Ê-xơ-ra
9-10
Bốn tháng sau
ngày hồi hương, Ê-xơ-ra được biết một sự thật phủ phàng: dân Chúa đồng hóa với
thế gian hơi bị mạnh. Rõ ràng nhất là trong lĩnh vực hôn nhân. Và nâm-bờ hoanh
trong chuyện này là các quan chức và các nhà lãnh đạo. Thật không hỗ danh là
lãnh đạo. Phạm tội cũng đi đầu. Bái phục, bái phục.
Thật ra, hôn
nhân với dân ngoại chỉ là điển hình thôi, chớ còn tình trạng ô nhiễm thuộc linh
thật sự là ri nè: “Dân Y-sơ-ra-ên, kể cả những thầy tế lễ và người
Lê-vi đều không sống tách biệt với các dân tộc trong xứ, nhưng bắt chước theo
những tập tục ghê tởm của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân
Giê-bu-sít, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ai Cập, và dân A-mô-rít.” (9:
1)
Một khi mà dân
Chúa kết hôn với người thờ lạy hình tượng, mà chính xác là thờ ma lạy quỷ, thì
việc thỏa hiệp trong mọi lĩnh vực khác là điều chắc chắn. Đó chính là lý do mà
từ ban đầu Đức Chúa Trời đã nghiêm cấm dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Ngài, cưới
gả với dân ngoại.
Dân Y-sơ-ra-ên
bị lưu đày cũng vì tội thờ lạy hình tượng, nay được trở về cố hương họ lại tiếp
tục lập lại chính sai phạm của cha ông mình. Sự cám dỗ “mang ách chung với kẻ
chẳng tin” luôn chào đón con dân Chúa suốt mọi thời đại. Không ít con cái của
những “thầy tế lễ” đã cưới gả với dòng dõi bất khiết xung quanh “khiến cho dòng
dõi thánh (lẽ ra phải có từ chúng) đã bị pha trộn”.
Nhiều anh trai,
chị gái rất tự tin tuyên bố rằng, mình chắc chắn sẽ đem người yêu chưa tin Chúa
trở lại đầu phục Chúa. Khốn nỗi, có đứa nào đang yêu, (mà trong những trường
hợp này phải là si mới đúng), lại đủ can đảm để nhìn nhận rằng, mình đang bị
mù. He he. Thế cho nên, từ xưa đến nay, trong những cuộc hôn nhân kiểu này thì
con Đời luôn thắng con Trời. Chỉ thấy đứa không tin kính Chúa kéo đứa tin kính
ngã nhào chớ hiếm khi thấy chiều ngược lại.
Trường hợp khá
lắm là ri: chìu theo người bạn đời, tức là theo đạo chồng hoặc theo đạo vợ, chớ
lòng thì không hề có Chúa. Hôn nhân kiểu này mà con cái nó không phản Chúa,
không chống Chúa, không chối Chúa mới là lạ.
Nhiều bạn trẻ
chỉ nghĩ đến việc “con vợ mình đẹp, thằng chồng mình xinh” chớ có anh chị nào
có suy nghĩ đủ dài đến ‘hậu quả’ của chuyện tình “so le đức tin” như thế này
đâu. Và thế rồi, dù biết đó là điều cấm nhưng vẫn cứ đưa đầu vào mang ách; Và
các bậc cha mẹ, dù biết đó là chống nghịch Chúa, nhưng vì sĩ diện, vì … đủ thứ
chuyện nên cũng tìm mọi cách hợp thức hóa … cho rồi.
Quan điểm của
Chúa trong vấn đề này là rất rõ ràng: “TUYỆT TÌNH”
Từ người đầu
tiên là Apraham (Sáng thế ký 21: 10-21) cho đến dân Do Thái hồi hương thời
Ê-xơ-ra cho đến chúng ta, những người tin thờ Chúa ngày hôm nay, mạng lịnh chỉ
có một: ĐOẠN TUYỆT. Nhớ đấy.
Chỉ có một ngoại
lệ duy nhất: chỉ người vợ nào quyết định dứt khoát với dân tộc mình, từ bỏ hoàn
toàn thần tượng của mình, rồi nhận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên làm
Chúa của mình thì người ấy sẽ được nhận vào cộng đồng dân Chúa như Ru-tơ đã
từng. Đó chính là lý do mà kết cuộc chỉ có tổng cộng 114 ‘bà mẹ Samari … anh
hùng, thà chết chớ không chịu hy sinh’, bị đuổi khỏi cộng đồng dân Do Thái mà
thôi.
Nguyên tắc này
cũng được lập lại trong thời Tân Ước: “Nếu anh em nào có vợ không tin
Chúa, nhưng người nầy bằng lòng chung sống với mình, thì người ấy không được ly
dị vợ. Nếu một phụ nữ có chồng không tin Chúa, nhưng người nầy bằng lòng
chung sống với mình, thì người ấy không được ly dị chồng. Vì người chồng
không tin Chúa sẽ nhờ vợ được thánh hóa; còn người vợ không tin Chúa sẽ nhờ
chồng được thánh hóa. Nếu không, thì con cái anh em đã bị ô uế, nhưng hiện nay
chúng đều được thánh hóa cả. Nếu người không tin Chúa muốn phân rẽ thì cứ
để người ấy phân rẽ. Trong trường hợp nầy, anh em hay chị em không bị ràng buộc
gì. Vì Đức Chúa Trời đã gọi chúng ta sống trong hòa bình. Hỡi người làm
vợ, biết đâu chị em lại cứu được chồng mình? Hỡi người làm chồng, biết đâu anh
em lại cứu được vợ mình?” (1 Corinhto 7: 12-16).
Một bài học khác
mà ta có thể nhận được từ phần Kinh Thánh hôm nay là gương cầu thay của
Ê-xơ-ra. Trong khi những người lãnh đạo và những thầy tế lễ khác thì rất tích
cực làm gương … xấu cho toàn hội chúng, thì Ê-xơ-ra lại hạ mình ăn năn trước
mặt Chúa về tội lỗi của họ và của toàn dân sự. Dù không cưới vợ ngoại hay theo
đòi các thói tục của dân bản địa, nhưng Ê-xơ-ra đã đồng hóa chính mình trong
tội lỗi mà dân sự đã phạm trước mặt Chúa. Ông đã nhận về phần mình tội lỗi của
dân sự.
Việc ông trải
lòng mình ăn năn tội lỗi cách chân thành trước mặt Chúa và cầu thay cho dân sự
đã ảnh hưởng cách mạnh mẽ đến hội chúng. Hội chúng đã theo gương ông hạ lòng ăn
năn trước Chúa.
Ăn năn thật bao
giờ cũng bao gồm việc xưng nhận tội và thực hiện hành động tương ứng. Người Do
Thái đã xưng tội và rồi quyết định ly dị với nhưng người vợ nào không chịu đoạn
tuyệt với thần tượng để trở thành dân Chúa.
Một người lãnh
đạo biết đau đớn vì tội lỗi của dân sự Chúa, một người lãnh đạo dám đồng hóa
mình với dân sự khi bước vào sự cầu thay, một người lãnh đạo dám sống theo như
những gì mình dạy dỗ từ nơi Lời của Đức Chúa Trời là loại lãnh đạo mà hội thánh
Chúa khắp mọi nơi đang trông đợi.
Nguyện Đức Chúa
Trời dấy lên những Ê-xơ-ra như thế cho hội thánh Ngài trên xứ sở của chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét