Giăng 9-12
Tiếp tục chức vụ của mình
tại Jerusalem sau kỳ lễ Lều Tạm, Chúa Giê-xu trước tiên ban sự chữa lành về
phương diện thuộc thể cho một người mù, rồi sau đó mở mắt thuộc linh cho người
ấy. Điều này dẫn đến chỗ tranh luận với người Do Thái về vấn đề “người mù dẫn
người mù” và tầm quan trọng của Người Chăn Bầy, người vừa dẫn dắt vừa bảo vệ
chiên.
Phép lạ thứ bảy xảy ra tại
Bê-tha-ni, nơi Chúa Giê-xu khiến La-xa-rơ sống lại từ kẻ chết. Dù cả làng
Bê-tha-ny bị rúng động bởi sự kiện này và tin nhận Chúa, nhưng từ lúc đó Chúa
Giê-xu đã trở nên đối tượng bị truy sát (11: 53). Mỗi bước của Ngài đang dần
đến gần thập tự hơn.
Câu hỏi của các môn đồ ở
đầu chương 9 thuộc loại cổ điển “biết rồi khổ lắm … hỏi mãi”. Còn câu trả lời
của Chúa Giê-xu thì thuộc típ: “hỏi gì, đáp nấy”, mà cụ thể là “không phải tại
con, cũng chẳng bởi tại cha”. Ý của Chúa Giê-xu là: ta đến không phải để giải
đáp thắc mắc mà là để giải quyết bế tắc. Tại chỗ này, chúng ta có thể thấy rằng
không phải lúc nào bệnh tật cũng là hậu quả của tội lỗi đâu nha.
Cũng tại đây, một lần nữa
chúng ta có thể thấy được sự cứng cõi, vô tín của lòng người là dường nào.
Người vốn bị mù bẩm sinh, nay được sáng đang sờ sờ ra đấy, mà chúng cứ gân cổ
lên chối bay chối biến. Rõ đúng là “có mắt nhưng mù” (9: 39).
Biết bao nhiêu người ngày
nay “có mắt nhưng mù” đang ở quanh ta đấy thôi. Vì mù nên họ không thể nhìn
thấy những phép lạ Chúa làm sờ sờ ra đấy. Đã không thể thấy mà lúc nào mồm
miệng cũng cũng kêu réo chí chóe, rằng Chúa có giỏi thì làm phép lạ thế này,
thế kia đi rồi đây sẽ tin. Tội nghiệp thay những anh trai chị gái có mắt nhưng
mù.
Trong chương 10, Chúa
Giê-xu tiếp tục giới thiệu chính mình là một Người Chăn – Người Chăn nhân lành.
Đối với người Do Thái thì hình ảnh Người Chăn nhắc nhớ họ về Đấng Mê-sia, về vị
Vua mà Đức Chúa Trời hứa ban cho họ từ ngàn xưa. Nói cách khác, khi bảo: “Ta là người chăn nhân lành, …” (10: 11),
Chúa Giê-xu đang muốn nói rằng, Ngài chính là Đấng đó.
Cũng trong chương 10, lúc
Chúa bảo rằng Ngài là cửa của chiên, lúc lại là người chăn chiên (10: 7, 11).
Không có gì nhầm lẫn đâu nhá.
Thời ấy, chuồng chiên
(ngoài đồng) được quây lại bằng một vòng tường đá, với một cổng vào khá hẹp.
Sau khi chiên đã vào hết bên trong thì người chăn sẽ nằm ngang cổng, tức là lấy
thân mình làm cổng hay cửa của chuồng chiên! Và như thế là trong ra ngoài vô gì
thì người chăn cũng biết. Vừa là người chăn, vừa là cổng chiên là rứa đó.
Thế cho nên, bất kỳ ai đến
với chúng ta (chiên) mà không qua Giê-xu (cổng), tức là không nhìn nhận Ngài,
không đầu phục Ngài, thì điều là trộm cả đấy. Cảnh giác nha bà con.
Cũng tại chương này, có một
câu nói của Chúa Giê-xu đã khiến Ngài bị ném đá tới tấp luôn. Đó là câu “Ta với Cha là một” (10: 30). Chúa Giê-xu
không nói câu này trong tiếng Việt hay tiếng Anh mà là trong tiếng Do Thái. Vì
Chúa nói tiếng Do Thái với người Do Thái nên không thể có chuyện họ hiểu lầm,
đúng không? Họ hiểu câu đó là ri nè: “ông là con người mà tự cho mình là
Đức Chúa Trời” (10: 33).
Sờ sờ ra như thế, vậy mà có
mấy ‘học dả’ Tân Chứng nhân Giê-hô-va mới đây còn đanh đá rằng, “nếu Giê-xu là
Đức Chúa Trời thì tại sao Ngài không tuyên bố thẳng một lời cho xong”.
Thì tuyên bố rồi đấy thôi.
Và người Do Thái cũng đã lên án rằng Giê-xu lộng ngôn, phạm thượng đó thôi. Rõ
rành rành ra như thế mà sao mấy ‘học dả’ kia lại không thấy nhỉ. Thì ra, mấy
ảnh cũng rơi vào cảnh có mắt nhưng … mù.
Vì mù nên đối với những
người này thì tất cả đều bị … đui hết, chỉ có những gì mấy ảnh thấy mới là …
chân lý, mới là mặc khải, mới là nâm-bờ hoanh. Vì mù nên trong khi người khác
tưng bừng tin nhận Chúa sau sự kiện La-xa-rơ sống lại thì những người người này
lại chạy đến với những lãnh đạo tôn giáo để hiệp tác loại bỏ Chúa.
Trong chương 12, thì câu
chuyện Chúa được xức dầu rất đáng được lưu tâm. Mary, người làng Bê-tha-ni là
một phụ nữ mà mỗi Cơ-đốc nhân nên noi gương. Cô được đề cập đến 3 lần khác nhau
trong các sách Phúc Âm, và lần nào được mô tả cô cũng đều ngồi dưới chân Chúa
Giê-xu cả (Luca 10: 39; Giăng 11: 32; 12: 3).
Trong vị thế đó, Mary thờ
phượng Chúa, nhận lãnh sự dạy dỗ của Chúa và kinh nghiệm sự yên ủi của Ngài
giữa lúc đau buồn.
Hẳn nhiên, bạn và tôi không
thể ngồi vào vị trí của Mary theo nghĩa đen hoàn toàn, nhưng thái độ của cô ấy
thì ta hoàn toàn có thể ‘copy’. Đó là vị thế đầu phục và lệ thuộc.
Mary cũng đã tình nguyện
dâng hiến điều quý giá nhất mà mình có trong hành động tôn kính dành cho Chúa
Giê-xu. Lọ nước hoa quý ấy có giá khoảng chừng 1 năm tiền công, tức là vào
khoảng 10-12 nghìn ringgit Malaysia. Đó có thể là của hồi môn dành cho ngày
cưới của cô ấy. Và cô đã làm gì? – Đổ cả lên chân Chúa trong hành động dâng
hiến của tình yêu.
Có thể bạn tự hỏi: Điều gì
tôi có thể dâng cho Giê-xu như là một hành động thờ phượng? Điều quý nhất mà
bạn đang sở hữu là … chính con người của bạn. Và nếu bạn chưa từng làm như thế
trước đây thì hãy đọc Rô-ma 12: 1, rồi sau đó hãy làm theo như thế: dâng chính
mình cho Chúa như một sinh tế sống ngay hôm nay. Đó là một hành động thờ phượng
mà Chúa không bao giờ từ chối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét