Thánh Thi 13-18
Giống như trong thời Đa-vít, đức tin của người tin
Chúa hôm nay cũng luôn đối diện với những thách thức. Thách thức từ chính tấm
lòng lo sợ của mình (TT 13) và từ những con người phủ nhận sự hiện hữu của Đức
Chúa Trời cách dại dột (TT 14).
Đâu là giải pháp cho vấn nạn này?
Bước đi trong mối thông công với Đức Chúa Trời (TT
15), nương cậy nơi những lời hứa của Chúa (TT 16) và kết nối với nguồn sức lực
không hề cạn tắt của Ngài (TT 17-18).
Khi đọc Thánh Thi hay Thi Thiên, chúng ta đừng bao
giờ quên rằng sách này thuộc thể loại thơ ca. Mà ngôn ngữ của thơ ca không
giống như văn kể chuyện. Từ ngữ, hình ảnh, … mà nhà thơ sử dụng thấy dzậy mà
chưa chắc phải dzậy đâu nha. Ta không thể hiểu tất tần tật theo nghĩa đen …
thùi lùi đâu nhé.
Thế cho nên, đọc thơ nói chung và sách Thánh thi
này nói riêng thì không có gì khó khăn cả. Nhưng để hiểu đúng, hiểu … đủ, để
thấm được, để cảm được … thơ thì không hề … đang giỡn được. He he.
Chẳng hạn, trong 13: 3 Đa-vít ngâm ri nè: “Xin cho mắt con được sáng, kẻo con phải ngủ trong
sự chết chăng!” Thoạt nghe, cứ như anh í đang bị … đục thủy tinh
thể hay là một biến chứng về mắt rất chi là nghiêm trọng, mà nếu Chúa không ra
tay ngay là ảnh … ‘đai’ liền chớ chẳng chơi.
Thế nhưng ở đây không có bịnh tật gì ráo trọi.
Đa-vít bị kẻ thù … ‘đì’ tới bến. Anh í kêu Chúa tha thiết luôn, nhưng chẳng
thấy Chúa động tịnh chi cả. Đang chờ mà, cảm thấy lâu, thấy chậm là chuyện
thường. Khi nhận thấy việc gào thảm thiết rằng, “răng Chúa quên con và tránh
mặt con cho đến chừng nào” coi bộ không ép-phê, Đa-vít bèn chuyển tông sang
“xin Chúa tỏ cho con biết điều Chúa muốn dạy con qua chuyện này”. Rứa thôi.
‘Mắt’ ở đây là ‘con mắt lòng’, như Phao-lô về sau
có nói trong Ê-phê-sô 1: 18, chớ không phải mắt thịt hoặc bị biến chửng tiểu
đường hay bị giằm xóc vào đâu nha.
Thế thì 13: 3 nên được hiểu thế này: Chúa ơi đừng
để con phải chết mà không hiểu được … vì sao con chết nha Chúa. Và đây cũng là
một cách nói khác để giục Chúa trả lời, rứa thôi. He he.
Một điểm khác cần lưu ý trong xì-tai cầu nguyện của
Đa-vít là luôn có những lời công bố đầy tin quyết về kết cuộc tốt đẹp của mình.
Dù trước đó, ngôn từ của ông có thể nãn, có thể buồn … chảy nước luôn, nhưng
kiểu gì thì cuối cùng Đa-vít vẫn thốt ra được những lời rất tích cực. Ấy chẳng
phải là Đa-vít tự an ủi hay tự động viên mình theo kiểu ‘hết cơn bĩ cực, tới
hồi thới lai’ hay ‘ngày mai trời lại sáng’, mà là kết quả của thời giờ riêng
tư, đổ lòng mình ra trong sự hiện của Chúa.
Nếu chúng ta đến với Chúa, mang cả những gánh nặng,
nan đề, buồn vui của mình trải ra trước mặt Ngài và rồi tập chú nơi chính Chúa,
nơi những thuộc tính của Ngài thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ kết thúc lời cầu
nguyện của mình với sự tin quyết tương tự như thế.
Một điểm khác nữa, cần ghi nhớ là cách Đa-vít luôn
cầu Chúa xử thẳng tay đối với kẻ thù. Đa-vít sống dưới thời Luật Pháp Môi-se,
là thời kỳ “mắt đền mắt, răng đền răng” nên lời cầu nguyện như thế là không có
gì … trái luật! Còn chúng ta ngày nay thì được dạy là “Hãy thương yêu
kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con để các con được trở nên con
của Cha các con ở trên trời, vì Ngài khiến mặt trời mọc lên chiếu sáng kẻ gian
ác lẫn người lương thiện, ban mưa cho người công chính lẫn người bất chính.” (Mathiơ
5: 44-45). Thế cho nên, Chúa đòi hỏi tín hữu thời nay cao hơn rất nhiều so với
thời xưa chớ không phải thấp hơn như nhiều người từng hiểu sai đâu nha.
Thánh Thi 14 điểm mặt những người NGU chính hiệu.
Đây không phải là mấy anh đoảng cỡ Mit-tơ Bin hay hậu đậu như Nô-bi-ta hoặc ở
xứ ta thì có … ‘vợ thằng Đậu’. Ngu được thiên đàng cấp chứng chỉ ở đây không
phải là những người ít học, hay … ‘thiếu muối i-ốt’ mà là những người phủ nhấn
sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, tại sao ‘chúng’ từ chối tin nhận
Chúa? – Đơn giản là kiêu. Đơn giản là không muốn thừa nhận tội lỗi của mình
trước một Đức Chúa Trời thánh khiết.
Nếu ‘chúng’ thừa nhận rằng, Đức Chúa Trời là Đấng
Tạo Hóa, là Cha của muôn loài, trong đó có ‘chúng’ thì sẽ ‘lòi’ ra cái tội … bất
hiếu của ‘chúng’ ngay. Thế là, cố sống cố chết mà chối bay chối biến rằng thì
là … nỏ có Chúa. Thế nhưng, dù có thừa nhận hay không thừa nhận thì Đức Chúa
Trời vẫn hiện hữu, và chính Ngài sẽ xét xử mọi người trên đất tùy theo những
việc mà họ đã làm “khi còn trong xác thịt”. Ngày đó chắc chắn đến.
Ác nỗi có ai ngu mà biết được mình ngu đâu, nên cần
lắm thay một lời cầu thay của con dân Đức Chúa Trời cho những kẻ tưởng mình
khôn nhưng thực sự là quá ngu. Ngu vì không nhận biết Đức Chúa Trời và không
thờ phượng Con Ngài là Đức Chúa Giê-xu.
Cuối cùng, hãy đọc lại một lần nữa 5 câu Kinh Thánh
trong chương 15 và đặt mình vào đấy để tự đánh giá xem: mình đã đạt chuẩn để ở
trong sự hiện diện của Chúa (được nói cách đầy hình tượng ở đây là đền tạm, là
núi thánh) chưa?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét