Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

THÊM GIẬN CON TRỜI

Giăng 9-12 
Tiếp tục chức vụ của mình tại Jerusalem sau kỳ lễ Lều Tạm, Chúa Giê-xu trước tiên ban sự chữa lành về phương diện thuộc thể cho một người mù, rồi sau đó mở mắt thuộc linh cho người ấy. Điều này dẫn đến chỗ tranh luận với người Do Thái về vấn đề “người mù dẫn người mù” và tầm quan trọng của Người Chăn Bầy, người vừa dẫn dắt vừa bảo vệ chiên.
Phép lạ thứ bảy xảy ra tại Bê-tha-ni, nơi Chúa Giê-xu khiến La-xa-rơ sống lại từ kẻ chết. Dù cả làng Bê-tha-ny bị rúng động bởi sự kiện này và tin nhận Chúa, nhưng từ lúc đó Chúa Giê-xu đã trở nên đối tượng bị truy sát (11: 53). Mỗi bước của Ngài đang dần đến gần thập tự hơn.
Câu hỏi của các môn đồ ở đầu chương 9 thuộc loại cổ điển “biết rồi khổ lắm … hỏi mãi”. Còn câu trả lời của Chúa Giê-xu thì thuộc típ: “hỏi gì, đáp nấy”, mà cụ thể là “không phải tại con, cũng chẳng bởi tại cha”. Ý của Chúa Giê-xu là: ta đến không phải để giải đáp thắc mắc mà là để giải quyết bế tắc. Tại chỗ này, chúng ta có thể thấy rằng không phải lúc nào bệnh tật cũng là hậu quả của tội lỗi đâu nha.
Cũng tại đây, một lần nữa chúng ta có thể thấy được sự cứng cõi, vô tín của lòng người là dường nào. Người vốn bị mù bẩm sinh, nay được sáng đang sờ sờ ra đấy, mà chúng cứ gân cổ lên chối bay chối biến. Rõ đúng là “có mắt nhưng mù” (9: 39).
Biết bao nhiêu người ngày nay “có mắt nhưng mù” đang ở quanh ta đấy thôi. Vì mù nên họ không thể nhìn thấy những phép lạ Chúa làm sờ sờ ra đấy. Đã không thể thấy mà lúc nào mồm miệng cũng cũng kêu réo chí chóe, rằng Chúa có giỏi thì làm phép lạ thế này, thế kia đi rồi đây sẽ tin. Tội nghiệp thay những anh trai chị gái có mắt nhưng mù.
Trong chương 10, Chúa Giê-xu tiếp tục giới thiệu chính mình là một Người Chăn – Người Chăn nhân lành. Đối với người Do Thái thì hình ảnh Người Chăn nhắc nhớ họ về Đấng Mê-sia, về vị Vua mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ từ ngàn xưa. Nói cách khác, khi bảo: “Ta là người chăn nhân lành, …” (10: 11), Chúa Giê-xu đang muốn nói rằng, Ngài chính là Đấng đó.
Cũng trong chương 10, lúc Chúa bảo rằng Ngài là cửa của chiên, lúc lại là người chăn chiên (10: 7, 11). Không có gì nhầm lẫn đâu nhá.
Thời ấy, chuồng chiên (ngoài đồng) được quây lại bằng một vòng tường đá, với một cổng vào khá hẹp. Sau khi chiên đã vào hết bên trong thì người chăn sẽ nằm ngang cổng, tức là lấy thân mình làm cổng hay cửa của chuồng chiên! Và như thế là trong ra ngoài vô gì thì người chăn cũng biết. Vừa là người chăn, vừa là cổng chiên là rứa đó.
Thế cho nên, bất kỳ ai đến với chúng ta (chiên) mà không qua Giê-xu (cổng), tức là không nhìn nhận Ngài, không đầu phục Ngài, thì điều là trộm cả đấy. Cảnh giác nha bà con.
Cũng tại chương này, có một câu nói của Chúa Giê-xu đã khiến Ngài bị ném đá tới tấp luôn. Đó là câu “Ta với Cha là một” (10: 30). Chúa Giê-xu không nói câu này trong tiếng Việt hay tiếng Anh mà là trong tiếng Do Thái. Vì Chúa nói tiếng Do Thái với người Do Thái nên không thể có chuyện họ hiểu lầm, đúng không? Họ hiểu câu đó là ri nè: “ông là con người mà tự cho mình là Đức Chúa Trời” (10: 33).
Sờ sờ ra như thế, vậy mà có mấy ‘học dả’ Tân Chứng nhân Giê-hô-va mới đây còn đanh đá rằng, “nếu Giê-xu là Đức Chúa Trời thì tại sao Ngài không tuyên bố thẳng một lời cho xong”.
Thì tuyên bố rồi đấy thôi. Và người Do Thái cũng đã lên án rằng Giê-xu lộng ngôn, phạm thượng đó thôi. Rõ rành rành ra như thế mà sao mấy ‘học dả’ kia lại không thấy nhỉ. Thì ra, mấy ảnh cũng rơi vào cảnh có mắt nhưng … mù.
Vì mù nên đối với những người này thì tất cả đều bị … đui hết, chỉ có những gì mấy ảnh thấy mới là … chân lý, mới là mặc khải, mới là nâm-bờ hoanh. Vì mù nên trong khi người khác tưng bừng tin nhận Chúa sau sự kiện La-xa-rơ sống lại thì những người người này lại chạy đến với những lãnh đạo tôn giáo để hiệp tác loại bỏ Chúa.
Trong chương 12, thì câu chuyện Chúa được xức dầu rất đáng được lưu tâm. Mary, người làng Bê-tha-ni là một phụ nữ mà mỗi Cơ-đốc nhân nên noi gương. Cô được đề cập đến 3 lần khác nhau trong các sách Phúc Âm, và lần nào được mô tả cô cũng đều ngồi dưới chân Chúa Giê-xu cả (Luca 10: 39; Giăng 11: 32; 12: 3).
Trong vị thế đó, Mary thờ phượng Chúa, nhận lãnh sự dạy dỗ của Chúa và kinh nghiệm sự yên ủi của Ngài giữa lúc đau buồn.
Hẳn nhiên, bạn và tôi không thể ngồi vào vị trí của Mary theo nghĩa đen hoàn toàn, nhưng thái độ của cô ấy thì ta hoàn toàn có thể ‘copy’. Đó là vị thế đầu phục và lệ thuộc.
Mary cũng đã tình nguyện dâng hiến điều quý giá nhất mà mình có trong hành động tôn kính dành cho Chúa Giê-xu. Lọ nước hoa quý ấy có giá khoảng chừng 1 năm tiền công, tức là vào khoảng 10-12 nghìn ringgit Malaysia. Đó có thể là của hồi môn dành cho ngày cưới của cô ấy. Và cô đã làm gì? – Đổ cả lên chân Chúa trong hành động dâng hiến của tình yêu.
Có thể bạn tự hỏi: Điều gì tôi có thể dâng cho Giê-xu như là một hành động thờ phượng? Điều quý nhất mà bạn đang sở hữu là … chính con người của bạn. Và nếu bạn chưa từng làm như thế trước đây thì hãy đọc Rô-ma 12: 1, rồi sau đó hãy làm theo như thế: dâng chính mình cho Chúa như một sinh tế sống ngay hôm nay. Đó là một hành động thờ phượng mà Chúa không bao giờ từ chối.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét