa” thì anh này cần phải giải quyết hay hy sinh điều đang trói chân mình. Điều gì đang cột chân anh í? – Của cải.
Ngày hôm nay, có nhiều người – trẻ có, già có – tuy không bị của cải cột trói, nhưng vẫn không thể nào “đến mà theo Chúa” được. Người thì bị bạn bè, kẻ thì bị người thân, số thì bị công việc, số khác thì bị địa vị, công danh, thú vui, … cột trói. Dầu họ biết rằng, họ cần có sự sống đời đời và thậm chí họ cũng biết rằng chỉ có đến “theo Chúa Giê-xu” thì mới có được sự sống đời đời mà thôi nhưng họ cũng không sẵn lòng trả giá, sẵn lòng từ bỏ.
“Nầy, chúng tôi đã bỏ mọi sự mà theo Thầy; vậy thì chúng tôi sẽ được chi?  (19: 27). Đúng là Phê-rơ! Người đâu mà thô lỗ, mà huỵch toẹt thế cơ chứ.
Theo tư duy của chúng ta ngày nay thì đúng là Phê-rơ rất đáng phải chịu phê bình. Nhưng theo quan điểm của giao ước thì câu hỏi của Phê-rơ lại rất chi là bình thường. Và vì thế nên Chúa cũng trả lời rất chi là rõ ràng: “Quả thật, ta nói cùng các ngươi, đến kỳ muôn vật đổi mới, là khi Con người sẽ ngự trên ngôi vinh hiển của Ngài, thì các ngươi là kẻ đã theo ta, cũng sẽ ngồi trên mười hai ngôi, mà xét đoán mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. Hễ ai vì danh ta mà bỏ anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, nhà cửa, thì người ấy sẽ lãnh bội phần hơn, và được hưởng sự sống đời đời”  (19: 28-29)
Đúng là cái gì cũng có giá của nó. Thế nhưng, so với những gì ta sẽ nhận được ở đời này và đời sau thì những gì ta từ bỏ hôm nay để theo Chúa thì đúng là một trời một vực. Bạn hiện đang là ai: anh trai giàu có kia hay chàng Phê-rơ nhiệt thành bên cạnh Chúa?
Vấn đề không phải chúng ta bắt đầu ra sao, mà là kết thúc ra sao. Chính Đức Chúa Giê-xu bảo rằng sẽ “có nhiều kẻ ở đầu sẽ nên rốt, và nhiều kẻ ở rốt sẽ nên đầu” (19: 30). Bạn sẽ thuộc vào nhóm nào?


Chủ Nhật, 4 tháng 10, 2015

ẨN DỤ CỦA ĐẠI VƯƠNG (I)

Mathiơ 12-15
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay tiếp tục tường thuật trực tiếp về những công việc quyền năng của Đức Chúa Giê-xu. Chúa tiếp tục chữa bệnh (12: 9-13; 15: 30-31), đuổi quỷ (12: 22; 15: 21-28) và làm những phép lạ lớn lao khác: đi bộ trên mặt biển đang cuộn sóng (14: 22-33) và 2 lần khiến thức ăn gia tăng cách kinh ngạc, đáp ứng nhu cầu cho cả chục nghìn người (14: 13-21; 15: 32-39).
Liên tục chứng kiến những phép lạ sờ sờ ra đấy nhưng không phải ai cũng thành tâm tiếp nhận, ai cũng tin theo Chúa Giê-xu đâu nha. Dẫn đầu thành phần có gien chống Chúa Giê-xu quyết liệt, dai dẳng nhất chính là những ‘giáo sư Kinh Thánh’ Pharisi – những người lãnh đạo tôn giáo, tức là những người hầu việc Đức Chúa Trời lúc bấy giờ.
Đầy tớ Đức Chúa Trời mà răng lại đi chống Chúa Giê-xu? - Ấy là vì họ thấy Chúa Giê-xu … liên tục vi phạm lề luật, luôn vượt quá giới hạn cho phép, nhất là trong những vấn đề liên quan đến ngày Sabat, tức ngày thứ 7 và vấn đề … ‘vệ sinh thường thức’.
Cớ sự là những người Pharisi – nhưng giáo sư Kinh Thánh – trong quá trình diễn giải lời Chúa, tức kinh Cựu ước, đã tự chi tiết hóa những gì được phép làm và những gì không được phép làm (chẳng hạn trong ngày Sabat) theo kiểu … văn bản hướng dẫn thi hành luật ngày nay vậy. Rồi ngày qua tháng lại họ xem những “văn bản hướng dẫn” này có giá trị tương đương và thậm chí là hơn cả Lời Chúa nguyên gốc.
Tự họ đặt ra những lệ định như thế, rồi lại đặt mình làm nô lệ cho những lệ định đó. Họ lại còn xem như thế mới là ‘đúng quy trình’ vâng giữ Đạo Chúa. Và ai không theo quy trình đó thì đều là … ‘thế lực thù địch’ cả.
Ngoài ra, cũng cần phải kể đến việc uy tín của họ bị đe dọa vì ảnh hưởng của Giê-xu ngày càng gia tăng. Thế cho nên, phải tìm mọi cách để chống phá thôi. Nhẹ thì vu khống, còn nặng thì sẽ kiếm cớ ‘hốt liền’. Khi một người mang trong mình gien chống Chúa rồi thì không từ một thủ đoạn nào để quấy phá, bôi nhọ cả. Thậm chí, họ không ngần ngại đánh đồng Chúa với quỷ, kể cả khi Chúa vừa đuổi quỷ xong.
Do đó, anh chị em cũng đừng ngạc nhiên khi gặp những đối tượng như vậy ngày hôm nay. Thậm chí, có những người mang danh là hầu việc Chúa Giê-xu nhưng vẫn không chấp nhận chuyện chữa bệnh đuổi quỷ. Họ không chấp nhận đó là công việc của Đức Thánh Linh.
Đối với những thành phần ‘có mắt như mù’ này, thì Chúa Giê-xu luôn thẳng thắn lên án và cảnh báo chúng về sự phán xét đang chờ sẵn (12: 30-32, 36). Còn nữa, cuộc đời của những kẻ này sẽ ngày càng khốn khổ như người bị cả một tiểu đội tà ma khống chế, hành hạ vậy.
Phần Kinh Thánh 12: 43-45 thường được dùng để dạy trong vấn đề tà linh áp chế và giải cứu. Thế nhưng ở đây, Chúa Giê-xu đang sử dụng hình ảnh này để minh họa cho tình trạng bi đát của “dòng dõi hung ác này”, tức là những kẻ ‘có mắt như mù’, những kẻ tuy chứng kiến những công việc lạ lùng của Chúa nhưng vẫn không tin, vẫn tìm cách để vặn vẹo, bắt bẻ.
Có ba thái độ hay ba phản ứng đối với Chúa Giê-xu trong phần Kinh Thánh hôm nay. Thứ nhất, là đòi hỏi “chúng tôi muốn xem Thầy làm một dấu lạ” (12: 38). Thứ hai là bán tín bán nghi “người này không phải là con của ông thợ mộc sao?” (13: 55) và thứ ba là “xin khiến con đi trên mặt nước đến với Chúa” (14: 28). Vậy, phản ứng của bạn thuộc loại nào?
Trong phần Kinh Thánh hôm nay, Chúa Giê-xu cũng dành khá nhiều thời lượng để dạy về Nước Trời hay Nước Thiên Đàng. Chúa sử dụng các hình ảnh quen thuộc dưới đất để giải bày những chuyện … trên Trời. Nhưng không phải để cho người nghe hiểu mà là để cho họ … không hiểu, giống như tiên tri Ê-sai ngày xưa vậy đó. Riêng em nào thật lòng muốn hiểu, thì Ngài sẽ sẵn lòng giải thích.
Theo Chúa Giê-xu thì Nước Thiên Đàng đã xuất hiện rồi, gồm đủ thành phần tốt có, xấu có; lúa có, cỏ có. Con Chúa có, mà con của quỷ cũng có. Thế cho nên, đừng có ngạc nhiên là trong hội thánh mà sao cũng có đủ thành phần nhá. Chúa biết cả đấy nhưng vẫn cho sống, vẫn cho tự tung tự tác đến ngày Tận Thế cơ đấy.
Thế mới có chuyện, “vào Ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Ta: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa! Chúng con đã chẳng từng nhân danh Chúa nói tiên tri, nhân danh Chúa đuổi quỷ, nhân danh Chúa thực hiện nhiều phép lạ đó sao?’ Khi ấy, Ta sẽ phán rõ ràng với họ rằng: ‘Hỡi những kẻ làm ác, hãy lui ra khỏi Ta, Ta chẳng hề biết các ngươi bao giờ!’” (7: 23-24)
Vấn đề còn lại là thái độ hằng ngày của chúng ta như thế nào đối với Lời của Chúa? Bốn loại đất trong ẩn dụ người gieo giống mà Chúa Giê-xu sử dụng ở chương 13 thì loại nào phản ánh đúng nhất tình trạng tấm lòng của bạn: đất vệ đường, đất đá sỏi, đất gai gốc và đất tốt?
Hãy đọc và suy gẫm phân đoạn 13: 18-23 rồi khám phá xem tấm lòng của mỗi nhân vật được đề cập đến trong 4 chương Kinh Thánh hôm nay tương ứng với loại đất nào nhé.
Đất tốt, là đất được cày xới, được làm cho tơi xốp chớ không phải là đất bãi hoang lắm phù sa. Việc tin cậy Chúa, phó thác nơi Chúa, sống theo Lời Chúa là quyết định của ý chí chúng ta chớ không phải khả năng bẩm sinh hay di sản thuộc linh thừa hưởng nơi tổ tông.
Bạn có sẵn sàng “đổi hết mọi sự mình có” để được Nước Thiên Đàng không?


Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2015

QUYỀN PHÉP CỦA ĐẠI VƯƠNG

Mathiơ 8-11 
Trong bốn chương Kinh Thánh hôm nay, Mathiơ miêu tả một số trường hợp điển hình nhằm giới thiệu cho người đọc về quyền phép của Đức Chúa Giê-xu trên bệnh tật, trên thiên nhiên, trên ma quỷ, và cả trên sự chết.
Hãy nghe lời xác nhận của viên sĩ quan quân đội La mã, một người hiểu rất rõ về trật tự quyền uy:
“Lạy Chúa, tôi không xứng đáng rước Chúa vào nhà, chỉ xin Chúa phán một lời thì đầy tớ của tôi sẽ được lành. Vì chính tôi ở dưới quyền người khác, tôi cũng có quân lính dưới quyền tôi; tôi bảo đứa nầy: ‘Đi!’ thì nó đi; bảo tên khác: ‘Đến!’ thì nó đến; và bảo đầy tớ của tôi: ‘Làm việc nầy!’ thì nó làm.” (8: 8-9)
Chúa Giê-xu không đơn thuần là chữa bệnh như một bác sĩ mà Ngài có quyền trên bệnh tật đau yếu. Nếu Ngài ra lịnh thì bệnh tật – dù muốn hay không – cũng phải “Yes, Sir” và biến mất ngay lập tức. Không chỉ có quyền trên bệnh tật, đau yếu mà Chúa Giê-xu còn MUỐN người bệnh được lành nữa cơ đấy (8: 3).
Thế thì đừng có lăn tăn rằng thì là “không biết Chúa có muốn chữa lành cho mình không?” bạn nhé. Chúa đã khẳng định rồi đấy: “Ta muốn!” (8: 3)
Tất tần tật nhé. Phung cùi nè, bại liệt nè, cúm sốt nè, tâm thần nè (thực ra là bị tà ma ám), … kể cả chết rồi Chúa cũng khiến cho sống lại luôn.
Mà Chúa không có ‘độc quyền’ chuyện chữa bệnh, không có ‘giấu nghề’ đâu nha. Bằng chứng là Chúa đã chuyển giao quyền phép này cho những môn đồ của Ngài để họ cũng có thể “thế Thiên hành đạo” khắp nơi đấy (10: 1).
Trừ một trường hợp duy nhất được chữa lành từ xa (8: 5-13), các trường hợp được chữa lành còn lại trong phần Kinh Thánh hôm nay đều được Chúa tiếp xúc cách trực tiếp. Và tất cả các trường hợp đều có sự tham gia cách năng động của đức tin, hoặc trực tiếp của bệnh nhân hoặc gián tiếp bởi đức tin của người nhà bệnh nhân.
Nhưng có một điều ta cần lưu ý là cả Chúa Giê-xu lẫn các sứ đồ KHÔNG BAO GIỜ đi tìm kiếm người ốm để chữa hay người bị quỷ nhập để cứu. Không. Công việc chính của họ là rao giảng về Nước Trời hay Nước Thiên Đàng đã đến gần (4: 17; 10: 7) chớ không phải là thi triển quyền năng hay làm phép lạ. Đang khi họ rao giảng như thế, nếu có người ốm hay bị tà linh ám thì họ mới ‘cứu giúp’ mà thôi. Nhớ nha anh chị em. Đừng bao giờ đặt sai thứ tự nhé.
Mọi phép lạ mà Chúa Giê-xu đã thực hiện trong 4 chương Kinh Thánh hôm nay đều là … phép lạ. Thế nhưng, có một phép lạ … rất lạ mà ít người nhận ra. Đó là việc Chúa chọn ra 12 người tiêu biểu để làm môn đệ của Ngài (10: 1-4). Lạ là vì xuất xứ của những con người này.
Đại đa số họ chỉ là dân chài, ăn to nói lớn nhưng hơi bị lùn về ‘trình độ văn hóa’. Khá nhất trong bọn có lẽ là bác Mathiơ, một nhân viên thuế vụ, thừa kinh nghiệm về … vòi vĩnh người nộp thuế và ăn bớt, ăn xén công quỹ.
Thế mà, chỉ trong một thời gian ngắn họ đã được ‘lột xác’, đã được Chúa tín nhiệm, được Chúa sai phái tỏa ra khắp đất nước để làm cùng một công việc mà Chúa đang làm. Quá lạ còn gì nữa. Thế chính bạn hiện có đã là “phép … rất lạ” này của Chúa chưa?
Bí quyết để nên “phép … rất lạ” này, tức là trở nên môn đồ của Chúa nằm ở sự cam kết. Không phải là cam kết kiểu cảm hứng nhất thời của thầy thông giáo nọ sau khi chứng kiến hàng loạt phép lạ Chúa làm (8: 19), mà là sẵn sàng chấp nhận trả giá thậm chí ‘ngủ bờ ngủ bụi’ (8: 20), chịu đói chịu khát hay bị bắt bớ đánh đập, bị người thân chống đối hoặc từ bỏ (10: 9-23).
Chính vì cho rằng, mình sẽ ‘chịu đời không xiết’ nên có anh kia tìm cớ thoái thác với lý do “phụng dưỡng cha già” (xem thê Luca 9: 59-62 để hiểu rõ hơn bối cảnh này). Nếu đọc ‘ba chớp ba nháng, thì ta dễ nhầm câu nói của Chúa Giê-xu “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của họ” là có ý bảo anh trai họ Hứa này đừng tham gia lễ tang của bố mình.
Không, bố anh í đã chết đâu. Đó chỉ là cái cớ thoái thác thôi. Đọc cho kỹ lại đi: “chôn kẻ chết của HỌ”, chớ không phải là “chôn kẻ chết của ANH” đâu nhá.
Nhiều người ngày hôm nay cũng thường đưa ra những lý do rất chi là ‘hiếu thảo’ kiểu ni để từ chối lời mời gọi của Chúa. Đó là những lý do giả tưởng được sử dụng để không phải cam kết trở nên môn đồ của Chúa. Họ rất sẵn sàng để cầu nguyện tiếp nhận Chúa, thậm chí sẵn sàng dâng hiến thời giờ tiền bạc cho công việc Chúa những không sẵn sàng kết ước sống theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa. Kết cuộc cho những cuộc tình dở dở ương ương, nữa đời nữa đạo kiểu ni là một tuyên bố xanh rờn của Chúa: “không xứng đáng cho Ta” (10: 37-38), hay phủ phàng hơn là “Ta không biết các người, hỡi những kẻ gian ác, hãy lui ra khỏi Ta!” (7: 23).
Để kết thúc phần ‘bình lựng’ hôm nay, xin được trích dẫn lời hứa vô cùng tuyệt vời của Chúa cho mỗi chúng ta, những người đang tin thờ và phục vụ Chúa Giê-xu giữa một xã hội đầy khốn khó và luôn biến đổi khó lường này:
Hỡi những kẻ mệt mỏi và nặng gánh ưu tư, hãy đến cùng Ta. Ta sẽ cho các con được yên nghỉ. Hãy mang ách của Ta và học theo Ta, thì tâm hồn các con sẽ tìm được yên nghỉ, vì Ta có lòng dịu hiền và khiêm tốn, vì ách Ta dễ chịu và gánh Ta nhẹ nhàng. (11: 28-30)


Thứ Sáu, 2 tháng 10, 2015

THÔNG ĐIỆP CỦA ĐẠI VƯƠNG

Mathiơ 5-7
Ba chương Kinh Thánh hôm nay ‘đăng toàn văn’ Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-xu. Đúng ra thì đây là một ‘tuyển tập’ gồm 10 bài ‘phát biểu’ hay bài giảng ngắn mà Chúa dành trước hết là cho các môn đệ của Ngài (5: 1).
Bài Giảng Trên Núi có thể được xem là Bản Tuyên Ngôn Nước Trời hay gọi là Hiến Chương Nước Trời cũng không sai. Ấy là vì trong đó, Chúa Giê-xu chỉ cho những người theo Ngài phải sống cách nào cho xứng hợp với tư cách là một công dân Nước Trời. Nhập gia, tùy tục mà lị.
Mở đầu là “Tám Mối Phúc” (5: 3-12) – mà thật sự là 7 – với việc giới thiệu những phẩm chất cần phải có của một công dân nước Trời và những “phần phước” tương ứng mà người ấy sẽ được nhận.
Nói đến phước, người ta thường nghĩ ngay đến tiền. Thế nhưng, PHƯỚC hay PHÚC mà Đức Chúa Giê-xu giới thiệu ở đây thì hơi bị khác và hơi bị rộng đó nha.
Theo đó, được Phước là có được Nước Trời hay Nước Thiên Đàng; là được an ủi; là được thừa hưởng đất; là được no đủ … sự công chính; là được thương xót; là được thấy Đức Chúa Trời; là được gọi là … con Trời!
Con người chúng ta thì quan tâm nhiều đến phần Phước, còn Chúa thì nhấn mạnh đến phẩm chất của những đối tượng sẽ được phước. Đặc điểm chung của những phẩm cách này đều nằm ở nơi TẤM LÒNG. “Đạo tại tâm” là thế. “Các nguồn sự sống đều từ nơi lòng mà ra” là thế.
Gọn một lời, tấm lòng của chúng ta cần phải được xử lý trước hết, sau đó mới bàn đến việc nhận phước từ Đức Chúa Trời.
Nói cách khác, điểm nhấn chính của một công dân nước Trời không nằm ở những hành vi đạo đức, hay công việc thiện lành bề ngoài mà là phẩm hạnh, là động cơ sâu kín ở bề trong, nơi tấm lòng của người ấy.
Thế ngày hôm nay, những người tin theo Đức Chúa Giê-xu, tức là một công dân nước Trời, không cần phải cầu nguyện, không cần phải kiêng ăn, không cần phải làm việc thiện lành, phúc đức sao?
Sao không. Chẳng những cần tiếp tục mà còn phải nhiều hơn nữa là khác. Có điều, mỗi khi làm những việc đó, chúng ta cần phải tự xét xem tại sao mình làm: vì sợ Chúa uýnh đòn hay vì yêu Chúa; vì muốn làm đẹp lòng Trời hay muốn làm đẹp lòng Đời.  
Có đến 6 lần trong chương 5, Chúa Giê-xu bảo rằng Chúa đến không phải để vô hiệu hóa Luật Pháp và Lời Tiên Tri (tức là kinh Cựu ước) mà là để làm cho trọn. Chúa Giê-xu không tuyên bố rằng, kinh Cựu ước đã hết … đát (date) rồi. Không à nha. Chúa cũng không áp-đết (update: cập nhật) Lời của Ngài mà Chúa chỉ áp-rết (upgrade: nâng cấp) việc áp dụng Lời Chúa trong đời sống của những người thật lòng tin theo Ngài mà thôi.
Nếu chỉ có đơn thuần vâng giữ Lời Chúa kiểu bề ngoài – tức có hành động đúng, việc làm đúng – mà không cần đếm xỉa gì đến động cơ, hay thái độ bề trong thì không một ai có thể qua mặt được mấy “thầy thông giáo và người Pharisi” thời bấy giờ.
Mà nếu có đạt đến chuẩn “thông giáo – Pharisi” như rứa đi nữa thì cũng đừng có mơ mà đặt chân vào cổng Thiên Đàng nghe cưng. Chính Chúa Giê-xu bảo như vậy đấy (5: 20).
Thế thì, anh chị em ơi đừng có mà tinh tướng khi thấy mình không còn bàn thờ bát nhang, không còn rượu bia, gái gú, … nhá. Cái bàn thờ lòng của chúng ta hiện ai đang ngự trong đó mới quan trọng. Chúa Giê-xu hay Ma-môn (thần Tài) hay chính cái tôi của chúng ta đang là chủ của chúng ta?
Có thể thân xác của ta không hề ăn nằm với một người khác phái không phải hoặc chưa phải là vợ hoặc chồng của mình, nhưng lòng của ta thì rạo rực dục tình khi nhìn người khác phái chăng. Có thể trước mặt người khác ta cười nói rất chi là vui vẻ, nào là ‘ai láp du’, ‘Gát bờ-lét du’ nhưng sau lưng người thì ta nói xấu, công kích, ganh ghét, tìm cách hạ bệ chăng.
Đức Chúa Giê-xu bảo, vì tất cả những điều đó – tức những động cơ, thái độ kín giấu mà không ai thấy í – những NGƯỜI TIN THỜ CHÚA đều phải ra hầu tòa hết đấy. Không thoát được đâu. “Thế thì các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn.” (5: 48)
Chúng ta đang sống trong một xã hội rất chuộng hình thức. Ai nấy đều lo trang điểm, mông má cho ‘mặt tiền’ của mình mà không quan tâm gì đến căn cốt bề trong. Và tinh thần giả dối này cũng đang làm mưa làm gió ngay cả trong đời sống của con dân Chúa, trong chức vụ của không ít người hầu việc Chúa và thậm chí trong nhiều sinh hoạt của hội thánh Chúa.
Tuy nhiên, … “Trời có mắt” đấy. Chúa thấy hết đấy. Một chiếc nhẫn vàng thật và một chiếc nhẫn mạ vàng thoạt trông thì chẳng khác chi nhau, nhưng đến giờ kiểm tra chất lượng sản phẩm thì thật ra thật, giả ra giả ngay à.
Mà đã là hàng giả hoặc kém chất lượng thì đều có cùng kết cuộc: hoặc là “phải quăng ra ngoài và bị người ta đạp dưới chân” (5: 13), hoặc là “bị đốn và ném vào lửa” (7: 19) hoặc “sẽ bị sập đổ, và thiệt hại nặng nề” (7: 24).
Trong phần Kinh Thánh hôm nay có một chỗ ít nhiều hay bị lắm người ‘théc méc’. Đó là “đừng cho chó những vật thánh, cũng đừng ném ngọc trai cho heo, e chúng chà đạp dưới chân, và quay sang cắn xé các con chăng” (7: 6)
Nghĩa đen thùi lùi của câu này là ri: “đừng cho người khác những gì mà họ không biết ‘giá trị sử dụng’ của món quà đó. Đã chẳng được biết ơn, không khéo lại bị chúng chữi cho nữa đấy!”
Thế nhưng, ta phải ‘giải’ câu này trong văn cảnh của nó, tức là ‘kẹp’ nó vào chung với những câu đi trước nó và đi sau nó thì … lời giải mới ô-kơ được. Còn nếu ta ‘bốc cổ’ hắn ra riêng một mình, rồi ‘xử’ thì dù có hay, có thâm thúy đến đâu đi nữa, cũng chỉ là giảng giải kinh … dị hoặc là giảng … vãi kinh mà thôi. He he.
Phần trước ‘hắn’ (câu 6) nói về sự phê phán hay xét đoán người khác. Ngày nay, ‘xét đoán’ nghiêng về việc bình phẩm sau lưng, còn phê phán thì mang nghĩa ‘xử’ tập thể hay uýnh hội đồng. Tuy nhiên, theo văn cảnh thì chuyện này mang tính rất chi là cá nhân (c.3). Mà đã là cá nhân thì ngày nay ta sử dụng từ ni nè: góp ý.
Sau câu 6, còn có 8 câu nữa nói về sự cầu nguyện. Thấy vậy chớ chúng có ‘ăn rơ’ với nhau đấy. Từ 1-14 là có dây mơ, rễ má với nhau đấy.
Vì đã quá thời lượng cho phép rồi, nên chỉ có thể ‘mớm cung’ cho những anh chị em nào thích đi đến ‘tận cùng bằng số’ của thằng số 6 với 2 câu Kinh Thánh trong sách Châm Ngôn là 9: 8 và 23: 9 mà thôi.
Xi du tu-mớ-rau!