Thứ Ba, 27 tháng 10, 2015

PHỤC VỤ THA NHÂN

Giăng 6-8 
Những tường thuật của Giăng về đời sống và chức vụ của Chúa Giê-xu trong phần Kinh Thánh hôm nay có liên hệ đến những ngày lễ trọng của người Do Thái. Sự kiện hóa bánh cung cấp cho 5 nghìn người và bài diễn thuyết của Chúa Giê-xu về bánh sự sống diễn ra vào dịp lễ Vượt qua (6: 4). Còn những bài giảng trong chương 7 và 8 được thực hiện trong thời gian Chúa Giê-xu về Jerusalem dự lễ Lều Tạm (7: 2, 10). Dù đang là kỳ lễ hội, nhưng trong cả hai trường hợp, những người lãnh đạo Do Thái thay vì vui mừng hớn hở, thì lại luôn hừng hừng lửa giận, sẵn sàng cho … banh xác Giê-xu luôn (8: 59). Đúng là giận quá hóa … ngu!
Có rất rất nhiều điều để học qua phần Kinh Thánh hôm nay.
Trước hết là từ câu chuyện Chúa hóa bánh cho 5000 người ăn … phủ phê. ‘Chiện’ này quen quá rồi, đúng không? Thế nhưng nếu chịu khó thì cũng còn lắm điều hay để nhấm nháp đấy.
Chẳng hạn, trước nhu cầu của quần chúng nhân dân, anh Philip nhà ta chỉ nhìn thấy những gì mà thầy trò anh í KHÔNG CÓ, còn anh Anh-rê thì lại nhìn thấy được những gì họ HIỆN CÓ. Nghịch lý ở đây là những gì KHÔNG CÓ thì ta lại ‘có khả năng’ NHÌN THẤY cách dễ dàng, trong khi những gì hiện ĐANG CÓ thì mình lại khó thấy hoặc thậm chí là KHÔNG THẤY!
Thế thì, khi đối diện với những nhu cầu, những thách thức trong cuộc sống, đừng tập chú nơi những gì bạn không có, mà hãy khám phá xem những gì mình hiện đang có bạn nhé. Những gì bạn đang có – có thể là rất ít ỏi, bé nhỏ “chẳng thấm vào đâu” như 5 ổ bánh và 2 con cá – nhưng một khi chúng được trao vào tay Chúa với lời cầu nguyện cảm tạ thì … chuyện lớn sẽ xảy ra đấy.
Từ rày về sau, mỗi khi gặp câu hỏi: “Tìm đâu ra?” thì câu trả lời của bạn phải luôn là “Tìm chi xa!” Cứ thế nhé. Chúa không để bạn phải chiến đấu một mình đâu.
Liên quan đến chuyện … “được ăn bánh” này thì còn một số … vụn vặt khác cũng đáng được góp nhặt. Đầu tiên, là chuyện gom bánh thừa (6: 12-13) dạy ta bài học tiết kiệm, không phung phí. Thoạt nghe rất phi lý, nhưng đại đa số người Việt ta – không miễn trừ tôi con Chúa – là những người phung phí có hạng trong chuyện ăn uống đấy nhé. Tiếp theo là chuyện: thời nào cũng có người theo Chúa … vì bánh, tức là theo Chúa chỉ để được phước hạnh vật chất mà thôi. Thế thì, đừng lấy làm lạ tình trạng ni trong Hội Thánh nha pà kon. Điều chúng ta cần quan tâm là kiểm tra cách công tâm xem chính mình có thuộc vào thành phần đó không nhé.
Bài học thứ hai liên quan đến chuyện nhiều người quyết định … nghỉ chơi với Chúa Giê-xu. Không chỉ có quần chúng nhân dân hay thành phần … ‘cảm tình Chúa’ đâu nha, mà ngay cả nhiều môn đồ cũng bái bai với Chúa luôn đóa (6: 66).
Những người này bỏ Chúa không phải vì Chúa từ chối ước muốn của họ là “tôn Ngài lên làm vua” (6: 15); Họ bỏ Chúa cũng không phải vì Chúa không đáp ứng đòi hỏi “được bánh ăn luôn luôn” (6: 34). Họ bỏ Chúa vì không thể chấp nhận những gì Chúa giảng dạy hay công bố (6: 60; 8: 13, 57).
Hãy đặt mình vào vị thế của những người Do Thái, đặc biệt là những người đồng hương của Chúa Giê-xu thời bấy giờ – những người biết Chúa từ lúc còn bé đến lúc đó – thì ta sẽ hiểu được phần nào phản ứng của họ khi nghe những lời dạy của Ngài về bánh hằng sống (6: 35-58), hay bài diễn thuyết về sự sáng của thế gian (8: 12-58).
Trong 2 bài thuyết giảng này, Chúa Giê-xu đã có đến 5 lần xưng mình là Giê-hô-va (6: 35, 48; 8: 12, 24, 28). Danh xưng Giê-hô-va hay Gia-wê lần đầu được chính Đức Chúa Trời tỏ ra cho Môi-se trong Xuất Hành 3: 14 với nghĩa là “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu” hoặc “Ta là Đấng Ta Là” hay gọn hơn nữa là “TA LÀ” (trong tiếng Anh thì rõ hơn: “I AM”). Người Do Thái không dám gọi danh Gia-wê nên mỗi khi đọc Kinh Thánh đến chỗ có danh này thì họ liền xuống giọng đến mức thì thầm hoặc thay thế bằng … nickname: A-đô-nai, nghĩa là: “Đấng đó” (8: 24, 28 – Bản Dịch Cũ).
Ấy thế mà, Giê-xu người Nazaret này thì chẳng kiêng cử gì ráo trọi. Khi thì TA LÀ “bánh sự sống” (6: 35, 48), lúc thì ây-êm (I AM) “sự sáng của thế gian” (8: 12), lúc khác thì huỵch toẹt luôn: “ta là Đấng Hằng Hữu” hay “ta là Đấng đó” theo Bản Dịch Cũ (8: 24, 28)!
Phát ngôn như thế mà không điên thì cũng là bị quỷ ám. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay, và trong cái nhìn của thành phần lãnh đạo cùng đại bộ phận quần chúng nhân dân Do Thái thời bấy giờ thì Giê-xu này đúng là … không bình thường; ‘chéc chén’ lòa ‘hén’ đang bị bệnh tâm thần phân liệt hay hoang tưởng tôn giáo rồi. Bởi vì không ai tỉnh táo mà lại đi tuyên bố cách lộng ngôn, phạm thượng như thế cả (7: 20; 8: 48, 52)!
Không chỉ có phát ngôn lung tung mình là ông này, ông nọ mà ‘hén’ còn bảo người ta phải “ăn thịt, uống máu” của ‘hén’ thì mới có được “sự sống đời đời” nữa cơ (6: 51-57). Đúng là … điên nặng rồi. Làm răng mà có thể chấp nhận được; làm răng mà có thể đi theo cho được.
Gọn một lời, họ rút lui vì không hiểu nỗi những gì Chúa Giê-xu đã giảng! Thế nhưng, họ lại không chịu kiểm tra những gì Chúa Giê-xu đã làm. Nếu chỉ căn cứ vào những gì Giê-xu nói mà thôi, thì cũng có thể kết luận rằng Giê-xu bị điên. Nhưng người điên thì không thể làm phép lạ, và người bị quỷ nhập thì làm sao có thể thông làu Kinh Thánh, đúng không?
Ngày nay, cũng có không ít người bỏ nhóm hay quyết định nghỉ chơi với Chúa vì “không chấp nhận được” một lẽ thật nào đấy – dâng hiến, chẳng hạn. Và không ít những người hầu việc Chúa vì sợ người ta bỏ nhóm nên không dám thẳng thắn giảng dạy Lời của lẽ thật.
Có khi nào bạn rơi vào một trong hai trường hợp nêu trên không đấy?
Bài học cuối cùng liên quan đến cách xử lý của Chúa Giê-xu đối với sự nghi kỵ và chế giễu trong gia đình của Ngài. Nếu bạn là người duy nhất trong gia đình tin Chúa và đang gặp khó khăn từ phía gia đình trong việc phát triển đời sống tâm linh thì bài học này là dành cho bạn.
Ngoại trừ mẹ Mary, người biết rõ nhân thân thật của Ngài, còn lại các em của Chúa thì không một ai tin rằng Ngài là Đấng Mê-sia, tức Chúa Cứu Thế cả. Không những không tin mà chúng còn chế giễu những tuyên bố cũng như chức vụ của Ngài nữa.
Chúa Giê-xu đã xử lý như thế nào? – Trước hết, Chúa không để tâm đến sự giễu cợt của các em mình. Đừng phản ứng lại với sự chế nhạo hoặc bằng sự nóng giận hoặc bằng sự phản bác. Đó là phản ứng mà những kẻ nhạo báng muốn nhìn thấy. Vì kiểu đó chỉ tổ “thêm dầu vào lửa” … đối kháng mà thôi.
Tiếp theo, Chúa Giê-xu yên lặng phục vụ Đức Chúa Trời cách kiên định. Đừng sợ bị đe dọa bởi những thành viên chưa tin Chúa trong gia đình. Hãy cầu xin Đức Chúa Trời ban cho mình khả năng để trung tín với Chúa trong việc sống đời nhân chứng cách mạnh mẽ trước mặt họ. Khá nhớ rằng, bạn có thể là “cuốn Kinh Thánh” duy nhất mà những người thân chưa được cứu của bạn có thể đọc đấy.
Bạn đã sẵn sàng chưa?


Thứ Hai, 26 tháng 10, 2015

TRỜI NGƯỜI DIỆN KIẾN

Giăng 3-5
Ba chương Kinh Thánh hôm nay tập chú vào ba cuộc chộ mặt đặc biệt của Chúa Giê-xu với ba nhân vật ít nhiều có ... ‘số má’. Đó là thầy cả Ni-cô-đem, cô ả Samari và anh trai 38 năm chả … biết đi. Tuy là những cuộc gặp gỡ cá nhân, nhưng mỗi một trường hợp đều đem lại những tác động rộng lớn lên những người khác.
Việc tiếp cận của Chúa Giê-xu với người phụ nữ Samari đã dẫn đến cuộc truyền giáo cho cả thị trấn Si-kha (ch. 4). Sự chữa lành cho người bại nơi hồ Bê-tết-đa (ch. 5) đã kích hoạt cơn giận chết người của những người Do Thái dành cho Chúa Giê-xu. Còn cuộc gặp với vị khách không mời Ni-cô-đem vào tối hôm ấy đã cung ứng cho nhân loại một sờ-ta-tút bất hủ, một sờ-ta-tút thật sự đổi đời đối với tất cả những ai tin: Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy sẽ không bị hư mất mà được sự sống đời đời. (3: 16)
Chúng ta học được điều gì từ nơi Chúa Giê-xu về công tác chứng đạo, qua những cuộc gặp gỡ cá nhân nầy trong phần Kinh Thánh hôm nay?
Trước hết, đó là cách Chúa nắm quyền chủ động, dẫn dắt câu chuyện để đem đối tượng đến chỗ nhận biết Ngài là Đấng Mê-sia, tức Đấng Cứu Thế, bất kể đối tượng là người có lòng quan tâm (Ni-cô-đem), là người có nhu cầu (viên chức chính quyền, người bại) hay một người chẳng quan tâm và còn bị xem là thành phần cặn bả của xã hội (người phụ nữ Samari). Đấy là điều cốt lõi mà người đi chứng đạo hay rao giảng Phúc Âm phải ghi nhớ. Gì thì gì cũng phải giải bày cho người ta biết được Chúa Giê-xu là ai; Kiểu gì thì cũng phải đem người ta đến chỗ “mặt đối mặt” với chính Chúa để họ có cơ hội tin Ngài.
Tiếp theo, đó là cách Chúa trả lời những câu hỏi thắc mắc của người ta. Khi đi ra chứng đạo, ta cần phải chấp nhận một thực tế là có thể sẽ bị chống đối và bị chất vấn đấy. Hỏi để biết như thầy cả Ni-cô-đem thì ít, nhưng hỏi để vặn vẹo, để bắt bẻ, để cãi lẽ thì luôn có khối người. Ngay cả, một phụ nữ ‘tèm lem’ như thím Sa mà còn có lắm câu hỏi nữa là. Do đó, cần phải lận lưng ít vốn liếng để luôn sẵn sàng để trả lời những kẻ chất vấn về niềm hi vọng trong anh em, nhưng phải ôn tồn và trân trọng (1 Phê-rơ 3: 15).
Đầu tiên là dạng câu hỏi nhắm vào sự khác biệt giữa người với ta: Sao ông là một người Do Thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho uống nước?” (Vì người Do Thái vốn không giao tiếp với người Sa-ma-ri) (4: 9). Phiên bản ngày nay có thể là “bên anh/chị có tin rằng Đức Mẹ đồng trinh không?” hay “Tại sao người đi đạo không được phép lấy người bên lương?”, hoặc “Tại sao những người thờ Chúa lại không cũng giỗ tổ tiên?”, vv … vv …
Đây là loại câu hỏi nhằm khoét sâu mâu thuẫn giữa hai bên. Người hỏi phần lớn là chỉ muốn hỏi, muốn cãi, chớ không thật lòng muốn biết đâu. Đối với dạng câu hỏi này, Chúa Giê-xu không trả lời trực tiếp. Nhớ đấy.
Khi gặp loại câu hỏi này, ta có thể chọn cách trả lời ri nì: Đây đúng là một câu hỏi hay, nhưng trước khi trả lời anh/chị, tôi xin phép được trình bày về “quà tặng của Đức Chúa Trời”(hay điều chi đại loại thế),… Bảo đảm là sau đó người ấy sẽ quên luôn những gì mình đã hỏi cho mà xem.
Đối với dạng câu hỏi: “Ai lớn/cao hơn ai?” hay “Ai trước ai sau?” nhằm so sánh tổ tiên (hoặc Đức Phật) với Đức Chúa (4: 12), thì câu trả lời không phải là “hỏi gì, đáp nấy” đâu nha.
Ta không nên phủ nhận những giá trị hay những điểm tích cực của truyền thống hoặc từ những di sản của tổ tiên. Tuy nhiên, ta cần phải chỉ ra được những hạn chế hoặc sự bế tắc của những điều đó (truyền thống, di sản của tổ tiên) trước nhu cầu thực tiễn của cuộc sống: Đó là ai “uống” nước ấy vẫn còn khát mãi (4: 13). Rồi từ đó, chỉ ra cho người ta giải pháp trọn vẹn, bảo đảm hết “khát” vĩnh viễn: Đó là “uống” nước mà Chúa Giê-xu sẽ ban cho (4: 14)
Đối với dạng câu hỏi: “Ai đúng ai sai?” trong vấn đề niềm tin hay cung cách thờ phượng (4: 20) thì không thể tránh né, mà phải trả lời cách dứt khoát, rõ ràng. Các ngươi thờ phượng Đấng các ngươi không biết, còn chúng ta thờ phượng Đấng chúng ta biết, vì sự cứu rỗi đến từ người Do Thái. Giờ sắp đến và đã đến rồi, khi những người thờ phượng chân thật sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và chân lý; ấy là những người thờ phượng mà Cha tìm kiếm. Đức Chúa Trời là thần linh, nên những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh và chân lý  (4: 22-24)
Cuối cùng, trong công tác chứng đạo ta cần phải chấp nhận một thực tế khác nữa: ấy là sẽ có một số người … thà chết chớ không chịu tin Chúa Giê-xu! Đối với hạng người này thì dù có trực tiếp nghe tôi tớ Chúa cỡ Giăng Báp-tít rao giảng, tận mắt chứng kiến những dấu kỳ phép lạ Chúa làm hay tự mình nghiên cứu Kinh Thánh đi nữa, họ cũng không muốn đến với Chúa để được sự sống đời đời đâu (5: 31-40).
Tuy nhiên, đừng vì chuyện này mà vội … nản lòng chiến sĩ nha pà kon. Ấy là vì số người sẵn lòng tin Chúa thì bao giờ cũng … đông hơn quân Nguyên! Chỉ cần ta chịu khó “nhướng mắt lên” là sẽ thấy ngay “đồng lúa đã chín vàng, sẵn cho mùa gặt” rồi.
Nghe này: Chúa sai bạn và tôi “đến gặt ở chỗ mình không gieo” nhưng phải gieo thì mới có gặt. Có thể, ta gieo nơi này nhưng gặt được ở nơi khác. Song phải có gieo thì mới có gặt. Đó là nguyên tắc. Bất cứ khi nào và bất cứ nơi đâu còn có người vâng lời Chúa đi ra loan báo Tin Mừng cứu rỗi của Chúa Giê-xu thì nơi đó sẽ còn có những con người sẵn lòng tin nhận Chúa. Họ có thể là thành phần trí thức, là lãnh đạo tôn giáo, là cán bộ chính quyền, là người đau ốm bệnh tật, là thành phần tệ nạn xã hội hay những kẻ bị đời ruồng bỏ khinh chê.
Vâng, tất cả. Không loại bỏ ai hết. Bất kỳ ai cũng có thể nhận lấy sự sống đời đời, bất kỳ ai cũng có thể vào được nước Thiên Đàng, nếu người ấy bằng lòng tin nhận Con Một của Đức Chúa Trời là Đức Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của riêng mình. Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy sẽ không bị hư mất mà được sự sống đời đời. (3: 16).
Bây giờ hãy thay thế họ và tên đầy đủ của bạn vào hai từ “thế gian” và “ai” ở câu Kinh Thánh trên, rồi đọc lớn tiếng lên xem nào … (Vì Đức Chúa Trời yêu thương …………… đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ …………… TIN Con ấy sẽ không bị hư mất mà được sự sống đời đời”).
Bạn có biết rằng Đức Chúa Trời yêu bạn lắm không? Và bạn đã nhận được món quà sự sống đời đời từ nơi Chúa chưa?
“Bóng đang nằm trong chân” của bạn đấy.


Chủ Nhật, 25 tháng 10, 2015

CON TRỜI HIỂN LỘ

Giăng 1-2 
Hôm nay chúng ta bắt đầu đọc đến Phúc Âm Giăng, một quyển sách dành cho mọi đối tượng, mọi trình độ. Một cách hình ảnh là ri: Một đứa bé con lội cũng được, mà một con voi bơi cũng vừa. Nông, sâu đều ô-kơ cả.
Trong phần mở đầu tác phẩm của mình, Giăng đã giới thiệu một góc nhìn khác về đời sống và chức vụ của Chúa Giê-xu so với 3 tác giả trước đó là Mathiơ, Mác và Luca.
Phúc Âm Giăng bắt đầu với sự tiền hiện hữu (vốn có từ trước) và thần tánh của Lời (nguyên văn là Logos), Đấng đã thành người để bày tỏ Đức Chúa Trời cho nhân loại và để làm thành lời hứa của Thiên Chúa đối với dân Israel về một Đấng Mê-sia, tức Đấng Cứu Thế.
Logos trở thành người hay Lời nhập thể đã được xác nhận bởi Giăng Báp-tít, người được Thiên Chúa chọn làm người mở đường cho Đấng Cứu Thế. Và sau đó các môn đệ đầu tiên của Người đã lần lượt xác nhận chân lý này.
Trong Phúc Âm Mathiơ, Đức Chúa Giê-xu được giới thiệu là một vị Vua; Trong Mác, Ngài là một Đầy Tớ; Trong Luca, Chúa Giê-xu là một Con Người (Son of Man), thì trong Phúc Âm Giăng, Chúa Giê-xu được giới thiệu là Con Đức Chúa Trời (Son of God).
Đối với người Do Thái, khi gọi ai đó là “con của … một ai đấy/một điều gì đấy” (chẳng hạn, con trai của sấm sét hay con trai của sự an ủi) thì có nghĩa là người ấy đồng nhất với người kia, với điều kia. Do đó, đối với người Do Thái cụm từ “Con Đức Chúa Trời” có nghĩa rằng “người này là Đức Chúa Trời”. (Đây chính là nguyên nhân mà Chúa Giê-xu về sau bị ném đá tơi bời khói lửa đấy).
Không chỉ ngày xưa, mà tận đến ngày nay vẫn còn có nhiều người, tuy vẫn tin thờ Chúa, nhưng vẫn cứ quyết liệt không chấp nhận Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời.
Ngày xưa, người Do Thái khó chấp nhận Giê-xu là Đức Chúa Trời, vì đối với họ, Người cũng chỉ là một con người bằng xương, bằng thịt, ăn uống đi lại giữa họ, có cha có mẹ là láng giềng của họ. (Đó là chưa kể đến việc, từ bé họ được dạy rằng “chỉ có duy nhất một Đức Chúa Trời mà thôi”). Còn ngày nay, những người theo tà giáo Chứng Nhân Giê-hô-va và nhóm “Tân Chứng Nhân” mới nổi lên ở Việt Nam khoảng chừng hơn năm nay, không chấp nhận Giê-xu là Đức Chúa Trời là vì … cách giải nghĩa câu chữ Kinh Thánh.
Số là, trong các bản dịch Kinh Thánh thì Giăng 1: 1 đều là ri: “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời ở với Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời”  hoặc sát với nguyên văn nhất như bản Nhuận Chánh là ri: “Ban đầu có Đạo, Đạo ở cùng Đức Chúa Trời, và Đạo là Đức Chúa Trời”. Còn trong nguyên văn tiếng Hy lạp là ri:
Ἐν  ἀρχῇ  ἦν  ὁ  Λόγος,  καὶ  ὁ  Λόγος  ἦν  πρὸς  τὸν  Θεόν,  καὶ  Θεὸς  ἦν  ὁ  Λόγος.
Thế nhưng, trong tiếng Hy Lạp thì từ θεό (theo) mà không có mạo từ xác định đi cùng, có nghĩa chung là thần, nên dịch là thần cũng được mà dịch là Đức Chúa Trời cũng được. Và vì trong các bản Kinh Thánh cổ thì các từ θεό này thường không viết hoa cho nên những dịch giả “chứng Nhân” xưa cũng như nay đã chọn dịch chữ θεό  thứ 2 là “thần”. Thành ra, phiên bản của mấy ảnh tương tự như ri: “Ban đầu có Lời, Lời ở với Đức Chúa Trời và Lời là một vị thần”.
Mâu thuẩn nằm ở chỗ là cũng một từ θεό không có mạo từ xác định đi cùng như thế nhưng trong các câu 6, 12-13, 18 của cùng chương 1 này, thì mấy ảnh lại chọn dịch là “Đức Chúa Trời” mới đau chớ. Đó là chưa kể đến những chỗ khác trong Kinh Thánh – như Mathiơ 5: 9; 6: 24; Luca 1: 35; Rô-ma 1: 7, 17 – mấy ảnh cũng vô tư dịch là Đức Chúa Trời hết ráo. Thế là, chơi không đẹp, tiền hậu bất nhất rồi đúng không.
Logos hay Lời là Đức Chúa Trời và Lời này đã thành người với tên gọi là Giê-xu. Kinh Thánh ‘phán’ sờ sờ ra như thế mà cứ vặn với vẹo làm gì. Còn nếu cứ bám lấy nghĩa là “thần” đi, thì thử hỏi thần nào mà “muôn vật đều do Ngài tạo dựng, không một loài thọ tạo nào được tạo dựng mà không bởi Ngài”? Đó chẳng phải là Đấng Tạo hóa sao? Mà Đấng tạo hóa là ai? – Đức Chúa Trời chớ ai (Sáng Thế Ký 1: 1).
Vòng vèo cho lắm vào rồi cũng trở lại vạch xuất phát thôi. He he. Hay nói như Trịnh là “đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”. Quay đầu là bờ nha cưng.
Trong phần Kinh Thánh hôm nay có thuật lại phép lạ Chúa Giê-xu hóa nước thành rượu trong tiệc cưới ở Cana. Giăng gọi đây là phép lạ đầu tiên trong số 7 phép lạ mà Chúa thực hiện được ghi chép lại. Giăng chỉ chọn 7 việc điển hình để ký thuật lại chớ không phải Chúa Giê-xu chỉ làm có 7 phép lạ à nha.
“Đức Chúa Jêsus còn làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đồ mà không ghi chép trong sách nầy. Nhưng các việc nầy được ghi chép để anh em tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời, và để khi anh em tin thì nhờ danh Ngài mà được sự sống” (20: 30-31)
Mục đích rất rõ ràng, đúng không. Những phép lạ này (trong số đó có phép lạ hóa nước thành rượu) được ghi chép lại để làm gì? – “Để anh em tin rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời”. Nếu tin rằng, “Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ, Con Đức Chúa Trời” thì răng? – “được sự sống”. Còn nếu không tin rứa thì răng? – Thì được … sự chết chớ răng.
Trong phép lạ “nước thành rượu” này, có một nguyên tắc liên quan đến sự trả lời của Đức Chúa Trời đối với lời cầu xin của chúng ta. Đó là, Chúa đáp lời cầu xin của chúng ta theo thời điểm của Ngài chớ không phải của chúng ta; sự đáp lời của Chúa thường xảy ra sau khi chúng ta làm theo sự hướng dẫn cụ thể của Ngài; và sự đáp lời của Chúa luôn vượt trỗi hơn mọi mong đợi của chúng ta.
Năm xưa, các môn đệ đầu tiên sau khi đến gặp Chúa Giê-xu đều trở về rủ người thân của mình, bạn bè của mình “hãy đến xem!” (1: 35-51), và tất cả đều đã được Chúa bắt phục. Sao ngày nay, bạn không thể nói như thế đối với những người thân thiết của mình?


Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

KHỔ NẠN NGƯỜI MANG

Luca 22-24 
Trong tường thuật của mình về những ngày cuối cùng trong chức vụ trên đất của Chúa Giê-xu, Luca đã đưa ra một số chi tiết đảm bảo không … ‘đụng hàng’, tức là chưa từng được công bố bởi các tác giả Phúc Âm khác.
Này nhé: chỉ Phúc Âm Luca mới có ‘biên bản’ ghi đầy đủ ‘lời thành văn’ cuộc tranh giành ghế trọng trong vương quốc Đức Chúa Trời giữa các môn đệ; Chỉ có Phúc Âm Luca mới ghi lời cảnh báo của Chúa Giê-xu đối với Phê-rơ về việc Sa-tan đang thèm bác í lắm lắm; Chỉ Phúc Âm Luca mới kể lại việc Chúa Giê-xu chữa lành cho người đầy tớ của vị thượng tế; Chỉ có Phúc Âm Luca mới cung cấp những chi tiết liên quan đến phiên xử Chúa Giê-xu trước mặt Hê-rốt An-ti-ba; Chỉ Phúc Âm Luca mới thuật lại việc ăn năn của một trong hai tên cướp cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-xu; và cũng chỉ có sách Phúc Âm này mới giới thiệu việc hiện ra của Chúa Giê-xu phục sinh cho hai môn đệ trên đường đi Em-ma-út mà thôi.
Dù có những khác biệt ‘chút chút’ như thế, nhưng về cơ bản thì cả 4 sách Phúc Âm (Mathiơ, Mác Luca và Giăng) đều dành nhiều thời lượng và tường thuật khá giống nhau về hầu hết mọi chi tiết liên quan đến cuộc khổ nạn và sự sống lại của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ấy là vì sự chết, sự chôn và sự sống lại của Đức Chúa Giê-xu là nội dung, là cốt lõi của Phúc Âm hay Tin Lành mà lị. Nếu lấy những chi tiết đó ra khỏi 4 sách Mathiơ, Mác Luca và Giăng thì chúng có khác chi là “muối mất mặn”, và không bao giờ còn được gọi là các sách Phúc Âm nữa.
Thế cho nên, đừng ai trong chúng ta … “vội vội vàng vàng cho xong” mỗi khi đọc những phần Kinh Thánh tường thuật về cuộc khổ nạn và sự sống lại của Chúa Giê-xu, thậm chí ngay cả khi ta gần như đã thuộc lòng nhé! Hãy đọc với tấm lòng mở ra. Bạn vẫn có thể nhận được nhiều sự dạy dỗ tươi mới từ những phần Kinh Thánh quen thuộc này bởi Đức Thánh Linh đấy.
Chẳng hạn, nhờ có Chúa Giê-xu mà “trước kia Phi-lát với vua Hê-rốt thù hiềm nhau, nhưng nội ngày ấy trở nên bạn hữu” (23: 12); nhờ có Chúa Giê-xu mà tử tù Baraba được tha bổng (23: 18-25). Hoặc ‘tiến trình’ chối Chúa của Phê-rơ bắt đầu bằng việc bác í “đi theo Chúa xa xa” (22: 54), rồi đến chỗ “ngồi giữa” những kẻ bắt Chúa – chắc là tính ẩn mình, giấu đi thân phận môn đồ đây (22: 55), và cuối cùng là chối bay chối biến luôn gốc gác Galile của mình (22: 60). Và còn nhiều điều khác nữa …
Phần Kinh Thánh hôm nay được mở đầu bằng một chi tiết rất đắt, và rất … độc: “Các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo tìm cách để giết Đức Chúa Jêsus, vì họ SỢ DÂN CHÚNG” (22: 2). Những lãnh đạo tôn giáo chỉ sợ con người chớ không hề sợ Trời khi sắp phạm tội giết người.
Khi mà một người không còn có lòng kính sợ Chúa nữa thì chuyện gì người ấy cũng dám làm, tội gì cũng dám phạm, kể cả giết người, và thậm chí là giết Chúa!
Mà “các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo” là ai? – Là những người đang hầu việc Chúa lúc bấy giờ đấy. Thế mới kinh. Không miễn trừ ai đâu nhé. Vâng, không miễn trừ ai hết, kể cả môn đệ thân tín của Chúa là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt.
Cho đến tận ngày nay, người ta vẫn còn cãi nhau chí chóe về lý do khiến Giu-đa phản Chúa. Thôi thì đủ kiểu giả thiết, luận giải trong khi Kinh Thánh hoàn toàn im lặng về chuyện này. Song có một điều được đề cập rất rõ: Giu-đa được Chúa cảnh báo liên tục trước khi hành sự. Nhưng tất cả đều bị anh í bỏ ngoài tai. Kết cuộc: anh í … ‘đai’.
Một môn đệ thân tín, ‘tay hòm chìa khóa’ của Chúa như Giu-đa Ích-ca-ri-ốt mà quỷ Satan có thể ‘nhập’ vào thì đúng là khó hiểu thật. Hẵn nhiên, Satan không ưa gì những người theo Chúa và đặc biệt là những người có mối quan hệ gần gũi với Chúa. Hắn đã từng xin phép được đưa Phê-rơ đi … ‘chơi đu quay’ cơ mà.
Chúa Giê-xu đã cầu nguyện để Phê-rơ không mất đức tin (22: 31-32), thì chẳng lẽ Ngài không thể làm như thế để bảo vệ Giu-đa sao. Hẵn nhiên là Chúa có thể nhưng với điều kiện là Giu-đa đừng mở cửa lòng mình chào đón quỷ vương.
Vâng, có rất nhiều người đã sợ người hơn sợ Chúa – từ Philat, đến các lãnh đạo tôn giáo, cho đến các môn đệ. Nhưng, không phải tất cả là như thế. Vẫn còn có nhiều người sợ Chúa hơn là sợ con người. Đó là Giô-sép người Arimathe, là những phụ nữ đến nơi táng xác Chúa vào buổi sáng Phục sinh, là một tên cướp bị đóng đinh bên cạnh Chúa và thậm chí là viên chỉ huy đội thi hành án.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt này? Mỗi người chịu khó động não tí đi nha, song … chắc chắn là nguyên nhân không nằm ở hoàn cảnh bên ngoài đâu đấy.
Cuối cùng, đó là hình ảnh Chúa “mở trí cho các môn đồ để hiểu Kinh Thánh” (24: 45). Hai môn đồ trên đường đi Em-ma-út đã hiểu được lời Kinh Thánh khi được chính Chúa giải thích cho (24: 25-32). Vậy nếu một người đọc Kinh Thánh mà không được Chúa mở trí thì răng? – Thì … ‘đui’ luôn chớ răng. Tức là, có mắt như mù, đọc thì đọc mà … ‘hiểu được chết liền’ luôn á
Mần răng chừ? – Bắt chước Đa-vít, mỗi khi đọc Kinh Thánh, cầu Chúa ri nè: “Xin Chúa mở mắt con, để con thấy được sự diệu kỳ trong luật pháp của Chúa” (Thánh Thi 119: 18)


Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015

VINH HIỂN THAY NGƯỜI

Luca 19-21 
Đúng là người ta không thể … “chung sống hòa bình” với Con Người (Chúa Giê-xu) được. Họ, hoặc là phải chấp nhận những lời xác nhận của Chúa và gọi Ngài là Đấng Mê-sia, tức là Đấng Cứu Thế; hoặc là từ chối những lời xác nhận đó và trở nên thù nghịch với Ngài.
Trong khi một nhân viên thuế vụ người Do thái tên là Xa-chê tìm được đời sống mới trong Đức Giê-xu thì những lãnh đạo tôn giáo Do Thái lại lập mưu hủy diệt Ngài. Trong khi các môn đồ của Đấng Cứu Thế lũ lượt xuống đường chào đón Thầy mình thì kẻ thù của Chúa lại chất vấn thẩm quyền của Ngài tại mỗi khúc quanh.
Trong gần một tuần, cảnh vào thành khải hoàn đã chuyển sang cảnh lìa thành bi tráng khi Con Người trở nên sinh tế vì cớ tội lỗi.
Cũng sẽ rất là ô-kơ nếu ta gọi 3 chương Kinh Thánh hôm nay bằng một nickname dài thòng là … “Tiền bạc: sử dụng hay lạm dụng”. Ấy là vì trong những ngày cuối cùng của chức vụ mình, Chúa Giê-xu đề cập hơi bị nhiều đến … “của cải trần thế”.
Này nhé: Việc sử dụng tiền bạc của Xa-chê trở nên lời chứng sống động về đức tin mới mẻ của ông nơi Đấng Cứu Thế (19: 8-10); Ẩn dụ về nén bạc dạy các môn đồ cách sử dụng chúng (cho vinh hiển Chúa) hoặc đánh mất chúng (19: 11-27); Chúa Giê-xu đuổi khỏi Đền Thờ những kẻ biến nhà Cha Ngài thành cái chợ mua bán súc vật và đổi tiền (19: 45-38); rồi việc nộp thuế cho Sê-sa trở nên bài kiểm tra thẩm quyền của Đấng Cứu Thế (20: 22-26); và cuối cùng là … 2 lepta (1/4 xu) của bà góa đã thành đề tài cho bài học về sự dâng hiến – loại dâng hiến mà Đức Chúa Trời đẹp lòng (21: 1-4).
Tiền không là tiền đấy chớ nhỉ. Chúa có kiêng cử gì ‘nó’ đâu. Vì ngoài ‘nó’ ra thì đố có ‘đứa’ nào dám tranh dành quyền làm chủ với Chúa trong đời sống của một người (Mathiơ 6: 24; Luca 16: 13). Thế cho nên cách sử dụng tiền bạc của chúng ta là một chiếc công-tơ-mét hay một chiếc đồng hồ tuyệt vời đo … nhịp bước đức tin của chúng ta với Chúa mỗi ngày đấy nha.
Ban cho cỡ như Xa-chê thì chỉ có người nào thật sự được gặp gỡ Chúa, thật sự được Chúa đụng chạm, thật sự được Chúa biến đổi mới có thể làm được. Rõ ràng, là đã có một cuộc đổi ngôi thật sự giữa tiền bạc và Chúa Giê-xu trong đời sống của người thu thuế tên là Xa-chê.
Có thể ai đó trong chúng ta vẫn còn chưa tâm phục khẩu phục khi cho rằng, Xa-chê dâng vì bốc đồng, vì cảm xúc. Thế nhưng, việc bà góa dâng tất tần tật, tuốt tuồn tuột những gì bà có để nuôi mình (21: 1-4) thì chỉ có một lời giải thích duy nhất: bà tin cậy hoàn toàn nơi Chúa. Vâng, dâng hiến luôn đòi hỏi đức tin. Đòi hỏi đức tin lớn nữa là khác.
Phần Kinh Thánh hôm nay thật sự nóng hổi tính thời sự khi “vị thế tử – Chúa Giê-xu của chúng ta – đi phương xa, đặng chịu phong chức làm vua” sắp trở về rồi. (Đọc kỹ 21: 7-33 rồi đối chiếu với những gì hiện đang diễn ra trên thế giới nói chung và tại Israel nói riêng sẽ rõ). Mà một khi Vua trở lại thì Người sẽ làm gì? – Gọi từng em đầy tớ một đến để soát sổ, hay quyết toán sổ sách “để biết mỗi người đã làm lợi được bao nhiêu”.
Khác với ẩn dụ về ta-lâng trong Mathiơ 25, ở ẩn dụ này mỗi ‘em’ được được giao cùng một số vốn giống nhau: 1 nén bạc (nguyên văn là 1 mina = 4 tháng lương). Thế nhưng, kết quả thì có 3 loại khác nhau: 1 lời 10; 1 lời 5; và 1 … còn nguyên. Còn nguyên chớ không phải hòa vốn nha. Còn nguyên vì anh í không vâng lời chủ “làm lợi ra” trong khi chủ đi xa.
Có rất nhiều điều bạn cũng có được giống như người khác. Thời giờ mỗi ngày, chẳng hạn. Hãy lo mà “làm lợi ra” cho Chủ trước khi Người “trở về”.
Khi người chủ bảo các đầy tớ rằng, “hãy làm lợi ra” thì điều đó có nghĩa là những đầy tớ có khả năng kinh doanh, họ biết làm thế nào để sinh lợi rồi. Cũng một thể ấy, bạn có khả năng “làm lợi ra” những gì mà Chúa đã giao cho bạn. Thế thì hãy nhanh chóng đưa “đồng vốn” mà mình đã nhận được vào … “lưu thông” đi. Chúa sắp trở lại rồi đấy.
“Nén bạc” của bạn có thể là thời giờ, có thể là tuổi thanh xuân, … Nếu chưa biết rõ thì hãy hỏi Đức Thánh Linh để được chỉ dẫn cụ thể. Còn nếu bạn cho rằng mình thiếu “khả năng kinh doanh” thì hãy đem “nén bạc” của mình đến “người buôn bạc”, tức là … hùn vốn hay góp vốn với những người biết kinh doanh, để họ giúp bạn … kiếm lời. Vì bạn có thể không phải là một Sam-sôn nhưng có thể là một chiếc xương hàm lừa  trong tay của anh í đấy. Mà trong tay Sam-sôn thì một chiếc xương hàm lừa cũng có thể đánh giết cả nghìn người (Thẩm Phán 15: 15).
Đã có còn được cho thêm hay đã không có còn bị lấy mất luôn (19: 26) là do ta quyết định cả đấy. Tất cả chỉ gói gọn trong một từ: TRUNG TÍN. Rứa thôi.
Và không gì phù hợp hơn để kết thúc cho phần ‘bình lựng’ hôm nay bằng chính lời cảnh báo của Chúa Giê-xu dành cho các môn đệ trước lúc Ngài “đi phương xa đặng chịu phong chức làm vua”:
“Hãy cẩn thận, kẻo sự ăn chơi, say sưa và mải lo mưu sinh tràn ngập lòng các con, đến nỗi ngày ấy tới bất thình lình trên các con như bẫy sập, vì ngày ấy cũng sẽ đến trên tất cả mọi người khắp thế giới. Hãy luôn luôn cảnh giác và cầu nguyện để các con có thể thoát khỏi mọi điều sắp xảy ra và trình diện trước mặt Con Người.” (21: 34-36)

Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

ẨN DỤ CỦA NGƯỜI (2)

Luca 16-18
Vâng, Chúa Giê-xu lại tiếp tục sử dụng ẩn dụ để chuyển tải những chân lý thiêng liêng cho người nghe, mà ưu tiên một là cho các môn đệ của Ngài. Có 3 ẩn dụ được Chúa sử dụng trong 3 chương Kinh Thánh hôm nay, nhưng hai trong số đó thì đúng là … hơi bị khó (hiểu).
Tuy nhiên, do thời lượng có hạn nên hôm nay chỉ ‘giải mã’ em đầu tiên, tức là ẩn dụ về người quản lý bất trung nhưng lại được chủ khen mà thôi (16: 1-9). Chủ khen hắn khôn, biết nắm lấy cơ hội ‘khi còn đương chức’ để chuẩn bị cho tương lai, chớ hổng phải khen hắn tốt đâu à nha. Bởi vì, vừa nhận được đơn tố cáo, mà chủ đã bắt hắn trình diện và làm tường thuật rồi, thì nay tang chứng vật chứng ‘phá hoại tài sản’ rành rành ra đấy chẳng lẽ chủ lại tha cho hắn sao. Đúng không?
Chúa muốn dạy các môn đệ của Ngài điều gì qua ẩn dụ này? – Một ‘thằng’ gian như thế mà còn biết lo cho ngày mai của mình, thì tại sao những ‘đứa’ ngay như các ngươi lại không làm được như thế. Tương lai của ‘thằng’ gian í chỉ thuộc về trần thế ngắn ngủi này mà nó còn ‘quyết liệt’ đến như thế, huống chi tương lai của các ngươi thuộc về cõi đời đời lại chẳng nên đầu tư càng hơn như vậy sao?
Cụm từ “của cải bất nghĩa/bất chính” trong các câu 9-12 cần được giải thích bởi chính văn mạch của nó. Theo đó, “của cải bất nghĩa” chính là “của cải của người khác”, mà cụ thể ở đây là “của người chủ”.
Mà chủ là ai? – Đức Chúa Trời chớ ai. Thế còn người quản lý? – Là mỗi một chúng ta đấy.
Do đó, tất cả những gì ta gọi là của ta thì thật ra là của Đức Chúa Trời cả đấy. Ta chỉ là người quản lý mà thôi. Người quản lý tồi là người “phung phí tài sản của chủ” (16: 1); còn người quản lý trung tín là người biết sử dụng “của cải của người khác”, tức “của chủ” mà “kết bạn”, tức là đem nhiều người khác cùng vào trong tương lai “đời đời” của mình.
Người giàu (16: 19-31) là một minh họa sống động cho một đời sống không biết chuẩn bị cho tương lai đời đời của mình.
Người giàu vào hỏa ngục không phải vì giàu, cũng không phải vì ích kỷ. Cũng vậy, La-xa-rơ được yên nghỉ trong Lòng Áp-ra-ham (một nơi tạm cư trước khi diễn ra sự phán xét đời đời) không phải nhờ nghèo hay có xuất thân là … ăn xin.
Bác nhà giàu được ‘định cư’ vĩnh viễn trong hỏa ngục là vì “không chịu nghe Môi-se và các nhà tiên tri”, tức là chối bỏ Lời Chúa trong kinh Cựu ước đấy ạ. Bác í cuối cùng cũng hiểu được chân lý này, tiếc là lúc ấy thì đã quá muộn rồi.
Một người có thể vừa có tiền bạc, vừa có Chúa, nhưng người ấy không thể vừa hầu việc Chúa vừa hầu hạ tiền bạc được. Hoặc là Chúa hoặc là thần tài. Không thể cả hai cùng là chủ của chúng ta được. Có thể, giống như những người Pharisi ngày xưa, có ai đó trong chúng ta bên ngoài thì rất chi là sùng đạo, nhưng trong lòng thì tiền bạc mới là nâm-bờ oanh.
Chỉ cần mần cái trắc nghiệm ni là biết được ai đang thật sự là chủ của mình liền à: “Người ta trả bao nhiêu tiền thì bạn sẽ không đi thờ phượng Chúa?”
- 10 RM nhé? – Đừng có mơ.
- 43 RM (tức 10USD hay 22.000 VND)? – Không.
- 430 RM?
Mần thử đi để biết được đối với mình thì Chúa đáng giá bao nhiêu, hay bao nhiêu tiền thì ‘mua đứt’ được Chúa ở trong ta.
Con người thì không thể nhưng Chúa thì thấy rất rõ tấm lòng của mỗi một chúng ta. Không cần ai thưa kiện hay tố cáo gì ráo trọi thì Chúa cũng biết được là bạn và tôi là người quản lý trung tín hay bất trung. Nhớ đấy.
Vào thiên đàng thì chỉ cần tin là đủ, nhưng TIN là răng? – Là nghe Lời Chúa và làm theo chớ răng. Mà Lời Chúa thì lúc nào cũng bao gồm cả “Luật Pháp và Lời Tiên Tri” (16: 16-17) hay nói theo kiểu khác là “Môi-se và các nhà tiên tri” (16: 29-31). Và Lời Chúa (bao gồm cả Luật Pháp, tức kinh Cựu Ước nói chung) thì muôn đời vẫn còn nguyên giá trị (16: 17). Thế cho nên, đừng có viện cớ xã hội thay đổi hòng bẻ cong Lời Chúa để thỏa mãn dục vọng tội lỗi của mình. Điển hình như chuyện ly hôn (16: 18).
Vì cớ TIN nghĩa là “nghe và làm theo Lời Chúa” nên nó đòi hỏi một quyết định của ý chí. Không có chuyện tự trôi vào thiên đàng, mà “mọi người phải dùng sức mạnh mà vào đó” (16: 16).
Hãy đọc thật kỹ phần Kinh Thánh còn lại của ngày hôm nay, bạn sẽ nhận thấy ý tưởng này xuất hiện khắp nơi. Đức tin phải được thể hiện bằng hành động, còn bằng không thì đó chỉ là … đứt bóng, chớ nỏ phải đức tin. Đơn giản rứa thôi.