Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015

CHA, TA & NGƯỜI

2 Sử Ký 6-9
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay tập trung ký thuật 3 sự kiện nổi bật – dưới cái nhìn của một thầy tế lễ, đương nhiên – trong phần đời còn lại của vua Sa-lô-môn. Đó là lễ cung hiến (hay nôm na là khánh thành) Đền Thờ, việc xây thành, đắp lũy khắp cả nước và chuyến thăm chính thức của Nam phương hoàng hậu đến thủ đô Giê-ru-sa-lem.
Hai chương đầu đề cập đến lễ cung hiến Đền Thờ, nhưng thật ra chỉ là đăng ‘toàn văn’ lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn và đáp từ của Đức Chúa Trời mà thôi.
Sa-lô-môn cầu gì? – Vua dành phân nữa … ‘bài văn tế’ để chúc tụng Chúa (6: 4-12; 14-21), phân nữa còn lại (6: 22-39) để cầu thay. Vua chỉ xin Chúa mỗi một điều: xin Chúa chấp thuận chọn Đền Thờ làm nơi để dân sự Chúa hạ lòng ăn năn và nhận được sự tha thứ mỗi khi họ phạm tội.
Chúa gật đầu cái rụp liền. Bằng chứng là lửa từ trời liền giáng xuống đánh phựt trên của lễ thiêu. Thôi thì mịt mờ khói lửa, cả Đền Thờ lẫn người dâng lễ đều được vấn lấy trong ngút ngàn khói mây vinh hiển. Tất cả đều rạp mình sát đất, cảm tạ Chúa. Của lễ đã được nhận.
Đêm đó, Chúa hiện ra cùng Sa-lô-môn (trong chiêm bao chăng) mà tái xác nhận sự chuẩn tấu của Ngài. Có điều câu trả lời của Chúa thuộc dạng có điều kiện kèm theo “Nếu – Thì”.
Phương thức 1: NẾU đang khi bị phạt mà ngươi (các ngươi) biết hạ lòng, dứt khoát bái-bai với tội lỗi và quay trở lại cùng Chúa, THÌ ‘chéc cú’ là ngươi sẽ được Chúa tha và được Chúa cứu.
Phương thức 2: NẾU ngươi cứ “đường Cha … ta đi, ta đi”, THÌ ngươi và con cháu ngươi sẽ vô tư mà làm vua cho đến … ‘mút mùa lệ thủy’ luôn. Song NẾU ngươi đốc chứng “đường ta, ta đi ta đi” THÌ ngươi và con cháu ngươi ‘chéc cú’ là sẽ bị đì-lít hoàn toàn. Còn Đền Thờ lộng lẫy này hả, lúc đó sẽ trở thành trò cười cho thiên hạ mà thôi. Nhớ đấy.
“Khi Ta đóng cửa trời không cho mưa xuống, khi Ta truyền châu chấu xâm chiếm đất đai, khi Ta sai dịch lệ đến giữa dân Ta; lúc ấy nếu dân Ta, dân được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và ăn năn từ bỏ con đường gian ác thì Ta từ trên trời sẽ nghe, tha thứ tội lỗi chúng và chữa lành đất đai của chúng …
Còn ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như vua cha Đa-vít đã đi, làm tất cả những điều ta truyền, giữ những luật lệ, qui luật của Ta; thì Ta sẽ vững lập ngôi vua của ngươi như Ta đã giao ước với vua Đa-vít, cha ngươi rằng: người sẽ không thiếu người trị vì Y-sơ-ra-ên. Nhưng nếu ngươi quay đi, từ bỏ điều răn, qui luật mà Ta đã ban cho ngươi, đi phục vụ, thờ phượng các thần khác, thì Ta sẽ bứng các ngươi ra khỏi đất Ta đã ban cho các ngươi; Ta sẽ từ bỏ đền thờ này khỏi trước mặt ta, là đền Ta đã thánh hóa cho danh Ta; Ta sẽ biến nó thành câu tục ngữ, lời đàm tiếu giữa các dân.
Còn đền thờ này dù nay cao trọng đến đâu thì bấy giờ những người qua lại sẽ ngạc nhiên và hỏi: Tại sao CHÚA làm cho đất nước này và đền thờ này như thế? Người ta sẽ trả lời ‘Vì chúng nó từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng, Đấng đã giải cứu chúng ra khỏi đất Ai Cập mà đi theo các thần khác, thờ phượng và phục vụ các thần ấy nên Ngài giáng tất cả những tai họa này trên chúng nó” (7: 13-22).
Hai câu cuối này thì người đọc đầu tiên, tức những người Y-sơ-ra-ên vừa trở về từ chốn lưu đày, thấu hiểu hơn ai hết. Họ đọc những dòng này, nhưng trước mắt họ Đền Thờ xưa giờ chỉ còn là phế tích. Chắc chắn, chính họ đã có câu hỏi này trong trí: “răng ra ri?”. Và đây, “người ta” – người viết sử đã trả lời: “ri nì: vì chúng nó từ bỏ CHÚA”.
Nguyên tắc “phạm tội – ăn năn – được tha tội” vẫn còn nguyên giá trị ngày hôm nay. Khác biệt duy nhất, người phạm tội KHÔNG CẦN DÂNG SINH TẾ khi xưng tội. Ấy là vì Đức Chúa Giê-xu là sinh tế toàn hảo, có giá trị chuộc tội đến đời đời. Không cần dâng sinh tế, vì sinh tế đã được dâng, nhưng người phạm tội cần phải xưng tội mình trước mặt Chúa.
Ngày nay, có nhiều người đang chủ trương chỉ cần ăn năn một lần đủ cả, tức không cần xưng tội mỗi khi phạm tội. Không biết mấy anh, mấy chị ấy có nắm được nguyên tắc: “Nếu – Thì” trên đây không nữa. Mà nếu, một người đang sai bét nhè mà không chịu “NẾU” thì làm sao mà người ấy có thể nhận “THÌ” được nhỉ? Mà nếu anh í hay chị í cứ “đường ta ta đi ta đi” mà không chịu ‘diu-tơn’, không chịu quay đầu thì ‘chéc cú’ là Chúa sẽ “THÌ” cho thôi rồi luôn. Đúng không?
Nguyên tắc: “Ăn Năn – Được Tha”, còn “Ăn Quen – Được Họa” là không thay đổi đối với con dân Chúa ngày hôm nay; cũng giống như “Vâng Lời Chúa – Được Phước”, còn “Không Vâng Lời Chúa – Được Họa” vậy. Thế nhưng, nơi chốn để thờ phượng Chúa, nơi chốn để gặp gỡ Chúa, để ăn năn, để được tha tội, tức là để thực hiện nguyên tắc “Nếu – Thì” thì đã thay đổi.
Kể từ thời Sa-lô-môn trở đi, muốn cầu Chúa thì chỉ có hoặc là đến tại Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoặc là xoay mặt cho đúng hướng Giê-ru-sa-lem (trường hợp không về thánh địa được). Nhưng từ sau khi Đức Chúa Giê-xu sống lại từ trong cõi chết thì người ta “không còn thờ phụng Đức Chúa Cha … tại Giê-ru-sa-lem nữa” mà là “thờ phụng Chúa Cha bằng tâm linh và lẽ thật” (Giăng 4: 21-22). Địa điểm thờ phượng đã được thay đổi. Hẳn nhiên, Đền Thờ cũng đã được xây mới, không bởi tay con người. Đền Thờ Thật là thân thể mỗi một chúng ta, tấm lòng mỗi một chúng ta, những người tin thờ Chúa, những người được chọn để làm vua đồng cai trị với Đấng Christ trong đời sống của mình.
Hai chương còn lại 8 và 9 được dùng để xác chứng cho lời hứa của Đức Chúa Trời đối cùng Sa-lô-môn trong buổi thịnh trị của người, khi vua dốc lòng tìm kiếm Chúa, đi trong đường lối mà cha mình là Đa-vít đã đi. Hình ảnh vua xây thành, dựng kho, bắt kẻ thù phải phục dịch, rồi phát triển đoàn tàu buôn bán viễn dương, … nói lên phước lành của Chúa. Rồi việc ‘Nam phương hoàng hậu’ phải hết hồn vì Sa-lô-môn khôn quá, giàu quá, sang quá, … là bằng chứng của việc Chúa làm cho vua … ‘bổng nhiên nổi tiếng’ khắp cùng thế giới. Hay nói theo ngôn ngữ ngày nay là uy tín quốc tế của vua lên cao chưa từng thấy!
Nhưng sao chỉ nói toàn chuyện ‘vinh’ của Sa-lô-môn mà không đả động chi đến chuyện ‘nhục’ của vua hè? – Chuyện ‘nhục’ của vua thì các ngươi đã nếm hậu quả suốt 70 năm lưu đày rồi đó thây. Nếu muốn biết thêm chi tiết hả, thì đây: “Còn các câu chuyện khác của vua Sa-lô-môn, từ đầu đến cuối, đều được ghi trong sách của tiên tri Na-than, trong sách tiên tri của A-hi-gia, người Si-lô, trong sách khải tượng của Giê-đô, vị tiên kiến nói về Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát” (9: 29). Vào đó mà đọc tha hồ nhé.
Còn hôm nay … như dzậy là quá đủ rồi. Xi du tu-mớ-râu!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét