Thứ Năm, 5 tháng 11, 2015

LẦN ĐẦU XUẤT CHINH

Công Vụ 13-15 
Ba chương Kinh Thánh hôm nay dành phần lớn thời lượng tường thuật hành trình truyền giáo hải ngoại lần thứ nhất do Phao-lô làm trưởng đoàn. Từ trước đến lúc ấy, việc truyền giáo hải ngoại của con dân Chúa, tôi tớ Chúa toàn là BỊ đi không à (8: 4; 11: 19). Thế cho nên, việc Banaba và Sau-lơ, tức Phao-lô, được hội thánh An-ti-ốt sai phái ra đi theo lịnh Chúa, được gọi lần đầu xuất quân là rứa đo.
Hội Thánh An-ti-ốt cử ai đi truyền giáo ấy nhỉ? – Hai vị lãnh đạo ‘chiến’ nhất của họ. Chính Banaba và Sau-lơ là những lãnh đạo đầu tiên của An-ti-ốt, đúng không.
Đấy, đã CHO là phải cho “hàng xịn” như thế, GIEO là phải gieo những hạt giống thuộc hàng tốp 5 như thế (13: 1), chớ không phải top ten đâu nha! Chả trách là đội hình của 2 bác í đi đến đâu là chiến thắng oanh liệt đến đấy. Gieo gì gặt nấy mà lị.
Nếu Hội Thánh ngày nay mà dám theo gương An-ti-ốt xưa, luôn cử “đội hình một” ra đi, thay vì “đội hình hai” hay thậm chí “đội hình … ngoại hạng”, (tức không xếp được hạng nào cả) thì chắc là những cánh đồng truyền giáo đầy tiềm năng đã không phải chịu cảnh lúa chín rục khắp nơi.
Vâng, chiến thắng thì đúng là như chẻ tre, nhưng song hành với chiến thắng đó là sự chống đối đủ mọi hình thức, và thậm chí là đổ máu, mất mạng trong suốt cuộc hành trình (14: 19-20). Truyền giáo hải ngoại là một cuộc chiến khốc liệt, bốn bề thọ địch. Cho nên, nếu ai đó cho rằng chỉ cần mấy anh chị sanh dziên Thần học hàm thụ là … ‘dư sức qua cầu’ thì đúng là hơi bị lạc quan tếu rồi đấy. Mà lạc quan tếu ở chiến trường thì bao giờ cũng trả giá đắt lắm đấy nhá.
Cứ nhìn cái cảnh anh John trẻ tuổi sớm lìa bỏ cuộc chơi (13: 13), thì đủ biết tình hình ‘keng thẻng’ thế nào. Được tháp tùng hai đại sư có số má cỡ đấy mà còn … mới đầu đường đã đứt dép thì huống chi chung đoàn với hạng vô danh. Đấy, bảo trọng, bảo trọng nha các cha, các anh!
Một điểm khác cần lưu ý, liên quan đến vai trò của Hội Thánh địa phương trong việc sai phái giáo sĩ ra đi. Banaba và Sau-lơ được Hội Thánh An-ti-ốt biệt riêng ra để thực hiện công vụ mà Chúa ĐÃ kêu gọi họ (13: 2). Điều này có nghĩa là Hội Thánh chỉ XÁC NHẬN những gì mà Chúa đã tỏ bày trước đó cho Banaba và Sau-lơ mà thôi.
Cho nên, nếu có ai đó nói tiên tri (mà chính xác thì phải là sử dụng ân tứ lời tri thức) cho bạn về một điều gì đấy – đặc biệt khi điều ấy liên quan đến chức vụ hầu việc Chúa – thì những gì người đó ‘phán’ chỉ xác nhận những gì mà bạn đã cảm nhận trong lòng mình mà thôi (dù rõ ràng hay còn tù mù). Trường hợp, có ai đó bảo rằng Chúa chọn bạn làm việc này, hay sai bạn đến nơi kia mà trong lòng bạn không hề có chút ý tưởng hay cảm nhận gì đến chuyện đấy thì cách khôn ngoan nhất là … QUÊN ‘chúng’ đi. Thế nhá.
Trong chương 15, chúng ta lại một lần nữa học được cách giải quyết những bất đồng trong Hội Thánh. Lần trước là chuyện thịt (6: 1), còn lần này là chuyện … da (thì bì đích thực là da mà lị). He he.
Mấy bác Cơ-đốc nhân gốc Do Thái thì dứt khoát rằng, dân ngoại bang tin thờ Chúa Giê-xu thì cũng phải tuân thủ đầy đủ các thủ tục theo luật định như một người Do Thái chính gốc. Còn nếu không ấy à: chưa được cứu đâu cưng (15: 1). Trong khi đó, Phao-lô và Banaba thì ‘bênh’ Cơ-đốc nhân gốc ngoại bang ra mặt luôn. Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, và rứa là cãi nhau tưng bừng luôn.
Giải pháp: Triệu tập hội nghị toàn thể. Tất cả đều được quyền phát biểu và phản biện. Rất chi là dân chủ. Kết cuộc, hội nghị đi đến quyết định cuối cùng và ra tuyên bố chung:
“Vì Đức Thánh Linh và chúng tôi đã đồng ý rằng chẳng nên chất thêm gánh nặng cho anh em, ngoại trừ những điều cần yếu nầy: Phải kiêng của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngạt, và chớ gian dâm”  (15: 28-29)
Ai nấy đều vui vẽ, thỏa lòng, không có chuyện “bên thua cuộc” hậm hực, chống đối hay bất tín nhiệm gì cả. Hãy lưu ý cụm từ “Đức Thánh Linh và chúng tôi đã đồng ý”. Điều này nói lên rằng, những người tham dự đã thật sự khiêm nhường, cởi mở, sẵn sàng xem xét và chấp nhận ý kiến của người khác. Họ có bất đồng về quan điểm nhưng không bất hòa. Họ thật sự biết lắng nghe, biết chấp nhận lẽ phải chớ không phải khăng khăng cho rằng, ý kiến của mình hay quan điểm của mình là tuyệt đối đúng. Vì không có sự cố chấp nên họ dễ dàng nghe được tiếng phán của Đức Thánh Linh.
Quyết định cuối cùng của Hội Nghị Jerusalem vẫn còn nguyên giá trị cho đời nay và cho muôn đời sau đối với những Cơ-đốc nhân không phải là người Do Thái. Theo đó, một người tin thờ Chúa Giê-xu chỉ kiêng đúng bốn món: của cúng thần tượng, huyết hay tiết, thịt thú vật chết ngạt và gian dâm, tức sinh hoạt tình dục với … hàng ‘không chính chủ’. Của cúng, tiết hay huyết, và gian dâm thì rõ như ban ngày, không có gì bàn cãi cả. Song thế nào là “thú vật chết ngạt” thì đây đó còn có chút lăn tăn.
Người thì bảo: chết ngạt là chết tự nhiên, kiểu chết dịch, chết bệnh; kẻ lại cho rằng, chết ngạt là chết … uất ức, tức là chưa được cắt tiết, kiểu bị vặn cổ hay bị dội hoặc dìm nước sôi. Vì mỗi người hiểu mỗi cách nên người thì ăn tất tần tật, kẻ lại kiêng một số món khoái khẩu, chẳng hạn, trứng vịt lộn hay món … cút chiên bơ.
Vì vẫn còn cãi nhau chí chóe, nên “thú vật chết ngạt” nên được xếp vào dạng ‘đất đang tranh chấp’, đúng không. Mà đã là ‘đất đang tranh chấp’ thì người khôn ngoan sẽ không bao giờ can dự vào. Rứa thôi.
Tuy tuyên bố chung Jerusalem là cấm (ăn hoặc uống) huyết cách rõ ràng như thế, nhưng hiện vẫn có nhiều sư (chớ không phải dân) cố chày chối rằng thì là … ăn được. Đúng là mấy sư … khát máu! He he.
Thèm chi mà mụ mị rứa mấy cha. Thế mấy cha, mấy anh không biết rằng, máu (hay huyết, tiết gì cũng rứa) bị cấm ăn (uống) từ thời xa lắc xa lơ, từ thuở Nô-ê vừa ra khỏi tàu à (Sáng thế ký 9)?
Vâng, tiết hay huyết có thể ăn được, có thể uống được, nhưng nó KHÔNG PHẢI LÀ THỨ DÙNG ĐỂ ĂN, ĐỂ UỐNG. Điều này cũng giống như có nhiều loại thú vật, súc vật, côn trùng, … con người có thể ăn nhưng chúng lại thuộc vào nhóm mà Đức Chúa Trời không chỉ định làm thức ăn cho loài người. Rứa đo.
Đầu chương 15, người ta bất đồng với nhau nhưng không đến chỗ bất hòa. Thế nhưng, cuối chương 15 thì kết cuộc lại không được như thế. Banaba và Phao-lô đã “you sugar you, I sugar I”, đường ai nấy đi, vì anh John trẻ đào ngũ khi xưa. Kinh Thánh không đưa ra nhận định gì về việc ai đúng ai sai trong chuyện này cả. Chỉ biết rằng, mãi về sau, lúc sắp qua đời, Phao-lô mới tiết lộ rằng, “Mác (tức John) rất hữu ích cho chức vụ của” ông mà thôi (2 Timothe 4: 11).
Thế mới hay, không phải đã là lãnh đạo thì lúc nào cũng đúng đâu nha. Điều quan trọng là người ấy có biết nhận ra sai lầm của mình và sửa sai hay không. Nhớ nha.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét