Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

ĂN, NGỦ, TU TẬP

1 Corinhto 7-11:1 
Bắt đầu từ chương 7, Phao-lô trả lời một loạt những théc méc mà bà con cô bác tại Cô-rinh-tô tới tấp gởi về. Đây là bộ sưu tập những câu hỏi mà không thể tìm thấy câu trả lời nơi các sách Cựu ước, cũng như trong những lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu.
Chẳng hạn, sống độc thân có tốt hơn là lập gia đình không? Người tin thờ Chúa có được phép ăn thịt đã dâng cúng cho ngẫu tượng, tà thần không? Rồi thì có thích hợp cho người giảng Tin Lành, tức người hầu việc Chúa, được nuôi bởi Tin Lành, tức được nhận sự chu cấp từ nơi Hội Thánh không? Vân vân, và vân vân.
Có thể gọi chương 7 là “Cẩm Nan Hôn Nhân” dành cho người tin thờ Chúa. Ấy là vì trong đó, ta có thể tìm thấy những hướng dẫn hữu ích cho mọi tình trạng hôn nhân (độc thân, kết hôn, ly hôn, tái hôn, … và kể cả trường hợp 2 vợ chồng chỉ mới có một người tin thờ Chúa).
Theo đó, việc quyết định kết hôn hay sống độc thân không phải là chọn lựa giữa xấu và tốt mà là giữa tốt và tốt hơn. Kết hôn hay sống độc thân là một “ơn gọi”, một “sự ban cho”, hay một tặng phẩm của Đức Chúa Trời. Nếu không được Chúa “gọi” để sống độc thân thì một người không thể nào sống được. Người ấy sẽ bị lửa dục tình nung đốt, dù họ có công khai nhìn nhận hay không (7: 9).
Thế nhưng, đối với một người đã kết hôn thì mạng lệnh của Chúa là rất rõ ràng: “Vợ không được bỏ chồng, … Chồng cũng không được ly dị vợ.” (7: 10-11). Anh chị em có còn nhớ không, Đức Chúa Trời đã phán: “Ta ghét sự ly dị; và Ta cũng ghét kẻ mang lớp áo bạo hành như thế đối với vợ”  (Malachi 2: 16). Thế thì đừng biến mình trở thành kẻ bị Chúa ghét nha.
Trong chương này, bác Phao-lô cũng huỵch toẹt cả chuyện sinh hoạt vợ chồng luôn, không hề gán cho cái nhãn là “vấn đề nhạy cảm” để úp mở chi cả. Nếu chiếu theo luật định của “một chuẩn men Pharisi” thì Phao-lô chắc chắn là đã có vợ. Nhưng không biết tại sao giang hồ lại đồn rằng, bác í không có vợ. Nhưng dù có vợ hay không thì Phao-lô cũng chả sợ khi đề cập đến chuyện sinh hoạt vợ chồng.
Bác í dạy ri nì: “Vợ không có quyền trên thân xác mình nhưng chồng có quyền; chồng cũng không có quyền trên thân xác mình nhưng vợ có quyền. Vợ chồng không nên từ chối ăn nằm với nhau, trừ khi hai người đồng ý kiêng một thời gian để chuyên tâm cầu nguyện, sau đó hãy trở lại với nhau như cũ để khỏi bị quỷ Sa-tan cám dỗ khi anh chị em thiếu tự chế.” (7: 4-5)
Đừng có dại dột mà sử dụng ‘vốn tự có’ của mình như vũ khí hay quà tặng để sai khiến người bạn đời của mình nha các anh, các chị, các ông, các bà. Sa-tan lúc nào cũng chực sẵn một bên để băm vằm hôn nhân của quý vị đấy. Nhớ nha.
Chuyện NGỦ xong rồi, giờ đến chuyện … ĂN. Ăn thịt hay không ăn thịt.
Để hiểu được thấu đáo chuyện này thì phải ‘quất’ đúng 3 chương: 8-9-10 nha. Đừng tách rời ‘chúng’ ra là … rách việc đấy. He he.
Số là thời ấy, thịt dâng cúng cho thần tượng ngoại giáo luôn được chia làm 3 phần. Một phần đem thiêu cho vị thần đó … hưởng hơi; một phần khác được chia cho người cúng mang về nhà để hưởng … lộc; phần còn lại dành cho thầy tế. Nếu không thích nhấm nháp phần thịt này thì thầy tế đem bán ngay tại … trận. Và thịt này thường được bán rẻ hơn … giá thị trường.
Đấy, vấn đề ‘lăn tăn’ là như thế. Nhiều tín hữu tại Cô-rinh-tô viện dẫn rằng, ngoài Đức Chúa Trời chân thật ra thì tất cả các ông thần, bà thánh trong thế gian chẳng là … cái đinh gì cả. Mà nếu mấy ‘chả’, mấy ‘mẻ’ đã không có thật hoặc chẳng có thực quyền gì, thì của cúng tế đó đâu có bị … ô nhiễm chi mô. Cứ vô tư mà … ‘xực’ thôi.
Trong vấn đề này, Phao-lô khuyên dạy con dân Chúa phải xử sự trên tinh thần yêu thương, vì lợi ích của những anh chị em khác đồng đức tin trong hội thánh chớ không nên xử sự theo kiểu … ‘một mình, một chợ’.
Phao-lô lập luận ri nè: “Cứ cho là anh em có sự hiểu biết đúng về chuyện có thần, có thánh hay không đi – nhưng thật ra họ không biết (8:2) – nhưng hãy vì đức tin của người khác mà ăn, mà uống. Không chỉ vậy, khi làm cho những người ‘kém hiểu biết’ hơn anh em vấp phạm vì chuyện ăn uống bạt mạng của mình, thì anh em phạm tội với Đấng Christ đấy” (8: 12). Rồi Phao-lô khuyên con dân Chúa tại hội thánh Cô-rinh-tô hãy xem việc ông tự nguyện từ bỏ những quyền lợi của mình để thu phục được nhiều người hơn cho Đấng Christ như là một gương mẫu để kiêng … ăn thịt.
Nếu chỉ đọc thoáng qua, ta dường như có cảm tưởng như Phao-lô dạy rằng người tin thờ Chúa có thể ăn được những thực phẩm đã được dâng cúng cho thần tượng, nếu không có ai nhìn thấy, hoặc không khiến cho người tin Chúa khác ngộ nhận, hay vấp phạm. Mà nếu thế thì mâu thuẫn với quyết định của Hội nghị Jerusalem sao (Công Vụ 15: 29)? Tuy nhiên, Phao-lô nào nỡ vậy. He he. Ông đã túm lại cách ngon lành trong chương 10 rằng thì là, “khi người ta dâng tế là dâng tế ma quỷ, không phải Đức Chúa Trời. Tôi không muốn anh chị em trở nên thông công với ma quỷ” (10: 20)
Cũng tại chương 10, sứ đồ Phao-lô đã nêu ra một nguyên tắc mang tính định hướng hết sức là ô-kơ trong mọi sinh hoạt của người tin thờ Chúa, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà Kinh Thánh không có những hướng dẫn cụ thể: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh quang của Đức Chúa Trời.” (10: 31)
Đấy cứ căn vào đấy mà tìm câu trả lời cho việc ngày nay, người tin Chúa có được uống bia, có được rít thuốc lá, thuốc lào, thuốc … phiện hay xem phim ảnh khiêu dâm, … không nhé. Nếu cho rằng, những việc đấy sẽ làm cho Chúa được vinh hiển – hay nôm na là sẽ làm cho Chúa được người ta khen, hoặc trần trụi hơn nữa là sẽ làm cho Chúa được nở mày, nở mặt – thì cứ vô tư mà uống, mà hít, mà ngắm nhá. Còn ngược lại thì … chớ đụng đến. Rứa thôi.
Cuối cùng, là bài học và cũng là sự thách thức dành cho tất cả những người hầu việc Chúa. Bao nhiêu tôi tớ Chúa ngày nay dám tuyên bố xanh rờn như Phao-lô: Hãy bắt chước tôi, cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy (11: 1)? Quý vị có dám nói dõng dạc như vậy trước bầy chiên mà Chúa giao cho quý vị chăn dắt không? Và mỗi một ngày, quý vị có còn thật sự đang sống và phục vụ theo gương Đấng Christ không?


Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

THÁNH MÀ CHƯA THÁNH

1 Corinhto 1-6 
Hôm nay, chúng ta bắt đầu ‘xuyên’ thơ Cô-rinh-tô thứ nhất, tức là bức da-meo đầu tiên mà sứ đồ Phao-lô gởi cho những người tin Chúa tại thành phố Cô-rinh-tô, một trung tâm thương mại, và cũng là một địa chỉ danh tiếng về lối sống vô luân và thờ lạy hình tượng thời bấy giờ. Ngày nay, Cô-rinh-tô là một thành phố cảng thuộc Hy-lạp.
Chúa dùng Phao-lô thành lập Hội Thánh Cô-rinh-tô trong hành trình truyền giáo lần thứ hai của ông (Công Vụ 18: 1-17). Đây là một Hội thánh thật sự tăng trưởng, theo … “tinh thần Ngũ Tuần, Ân Tứ” chánh hiệu, nhưng lại bị ‘hành hạ’ bởi … hàng tá nan đề, từ đạo đức đến đạo … giáo, từ lẽ đạo đến sống đạo, từ nhà riêng đến nhà … chung!
Phao-lô đã viết lá thư này để chỉnh đốn lại trật tự và để trả lời một số ‘théc méc’ mà bà con cô bác từ Cô-rinh-tô gởi đến.
Món xương đầu tiên nằm ở các chương từ 1-4 có tên là: Bè Phái. Ít nhất là có đến 4 bè trong hội thánh tại Cô-rinh-tô. Đó là các bè: Phao-lô, A-bô-lô, Phê-rơ và … Đức Chúa Giê-xu Christ (1: 11-12)! Bè thứ 4 (Chúa Giê-xu) xuất hiện có lẽ là một số người do quá chán ngán tình trạng suốt ngày công kích, uýnh đấm lẫn nhau giữa ba bè PAP kia, nên quyết định đứng riêng và chọn tên đó cho nó thiêng cũng nên.
Đoán cho hay vậy thôi, chớ Kinh Thánh không cho chúng ta biết ‘chiện’ này. Thế nhưng, nguyên nhân xúi mấy chị ‘khênh’ Tô này chia bè, kéo cánh thì có. Đó là tệ sùng bái cá nhân theo kiểu: “ông thầy em … nâm bờ oanh!” vậy đó.
Suốt 4 chương đầu tiên, Phao-lô chỉ ra những cái sai … từa lưa hạt dưa của mấy ‘cô bê tô’ khi xem ai đó là nâm bờ oanh trong hội thánh của Đức Chúa Trời.
Thứ nhất, những người mà người Cô-rinh-tô đề cao (Phao-lô, A-bô-lô, Phê-rơ) chỉ là đầy tớ của Đức Chúa Trời mà thôi. Thứ hai, cho dù những người đó có khôn ngoan hay tài năng siêu phàm đến đâu đi nữa thì những gì họ có cũng chỉ là ‘hàng nhập khẩu’ từ Trời chớ họ có ‘tự sản xuất’ được gì đâu. Thế thì có gì mà khoe, không biết ngượng à. Thứ ba, ‘tay nghề’ (tài năng hay sự khôn ngoan) của những người ấy chỉ có thể được ‘kiểm tra chất lượng’ bằng chính những ‘sản phẩm’ mà họ trực tiếp làm ra mà thôi. Mà sản phẩm đó là những Đền Thờ của Đức Chúa Trời, tức là những người tin Chúa hiện đang ở tại Cô-rinh-tô đấy thôi. Thế cho nên đừng có mà tự lừa dối mình nha mấy cưng.
Đấy, đại loại Phao-lô đã nói với những ‘ông’ con của bác í ở Cô-rinh-tô như thế. Toàn chuyện ngày xưa, ở một Hội thánh xa lơ xa lắc nào tận trời Âu mà sao vẫn còn nóng hổi tính thời sự đối với hầu hết các hội thánh Chúa khắp mọi nơi, ngay trong thời nay ấy nhỉ. Đúng là chẳng có gì mới dưới mặt trời.
Không dừng lại ở việc chỉ ra nguyên của tình trạng bè phái trong Hội thánh là tệ sùng bái cá nhân, Phao-lô còn tung thêm một chưởng nữa dành cho mọi bè, mọi phái. Đó là, bất cứ người nào mà còn ganh tị, tranh chấp, còn hơn thua, khoái hiệp 2, hiệp 3, hiệp … n, hơn là hiệp nhất thì cả thảy đều được gọi là tín đồ xác thịt, là con trẻ thuộc linh, bất kể tước hiệu, địa vị, học vị mà người ấy có (3: 1-3).
Nếu cứ căn đúng chuẩn này mà đo thì không biết có bao nhiêu ‘đứa trẻ’ đang phải đóng vai ‘người lớn’, đang phải ‘làm cha, làm mẹ’ trong khắp các Hội thánh. Chả trách, tại sao hội thánh khắp nơi cứ phải đối diện với tình trạng chia năm xẻ bảy thường xuyên.
Trong thế giới thuộc linh luôn có ba loại người: (a) loại chết thuộc linh, tức không có Đức Thánh Linh hay không có Chúa nói chung (2: 14), (b) loại chưa trưởng thành, tức con trẻ thuộc linh (3: 1) và (c) loại có nhận thức thuộc linh sâu sắc (2: 15-16). Anh chị em thuộc loại nào trong số này?
Giải pháp cho vấn nạn bè phái là theo gương Phao-lô, học bài học khiêm nhường. Khiêm nhường, nôm na là học biết tôn trọng người khác, tức học biết nhìn nhận năng lực và chức năng của người khác, học biết rằng mình không thể làm việc một mình, mà luôn cần đến sự giúp đỡ của người khác, và học biết chấp nhận sự khác biệt trong cách hiểu, cách tiếp cận và xử lý một vấn đề.
Trong chương 5, Phao-lô đề cập đến một chuyện xấu thôi rồi trong hội thánh Cô-rinh-tô. Đó là có anh kia, hổng biết bà mẹ kế của ảnh đẹp cỡ nào, trẻ cỡ nào, hấp dẫn cỡ nào mà ảnh đã phạm tội loạn luân với bà í. “Rằng giữa anh chị em có sự gian dâm, một sự gian dâm mà ngay cả giữa vòng người ngoại cũng không có như vậy: có kẻ đã ăn nằm với vợ kế của cha mình” (5: 1). Có lẽ, anh giai này có vai vế gì trong xã hội hay hội thánh hay sao í mà hội chúng không dám ‘động’ tới ảnh. Cũng có thể, hội thánh sợ rằng xử thì hắn bỏ đi, rồi còn kéo theo nhiều người khác nữa, làm xáo trộn bầy chiên chăng.
Trong trường hợp này, Phao-lô chỉ thị là phải xử lý cách dứt khoát. “Hãy phó người ấy cho Sa-tan để nó hủy diệt xác thịt, hầu tâm linh người ấy có thể được cứu trong ngày của Đức Chúa Jesus” (5: 5). Ngày nay ta gọi hình thức kỷ luật này là “rút phép thông công”, tức là không còn được công nhận là thành viên chính thức của một hội thánh địa phương.
Người ấy không còn được ở trong sự che phủ thuộc linh của Chúa nơi hội chúng đó; không còn được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng với tư cách là một thành viên, một chi thể sống trong thân. Sa-tan lúc bấy giờ được trao quyền trên xác thịt của người ấy, để ‘dạy dỗ’ người ấy cho đến khi nào người ‘thuộc bài’ mới thôi.
Nhiều anh trai chị gái vì “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ”, nên dù đã bị “rút phép”, đã “bị loại khỏi vòng chiến đấu” từ lâu rồi mà vẫn cứ nhơn nhơn, coi trời đất chẳng là … nghĩa địa gì ráo trọi. Đang nằm trên thớt của Sa-tan, đang nằm sát miệng hổ rồi đó cưng. Không lo gấp rút ăn năn quay đầu trở lại với Chúa đi. Đừng tưởng chạy qua hội thánh khác, nơi nhóm khác mà thoát được án hả con. Bé cái nhầm rồi cưng. Quay đầu là bờ!


Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

SỐNG CÔNG CHÍNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG

Roma 12-16 
Trong 11 chương đã qua, Phao-lô luận giải về những tín lý căn bản của niềm tin Cơ-đốc. Còn giờ đây, trong 5 chương còn lại, ông đưa ra những hướng dẫn cụ thể nhằm giúp người tin thờ Chúa áp dụng lẽ đạo công chính ấy vào trong thực tiễn đời thường của mình.
Trước hết, người tin thờ Chúa cần phải có “sự thờ phượng hợp lẽ” đối với Chúa. Mà thờ phượng kiểu nớ là răng? – Là “dâng hiến chính mình như những sinh tế sống, thánh khiết, đẹp lòng Đức Chúa Trời”. Nói cách nôm na là từ bỏ ý riêng để sống theo ý Chúa; từ chỗ sống cho riêng mình chuyển sang sống vì Chúa, sống cho Chúa. Mà sống cho Chúa thì bao giờ cũng khó hơn là chết cho Chúa đó nha.
Để tiến trình đổi ngôi hay chuyển giao quyền lực này – từ chỗ mình làm chủ sang chỗ Chúa Giê-xu làm chủ – trong đời sống của chúng ta có thể xảy ra và tiến triển cách ô-kơ, thì người tin thờ Chúa phải thực hiện hai điều. Đó là không rập khuôn theo cách của Đời và đồng thời phải biến hóa theo mẫu của Trời. Mà để biến hóa theo mẫu của Trời thì đòi hỏi người theo Chúa phải đổi mới tâm trí hay đổi mới tư duy.
Một khi mà tâm trí hay tư duy của chúng ta “được đổi mới”, thì mọi quan niệm, thang giá trị cũng như thứ tự ưu tiên của chúng ta đều chịu sự thay đổi và rồi phong cách sống của chúng ta cũng sẽ thay đổi.
Rất nhiều người sau khi cầu nguyện tiếp nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa đã rất cố gắng từ bỏ lối sống cũ. Họ cũng đã rất nỗ lực để kiêng khem; để vâng giữ những giáo nghi, những luật định nơi nhà Chúa. Thế nhưng, họ cứ trầy trật mãi mà chẳng thể nào “lột xác”, hay “biến hóa” được.
Nguyên nhân? – Ấy là vì tâm trí họ chưa được đổi mới. Họ vẫn còn đang sống cho chính mình. Những nỗ lực, cố gắng để thay đổi hành vi kia của họ cũng chỉ là nhằm … tranh thủ tình cảm của Chúa, nhằm kéo Chúa về phía mình để ban phước mà thực chất là để làm lợi cho mình đó thôi.
Thế thì làm sao để tâm trí của chúng ta có thể được đổi mới? – Chỉ có một cách duy nhất: Liên tục tẩy rửa nó bằng Lời Kinh Thánh! Việc trung tín đọc và suy gẫm Lời Chúa mỗi ngày cũng tương tự như ta bơm nước sạch vào một bồn chứa nước dơ vậy. Nước dơ (suy nghĩ cũ, quan niệm cũ) sẽ bị loại thải ra nếu chúng ta cứ liên tục bơm nước sạch vào. Đổi mới tâm trí cũng giống như vậy.
Khi tâm trí của một tín hữu được thay đổi thì người ấy sẽ thật sự trao lại quyền làm chủ đời sống của mình cho Chúa Giê-xu. Mà một khi người ấy không còn là chủ, tức không còn là nâm-bờ oanh nữa, thì việc tôn trọng người khác, phục vụ người khác hay chấp nhận người khác, kể cả những người khác quan điểm với mình về một số vấn đề, cũng chỉ là chuyện nhỏ như … con thỏ mà thôi. He he
Hãy dành thì giờ đọc thật kỹ phần Kinh Thánh hôm nay, đặc biệt là các phân đoạn 12: 9-21; 13: 8-14; 14:1 – 15:6. Hãy chân thành soi mình vào đó để xem thử điều gì mình đã làm được và điều gì thì chưa bạn nhé. Nhớ là chúng ta được kêu gọi không phải là để NÓI về Lời Chúa, mà là để SỐNG theo Lời Chúa.
Hỏi nhỏ chút nha: có người nào trong hội thánh mà bạn xem là không bằng vai phải lứa với mình không vậy? Có ai đó mà bạn xem là không xứng đáng để bạn quan tâm hay phục vụ không đấy?
Nghe này: chúng ta thường rất dễ dãi và thậm chí là rất rộng rãi đối với người ngoài nhưng lại quá dè xẻn, quá hẹp hòi trong việc YÊU người nhà mình đấy.
Biết sao không? - Ấy là vì chúng ta thấy, chúng ta biết rõ những sai phạm, thiếu kém của họ nên cho rằng, đối tượng ấy (người nhà) không xứng đáng để mình yêu; để mình tiếp; để mình đãi!
Thay đổi đi cưng. Đừng có “nghĩ về mình cao quá như thế”. Cưng không hơn gì người khác đâu. Có nhiều lĩnh vực cưng còn be bét lắm đấy; Có nhiều điều trong cưng còn tối hù, còn thối rình nữa kìa.
Mấy hôm rày, cả thế giới rúng động vì tội ác mà những kẻ khủng bố Hồi giáo đã thực hiện tại Paris. Và thế là “máu kêu trả máu, đầu van trả đầu” hay nguyên tắc “lấy ác trả ác” được thực hiện ngay lập tức. Là người tin thờ Chúa, chúng ta phản ứng như thế nào đối với hành động báo thù này của chính phủ Pháp? Hãy so sánh thái độ của chính mình trong trường hợp này với Lời của Chúa trong Roma 12: 17-21 thì ta sẽ thấy tâm trí của mình thật sự được đổi mới hay chưa đấy.
Điều cuối cùng cần được nhắc tới trong phần Kinh Thánh hôm nay liên quan đến “sự thờ phượng hợp lẽ” của chúng ta là thái độ cần có của chúng ta đối với những người bậc cầm quyền.
Những người lãnh đạo chính quyền các cấp cũng được Kinh Thánh gọi là những “tôi tớ Chúa”, tức là những người hầu việc Chúa đấy nha (13: 4). Họ được chính Chúa bổ nhiệm để thực hiện kế hoạch của Ngài đối với cộng đồng đó, địa phương đó hay quốc gia đó.
Tất cả lãnh đạo chính quyền đều được Chúa bổ nhiệm, nhưng không phải người lãnh đạo nào cũng được Chúa dùng để ban phước cho xứ sở đó đâu. Có người lãnh đạo được Chúa sử dụng để thi hành án phạt đối với quốc gia đó. Cũng có lãnh đạo được Chúa dùng để đẩy đất nước đó đến chỗ … đủ điều kiện để lãnh án đấy!
Uy quyền của tất cả những người lãnh đạo chính quyền đều đến từ Chúa, song nhân cách của họ thì không. Và người tin thờ Chúa được truyền lệnh phải phục tùng uy quyền mà Chúa đã ủy thác cho những người ấy. Phục tùng không phải vì họ có xứng đáng để ta phục hay không mà là vì Chúa muốn ta làm vậy.
Chính quyền La-mã thời Phao-lô là một chính quyền thù ghét, bách hại Đạo Chúa. Nhưng không vì thế mà Phao-lô (và cả Chúa Giê-xu trước đó) phủ nhận hay chỉ trích những thẩm quyền đó. Có thể, đây đó có những bậc cầm quyền không chu toàn chức phận Chúa trao là “thi hành sự trừng phạt đối với kẻ làm điều gian ác” (13: 4). Nhưng điều đó thì can hệ gì đến việc bạn “làm điều tốt đẹp”, tức là làm một công dân tốt trong đất nước của mình? Hãy làm phần của mình, chớ đừng đá nhầm sân mà làm phần của Chúa bạn nhé.
Bạn có thật lòng tôn trọng những người lãnh đạo chính quyền không vậy? Nếu câu trả lời là không thì bạn không thể nào thuận phục uy quyền của họ được đâu.

Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015

THIÊN CƠ CHO DÂN TUYỂN

Roma 9-11 
Dân tuyển ở đây chính là dân Do Thái (Israen), một dân tộc được Đức Chúa Trời chọn lựa và dành riêng cho Ngài. Vì là “hàng tuyển” nên họ được hưởng … số sướng, không thiếu một thứ gì cả (9: 4-5). Từ nơi họ mà Đức Giê-xu, tức là Đấng Mê-sia hay Đấng Cứu Thế đã ra đời. Thế nhưng họ lại từ chối Ngài, từ chối sự cứu rỗi mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho họ qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Đúng là có số sướng mà không biết hưởng!
Nếu đúng là người đã được Chúa chọn mà lại mất sự cứu rỗi thì hóa ra lời hứa của Chúa, kế hoạch của Chúa (dành cho họ) là không có giá trị, là thất bại à? – Không hề nhé (9: 6).
Israen cũng có năm bảy đường Israen nha. Hay ngắn gọn là Do Thái … có hai loại Do Thái. Một là Do Thái “theo lời hứa”, còn một là Do Thái “theo xác thịt”. Chỉ có đứa “theo lời hứa” mới thật sự là đứa được chọn. Mà hễ đứa nào được chọn thì chéc cú là sẽ được xưng công chính hay hưởng được sự cứu rỗi – sự cứu rỗi duy bởi ân huệ mà thôi.
Thế thì, không phải cứ ai đi nhà thờ là đều được cứu đâu nha; không phải bất kỳ ai sinh ra trong gia đình có đạo là nghiễm nhiên có vé vào Thiên Đàng đâu đấy. Nếu bảo rằng mình đi Đạo, mình thờ Chúa mà lòng mình không có Chúa Giê-xu ngự trị; đời sống của mình Chúa không thể làm chủ thì hổng chừng cưng đang thuộc về “hạng Do Thái theo xác thịt” rồi đấy nha.
Người ta được cứu tùy thuộc nơi sự chọn lựa của Chúa. Mà sự chọn lựa của Chúa thì hoàn toàn không dựa trên trí tuệ, cũng không dựa trên quan hệ, trên hậu duệ, hoặc trên tiền tệ, mà chỉ dựa mỗi trên … ân huệ!
Thế thì có bất công không? – Bất công thế nào được. Vì “mọi người đều đã phạm tội” và “hậu quả của tội lỗi là sự chết”, nên bất kỳ ai trong chúng ta cũng xứng đi địa ngục, bất kỳ ai trong chúng ta cũng xứng đáng đi … định cư nơi Hồ Lửa đời đời cả thôi. Thế cho nên, nếu có ai đó théc méc với Chúa rằng, “tại sao ông cứu con nhỏ kia mà lại không cứu tui?” thì người ấy hoàn toàn chưa hiểu biết gì về … ân huệ hay ân điển rồi.
Phần đông chúng ta thường rơi vào chỗ nguy hiểm khi cho rằng mình được quyền hay có quyền (tức xứng đáng) hưởng ân huệ của Đức Chúa Trời. Nếu Chúa bị buộc phải thi ân hay bày tỏ lòng thương xót, thì đó đâu phải là ân huệ mà chỉ là bổn phận, hay trách nhiệm mà thôi.
Hàng năm, vào những dịp lễ lớn Chủ tịch nước thường hay ký lịnh ân xá cho một số phạm nhân đã bị tuyên án tử hình. Họ được miễn tội chết trong khi những tử tù khác thì phải chết. Không ai vì chuyện ấy mà kêu ca hay lên án chủ tịch nước là bất công cả. Đơn giản là vì không một ai sẽ bị kể là bất công vì cớ không bày tỏ lòng thương xót đối với tất cả mọi người.
Ô-kơ, thôi thì chuyện Chúa muốn chọn ai để ... thương … là quyền của Chúa đi. Thế nhưng, giả dụ tôi thuộc nhằm đứa Chúa chọn để … ghét bỏ thì kiểu gì chả chết, vì làm răng mà có thể cãi được mệnh Trời, đúng không? Mà nếu đúng là như thế thì tôi có cố gắng, có kiêng khem, có tin kính cũng bằng thừa. Chúa định cho tôi như thế rồi cơ mà. Thế thì, Chúa còn quở trách chi tôi, còn bắt phạt gì tôi nữa (9: 19).
Thoạt nghe, lập luận trên đây rất chi là … có lý. Dường như, Đức Chúa Trời đã ép người quá đáng thì phải. Tuy nhiên, không phải tất cả những gì có lý đều là chân lý đâu nha.
Dân Do Thái đã chủ động chối bỏ Chúa Giê-xu chớ không phải họ bị ép buộc phải làm như vậy. Có đến những ba lần tổng trấn Philat bảo tha, nhưng cả ba lần chúng đều mở loa là … GIẾT! Họ có thể chọn khác đi, đúng không? Thế nhưng, kết cuộc họ lại chọn … GIẾT, tức là chọn loại bỏ theo đúng như chương trình mà Đức Chúa Trời đã định.
Đúng là Chúa đã chọn Gia-cốp và bỏ Ê-sau từ lúc hai đứa còn … ở trong đầu gối của ông bố Y-sác cơ. Thế nhưng, sau đó thì sao? Chính Ê-sau đã tình nguyện từ chối quyền trưởng nam, tức quyền thừa kế, để đổi lấy một bát súp đậu đấy thôi. Có ai ép buộc chi đâu. Cái bụng của bác í ép thì có. Ê-sau có thể chọn cách khác cơ mà, nhưng kết cuộc là bác í đã TỰ NGUYỆN chọn … đúng như điều Chúa đã định.
Còn phía ngược lại, người được Chúa chọn để hưởng ơn cứu rỗi CÓ THỂ chối bỏ Chúa không? Tất nhiên là có, vì người ấy hoàn toàn có ý chí tự do cơ mà. Thế nhưng, một khi đứng trước sự chọn lựa thì kiểu gì rồi cuối cùng người ấy cũng chọn lấy Chúa chớ không bỏ Chúa. Thậm chí, có lúc họ thất bại như trường hợp của Phê-rơ (chối Chúa ba lần) đi nữa thì cuối cùng họ cũng ăn năn quay trở lại với Chúa mà thôi.
Thế thì, sự chọn lựa theo ân huệ hay ân điển của Đức Chúa Trời không bao giờ loại bỏ quyền tự quyết (tự do quyết định) của con người. Và sự phán xét của Đức Chúa Trời sẽ căn cứ trên quyết định của mỗi một chúng ta – quyết định tin thờ Chúa Giê-xu hay từ chối Chúa Giê-xu (10: 4, 9-13).
Đến đây, sẽ có người thắc mắc là nếu Đức Chúa Trời đã chọn trước một ai đó để hưởng (hoặc để chối bỏ) ơn cứu rỗi thì việc rao giảng Tin Lành có còn cần thiết nữa không? Câu trả lời của Phao-lô là VẪN RẤT CẦN THIẾT.
Cần thiết vì có được nghe thì mới có cơ hội chọn lựa; mới có cơ hội đưa ra quyết định tin hay không tin, tiếp nhận hay từ chối ơn cứu rỗi từ Đức Chúa Trời. Mà để được nghe thì cần phải có người rao giảng (10: 14, 17). Vì Chúa là Đức Chúa Trời công bình nên ai cũng được ban cho cơ hội để chọn lựa, để đưa ra quyết định cá nhân của mình đối với Chúa Giê-xu. Việc rao giảng Tin Lành hay nôm na là “làm chứng về Chúa Giê-xu” vẫn còn cần thiết là như thế.
Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, luôn luôn tồn tại ‘một bộ phận không nhỏ’ những người “không chịu vâng theo Phúc Âm”, tức là nghe thì nghe nhưng không chịu tin (10: 16). Ngay cả, trong dân được tuyển chọn của Chúa là Do Thái mà cũng không thiếu thành phần “lòng chai, trí lú, mắt mù, tai điếc” này cơ mà. Đó chính là lý do mà Kinh Thánh khẳng quyết rằng, “chỉ một số dân sót lại sẽ được cứu mà thôi” (9: 27; 11: 5).
Vậy nên, hỡi anh chị em là “những người được chọn lựa theo ân sủng” chớ ngưng nghỉ, cũng đừng trễ nải trong việc loan báo Tin Lành của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Và chính Chúa đã xác nhận rằng, “Bàn chân của những người truyền rao Tin Lành thật xinh đẹp biết bao!” (10: 15)


Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

SỐNG CÔNG CHÍNH NHỜ ĐÂU?

Roma 6-8 
Con người của chúng ta không chỉ có linh, mà còn có hồn và xác nữa. Linh (hay còn gọi là tâm linh hoặc … vía) được xưng công chính (vô tội) khi ta thật lòng tin nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa. Thế còn hồn và xác thì răng? – Cũng cần được cứu chớ răng.
Linh thì được cứu khỏi hình phạt của tội lỗi, tức sự chết. Hồn thì cần được cứu khỏi ách nô lệ hay sự cai trị của tội lỗi. Nói cách dễ hiểu hơn là ri: hồn cần được cứu khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, hay nôm na là khỏi thói quen phạm tội. Còn xác thì sẽ được cứu khỏi sự hiện diện của tội lỗi.
Có điều khác với linh, hồn và xác không được rỗi ngay lập tức như thế. Sự cứu rỗi dành cho hồn được gọi là sự nên thánh, và đây là một tiến trình hơi bị … dài, cho đến hết đời.
Mà “nên thánh” là răng? – Là hiến tế, là biệt riêng ra, là dành riêng cho Đức Chúa Trời.
Phần Kinh Thánh hôm nay được dành chủ yếu để trình bày cho chúng ta cách làm thế nào để có thể kinh nghiệm chiến thắng và kinh nghiệm nên thánh mỗi ngày trong đời sống. Chân lý dzĩ đại là đây: “Chúa Giê-xu đã chết vì chúng ta, nhưng chúng ta cũng phải cùng chết với Ngài”. Sự chết của Chúa đem lại sự xưng công chính cho chúng ta, còn việc chúng ta đồng chết với Ngài dẫn đến sự nên thánh.
Mà ta chết là răng? – Là chết con người cũ, tức là bản tính tội lỗi mà ta nghiễm nhiên được thừa hưởng từ cụ tổ A-đam. Mà đặc trưng của bản tính này là ích kỷ, coi mình là trung tâm và luôn có xu hướng … khoái … (nghĩ/làm/nói) chuyện bậy bạ, dối trá, gian ác.
Làm răng chết được? – Trước hết, người tin Chúa cần phải nhớ rằng, mình nay đã chết. Chết khi mô? – Khi chịu báp-têm. Mà chết đối với chi? – Đối với tội lỗi và đối với giáo luật Môi-se.
Thế nhưng, nếu chỉ biết chừng nớ, tức chỉ biết về mặt pháp lý hay về phương diện lý thuyết như rứa thì chưa thể … đủ ‘đô’, chưa thể thật chết được đâu nha. Để chết cho … ra chết thì mỗi ngày ta phải “coi mình thật sự chết đối với tội lỗi, và sống là sống cho Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” (6: 11).
“Coi mình như đã chết” tức là tuyên án tử, kể như, xem như bản tính cũ của mình đã chết (thực ra thì ‘hắn’ chưa chết) theo kiểu … Lan ni cô khuyên người yêu cũ của mình là Điệp. Rằng “người con gái tên Lan ngày xưa đã chết”, trong khi cô ấy vẫn đang lù lù một đống đấy thôi. He he
Nhưng mà tại sao ngày nào ta cũng phải “coi mình như đã chết”? - Ấy là vì ‘hắn’ … lì lắm, ‘hắn’ sống dai lắm, ‘hắn’ vật lộn, năn nỉ, ỉ ôi kinh lắm.
Thế cho nên Phao-lô dành gần trọn chương 7 để kể lại cuộc nội chiến từng xảy ra trong chính ông, thoạt nghe qua cứ như đang xem Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông đang triễn khai võ công ‘song thủ hỗ bác’ không bằng! Kinh.
Nếu “người con gái tên Lan ngày xưa đã chết” thì ta phải hành xử ra răng? – Chấm dứt sự cung phụng, chìu chuộng mọi đòi hỏi của ‘nàng’ chớ răng. “Đừng hiến chi thể anh chị em làm đồ dùng bất chính cho tội lỗi nữa, nhưng hãy hiến chính mình anh chị em cho Đức Chúa Trời như một người từ chết sống lại, và dâng chi thể anh chị em làm đồ dùng công chính cho Đức Chúa Trời.” (6: 13)
Hãy tưởng tượng rằng, trước đây bạn có làm việc cho một ông chủ, tên là A-Lìn gì gì đấy, nhưng giờ thì đã sang công ty khác rồi. Giả sử hôm nay, bạn đến văn phòng công ty cũ. Vừa khi nhìn thấy bạn ‘mít-tơ’ A-lìn đã hùng hổ: “Vào đây làm gì? Xuống xưởng làm việc đi!” thì bạn sẽ làm gì?
Chắc chắn là bạn không làm gì hết, ngoại trừ việc rời khỏi văn phòng của A-lìn mà thôi, đúng không? Ấy là vì A-lìn không còn là chủ của bạn. Khi còn là ‘lính’ của ông ấy thì bạn phải làm tất cả những gì ông ấy … lịnh. Nhưng nay, bạn đã làm việc cho một ông chủ mới, nên A-lìn không còn quyền hạn gì trên bạn nữa rồi. Bạn giờ chỉ phải vâng phục người chủ mới mà thôi.
Thử đọc lại 6: 16-18 xem, bạn sẽ thấy có sự giống nhau … tợn luôn đóa. Chủ cũ là tội lỗi, còn chủ mới là ai?
Chuyện rằng, lần ấy các cựu học viên một trường nội trú tổ chức gặp mặt sau nhiều năm tứ tán. Buổi họp mặt được tổ chức tại căn-tin, tại tầng hầm của ngôi trường cũ năm xưa. Đang khi ai nấy tay bắt mặt mừng, chào hỏi rôm rả, ồn như vỡ chợ, thì bổng dưng không ai bảo ai tất cả đều im bặt, nhanh chóng vào lại chỗ ngồi. Vì có ai đó đã phát tín hiệu là có tiếng bước chân ông giám thị đang đến.
Số là ngày xưa, khi còn nội trú, cứ nghe tiếng chân giám thị là trai gái chi cũng … rét. Mà ông ấy nghiêm khắc kinh khủng, biết bao chàng, bao nàng bị ông ấy bắt phạt. Thế là đâm ra … ám ảnh. Cảm giác sợ hãi ấy vẫn còn đeo theo họ cho đến tận giờ khi họ đã là ông nọ, bà kia, có 'số má' trong xã hội cơ đấy.
Ông giám thị giờ đâu còn có quyền sinh, quyền sát như khi xưa trên … đám già cựu học sinh này. Thế cho nên, sau một ‘phút mặc niệm’ vì hiệu ứng ‘phản xạ có điều kiện’, cả bọn lại òa lên sung sướng. Cứ tưởng còn bị buộc ràng dưới uy của ông giám thị nhưng hóa ra chuyện ấy chỉ còn khắc họa trong hai từ nhòa hơi sương của Trịnh: “Diễm Xưa” mà thôi!
Có nỗi ám ảnh ‘giám thị cũ’ nào còn sót lại đối với bạn ngày hôm nay không? 


Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2015

ĐỜI TRAI BẤT TẬN

Dừng Chân Lần Thứ 41
NHÌN LẠI
Sau-lơ, một chuyên gia bắt bớ đã trở thành sứ đồ Phao-lô cho dân ngoại. Cuốn “nhật ký hành trình” của ông không khác chi một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm ngày nay, khi thuật lại những lần đối đầu với đám dân và đám … quan, bị ném đá và bị đắm tàu, trong lúc rao truyền Phúc Âm từ An-ti-ốt cho đến Rô-ma.
Những hành trình truyền giáo của Phao-lô trải qua hàng nghìn dặm và trên mười năm cuộc đời của ông. Tiếp theo sau những chuyến đi đến những vùng như Galati, Macedonia và Achai, Phao-lô bị bắt tại Jerusalem và đối diện với một loạt những cuộc xét xử dưới tay của Phê-lít, Phê-tu và Ạc-ríp-ba. Vì không tìm được sự xét xử công minh tại những phiên xử này nên Phao-lô tuyên bố là sẽ “kêu nài đến Sê-sa” (Công Vụ 25: 11), và thế là … Rô-ma thẳng tiến!
Chuyến đi vừa bộ vừa thủy này đầy nguy hiểm, nhưng cuối cùng ông cũng đến được với phiên tòa … mong ước. Trong thời gian chịu tù ở Rô-ma, Phao-lô không được tự do đi lại nhưng vẫn được gặp gỡ và chuẩn bị những môn đệ của mình cho những chức vụ mà họ sẽ sớm được chuyển giao.
Những thơ tín của Phao-lô tương ứng với những chuyến truyền giáo của ông. Trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, Phao-lô viết sách Galati. Trong hành trình lần hai, ông viết các sách 1 và 2 Tesalonica. Còn trong chuyến thứ 3, ông viết thơ Rô-ma, 1 và 2 Corinhto.
Khi anh chị em đọc các thơ tín trong những tuần tới, hãy trở lại với những chương tương ứng trong sách Công Vụ để hiểu được bối cảnh khi những thơ này được viết ra nhé.
NHÌN LÊN
Hãy tưởng tượng rằng bạn là một người lính trong một tiểu đội đang đóng quân ngay sát ranh giới kẻ thù. Tệ hại hơn nữa là kẻ thù đang tiến nhanh về hướng của bạn.
Đang chờ lệnh rút lui, nhưng bạn lại được nghe chỉ huy chỉ thị: “Hãy tiếp tục bám trụ tại đấy, tiếp tục bắn mạnh vào, càng lâu càng tốt cho đến khi anh … bị giết hoặc bị bắt mới thôi”.
Bạn sẽ cảm thấy thế nào về một mệnh lệnh tương tự như thế? Dứt khoát đấy không dành cho những kẻ nhát gan, mà chỉ cho những ai muốn giáp mặt sự chết và muốn trở nên “những xác chết biết đi” để trút giận lên đầu thù mà thôi.
Răng rứa? - Ấy là vì sự chết không còn thống trị trên những người như thế. Họ là những người không còn biết sợ là gì và chỉ còn biết nhắm vào mục tiêu mà thôi. Họ không còn gì để mất nhưng còn đủ thứ để được. Họ đã thật sự nhận biết được cái giá phải trả để phục vụ.
Túm lại, họ là những đối thủ vô cùng nguy hiểm vì cớ họ đã sẵn sàng … liều mạng, hay gọn hơn là sẵn sàng ‘uýnh’ … chết bỏ luôn. He he.
NHÌN TỚI
Các sứ đồ và các môn đồ trong sách Công Vụ đã phục vụ Chúa của họ cách liều thân hay sẵn sàng tận hiến như thế. “Tự giữ lấy thân” có lẽ là ý tưởng cuối cùng trong tâm trí của họ. Ấy là vì họ luôn toàn tâm toàn ý, sẵn sàng cho Chúa sử dụng.
Chúng ta có thể nhìn thấy thái độ đó trong một số câu trích từ những thơ tín của Phao-lô:
Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong thể xác, tức là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi và phó chính mình Ngài vì tôi.  (Galati 2: 20)
“Vì đối với tôi, sống là Đấng Christ, còn chết là ích lợi”  (Philip 1: 21)
Nếu việc tự đề cao bản thân hay tự quản lấy thân không phải là mục tiêu trong đời của mình, thì bạn phải học biết khai phóng quyền năng của sự liều thân. Và một khi nhận thấy thời giờ, tài năng và tài chính của mình đã 100% sẵn sàng để phục vụ Chúa, thì lúc ấy bạn sẽ có thể đồng thanh cùng Phao-lô: “Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình là quý, miễn sao hoàn tất cuộc đua và chức vụ tôi đã nhận lãnh nơi Chúa là Đức Chúa Jêsus, để công bố Tin Lành về ân điển Đức Chúa Trời” (Công Vụ 20: 24)


Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

CÔNG CHÍNH TÌM ĐÂU?

Roma 4-5 
Trong phần Kinh Thánh hôm nay, để minh họa cho lẽ đạo xưng công bình hay xưng công chính, Phao-lô đã ‘cung thỉnh’ cụ tổ Apraham, người đã “tin Đức Chúa Trời, và nhờ đó ông được kể là công chính” (4: 3).
Mà “xưng công bình hay công chính” (justification) là răng? – Là công khai tuyên bố một phạm nhân đáng tội tử hình là … trắng án, là vô tội, được phóng thích ngay tại tòa!
Hắn đã phạm tội? – Yes. Hắn không bị oan? – Yes. Hắn đáng tội chết? – Yes.
Rứa mà công bình cái chi? Phạm tội rành rành như thế lại tha bổng, còn tuyên là vô tội mà gọi là công bình à?
Vâng, vưỡn công bình đấy ạ.
Người công bình trong ý nghĩa thứ nhất là một người chưa bao giờ làm trái luật, tức là chưa từng phạm tội. Mặt khác, một người – cho dù đã phạm pháp – vẫn có thể được xem là công bình khi người ấy trả xong mọi án phạt hay hình phạt theo quy định, tức là đã thi hành án xong.
Loài người chúng ta được xưng công bình theo nghĩa sau đấy ạ.
Nhưng mà ‘hắn’ đã thi hành án khi mô? – Đúng là ‘hắn’ thì chưa, nhưng đã có một người chịu thay cho ‘hắn’ mọi sự ấy rồi. Người ấy chính là Đức Giê-xu, “về phần xác thì thuộc dòng dõi Đa-vít, còn về phương diện thần thánh thì là Con Đức Chúa Trời quyền năng” (1: 3-4).
Một khi mà ‘hắn’ – phạm nhân – đồng ý nhận Đức Giê-xu làm đại diện pháp lý … trọn gói cho mình, thì ‘hắn’ được tha bổng, được cấp chứng nhận “vô tội” là thế. ‘Hắn’ được xưng công bình là vì sự công bình của Đức Chúa Giê-xu Christ đã được quy gán cho ‘hắn’.
Việc này cũng tương tự như khi người ta cưới nhau hoặc khi hai công ty sáp nhập lại với nhau. Lúc đó, tài sản riêng của họ được nhập chung và sau đó được xem là tài sản chung.
Xưa ‘anh’ A-đam ‘cương’ với Thiên Chúa một phát … là “toàn gia nam nữ đại tiểu đẳng” – trong đó có mỗi một người chúng ta – đều được ‘hưởng’ sự chết cách … miễn phí. Còn Đức Giê-xu Christ, đại diện hợp pháp cho loài người, ‘thuận’ với Thiên Chúa một lần là cả loài người được hưởng sự sống vĩnh phúc, cũng một cách … phờ-ri (free) như rứa.
Khác biệt duy nhất: tội (hay sự bất chính) của A-đam được quy gán cách ‘mặc định’ (default) cho mọi con cháu của ông, còn sự vô tội (hay sự công chính) của Đức Chúa Giê-xu Christ được quy gán cho chúng ta theo kiểu … ‘tự chọn’ (option). Nếu ta tự nguyện chọn “tin đến Đấng Christ”, thì sự công chính của Ngài được quy gán cho ta. Còn nếu ta chọn ‘bỏ qua’ (ignore) thì sự bất chính của A-đam vẫn còn y nguyên trong ta cho đến … muôn đời.
Cụ Apraham xưa, Chúa bảo gì cụ tin nấy là được dán tem chất lượng: “hàng sạch theo tiêu chuẩn của JHV (Giê-hô-va)” ngay. Cũng một thể ấy, ngày nay bất kỳ ai tin theo lời phán Đức Chúa Trời rằng, “ai tin đến Đức Chúa Giê-xu thì được xưng công bình” (3: 26) thì người ấy cũng sẽ nhận được sự xác nhận thiên thượng từ nơi Chúa giống như thế.
Sự xưng công bình không chỉ là được thoát khỏi hình phạt, mà còn là được phục hồi địa vị ưu đãi, tức được nhận lại làm con Thiên Chúa nữa kia đấy. Nói cách hình bóng là từ tử tù thành thiên tử.
Một điểm khác cần lưu lý rằng xưng công bình là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Đó là một món quà mà người nhận không xứng đáng chớ không phải là phần thưởng cho một thành tích hay công trạng nào đó. Nói cách khác, “được xưng công bình” là nhận lấy chớ không phải … giành lấy.
Ngay cả đức tin cũng không phải là một việc thiện mà Đức Chúa Trời phải trả thưởng bằng sự cứu rỗi đâu nha. Đức tin cũng là một tặng phẩm, một món quà hay là một sự ban cho của Đức Chúa Trời. Chúa ban đức tin làm phương tiện để chúng ta nhận được sự cứu rỗi mà thôi.
Và từ cái thời … tám hoánh thì cụ Apraham nhà ta đã biết sử dụng phương tiện này để được xưng công bình rồi đấy. “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và nhờ đó ông được kể là công chính” (4: 3). Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời không đưa ra một phương cách cứu rỗi nào mới cả. Ngài luôn “xưng công bình” theo cùng một cách. Cách đó có tên gọi là ĐỨC TIN.
Apraham đã được xưng công bình nhờ vào việc tin Đức Chúa Trời, thế mần chi mà ông lại cần phải chịu cắt bì nữa? (Cắt bì hay cắt bao quy đầu là phẫu thuật cắt bỏ phần da bọc phía đầu của dương vật, một nghi thức bắt buộc đối với người Do Thái).
Chịu cắt bì không phải là phương cách để được xưng công bình. Việc Apraham chịu (hay chính xác hơn là tự …) cắt bao quy đầu chỉ là “ấn chứng của sự công chính mà ông đã có được bởi đức tin từ lúc ông chưa chịu cắt bì” mà thôi (4: 11). Điều này cũng tương tự như thánh lễ báp-têm nước đối với một người đã thật lòng tin nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa vậy. Người ấy đã được sạch tội, được xưng là vô tội (công chính) ngay thời điểm người thật lòng tin Chúa Giê-xu, tức là TRƯỚC KHI chịu báp-têm trong nước.
Cho dù một người được xưng công bình là bởi đức tin, nhưng sự xưng công bình PHẢI và SẼ luôn sinh ra việc làm (việc lành) phù hợp với bản tính của con người mới đã được dựng nên. Nếu từ nơi người đó mà không thấy có việc lành tương ứng nào ráo trọi, thì chéc cú là đã chẳng có đức tin thật hay xưng công bình gì cả. Có chăng, chỉ là … đứt bóng mà thôi. He he.
Liên quan đến ‘chiện’ xưng công bình này thì còn ‘tót’ (talk) dài dài nhé. Hôm nay, chỉ cố đến đây thôi. Bởi cớ, để chuyển sang được ngôn ngữ ‘bình dân học vụ’ với xì-tai tuổi teen của thế kỷ 21, một đề tài ‘cổ kính’ như ”xưng công nghĩa” thì đúng là phải tiêu tốn quá nhiều thời giờ và năng lượng. Rứa đo.