2 Sử Ký 6-9
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay tập trung ký thuật 3 sự kiện nổi bật –
dưới cái nhìn của một thầy tế lễ, đương nhiên – trong phần đời còn lại của vua
Sa-lô-môn. Đó là lễ cung hiến (hay nôm na là khánh thành) Đền Thờ, việc xây
thành, đắp lũy khắp cả nước và chuyến thăm chính thức của Nam phương hoàng hậu
đến thủ đô Giê-ru-sa-lem.
Hai chương đầu đề cập đến lễ cung hiến Đền Thờ, nhưng thật ra chỉ là
đăng ‘toàn văn’ lời cầu nguyện của vua Sa-lô-môn và đáp từ của Đức Chúa Trời mà
thôi.
Sa-lô-môn cầu gì? – Vua dành phân nữa … ‘bài văn tế’ để chúc tụng Chúa
(6: 4-12; 14-21), phân nữa còn lại (6: 22-39) để cầu thay. Vua chỉ xin Chúa mỗi
một điều: xin Chúa chấp thuận chọn Đền Thờ làm nơi để dân sự Chúa hạ lòng ăn
năn và nhận được sự tha thứ mỗi khi họ phạm tội.
Chúa gật đầu cái rụp liền. Bằng chứng là lửa từ trời liền giáng xuống
đánh phựt trên của lễ thiêu. Thôi thì mịt mờ khói lửa, cả Đền Thờ lẫn người
dâng lễ đều được vấn lấy trong ngút ngàn khói mây vinh hiển. Tất cả đều rạp
mình sát đất, cảm tạ Chúa. Của lễ đã được nhận.
Đêm đó, Chúa hiện ra cùng Sa-lô-môn (trong chiêm bao chăng) mà tái xác
nhận sự chuẩn tấu của Ngài. Có điều câu trả lời của Chúa thuộc dạng có điều
kiện kèm theo “Nếu – Thì”.
Phương thức 1: NẾU đang khi bị phạt mà ngươi (các ngươi) biết hạ lòng,
dứt khoát bái-bai với tội lỗi và quay trở lại cùng Chúa, THÌ ‘chéc cú’ là ngươi
sẽ được Chúa tha và được Chúa cứu.
Phương thức 2: NẾU ngươi cứ “đường Cha … ta đi, ta đi”, THÌ ngươi và con
cháu ngươi sẽ vô tư mà làm vua cho đến … ‘mút mùa lệ thủy’ luôn. Song NẾU ngươi
đốc chứng “đường ta, ta đi ta đi” THÌ ngươi và con cháu ngươi ‘chéc cú’ là sẽ
bị đì-lít hoàn toàn. Còn Đền Thờ lộng lẫy này hả, lúc đó sẽ trở thành trò cười
cho thiên hạ mà thôi. Nhớ đấy.
“Khi Ta đóng cửa trời không cho mưa xuống, khi Ta truyền châu chấu xâm
chiếm đất đai, khi Ta sai dịch lệ đến giữa dân Ta; lúc ấy nếu dân Ta, dân
được gọi bằng danh Ta, hạ mình xuống, cầu nguyện, tìm kiếm mặt Ta và ăn năn từ
bỏ con đường gian ác thì Ta từ trên trời sẽ nghe, tha thứ tội lỗi chúng và chữa
lành đất đai của chúng …
Còn ngươi, nếu ngươi bước đi trước mặt Ta như vua cha Đa-vít đã đi, làm
tất cả những điều ta truyền, giữ những luật lệ, qui luật của Ta; thì Ta sẽ
vững lập ngôi vua của ngươi như Ta đã giao ước với vua Đa-vít, cha ngươi rằng:
người sẽ không thiếu người trị vì Y-sơ-ra-ên. Nhưng nếu ngươi quay đi, từ
bỏ điều răn, qui luật mà Ta đã ban cho ngươi, đi phục vụ, thờ phượng các thần
khác, thì Ta sẽ bứng các ngươi ra khỏi đất Ta đã ban cho các ngươi; Ta sẽ
từ bỏ đền thờ này khỏi trước mặt ta, là đền Ta đã thánh hóa cho danh Ta; Ta sẽ
biến nó thành câu tục ngữ, lời đàm tiếu giữa các dân.
Còn đền thờ này dù nay cao trọng đến đâu thì bấy giờ những người qua lại
sẽ ngạc nhiên và hỏi: Tại sao CHÚA làm cho đất nước này và đền thờ này như thế? Người
ta sẽ trả lời ‘Vì chúng nó từ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng, Đấng đã
giải cứu chúng ra khỏi đất Ai Cập mà đi theo các thần khác, thờ phượng và phục
vụ các thần ấy nên Ngài giáng tất cả những tai họa này trên chúng nó” (7: 13-22).
Hai câu cuối này thì người đọc đầu tiên, tức những người Y-sơ-ra-ên vừa
trở về từ chốn lưu đày, thấu hiểu hơn ai hết. Họ đọc những dòng này, nhưng
trước mắt họ Đền Thờ xưa giờ chỉ còn là phế tích. Chắc chắn, chính họ đã có câu
hỏi này trong trí: “răng ra ri?”. Và đây, “người ta” – người viết sử đã trả
lời: “ri nì: vì chúng nó từ bỏ CHÚA”.
Nguyên tắc “phạm tội – ăn năn – được tha tội” vẫn còn nguyên giá trị
ngày hôm nay. Khác biệt duy nhất, người phạm tội KHÔNG CẦN DÂNG SINH TẾ khi
xưng tội. Ấy là vì Đức Chúa Giê-xu là sinh tế toàn hảo, có giá trị chuộc tội
đến đời đời. Không cần dâng sinh tế, vì sinh tế đã được dâng, nhưng người phạm
tội cần phải xưng tội mình trước mặt Chúa.
Ngày nay, có nhiều người đang chủ trương chỉ cần ăn năn một lần đủ cả,
tức không cần xưng tội mỗi khi phạm tội. Không biết mấy anh, mấy chị ấy có nắm
được nguyên tắc: “Nếu – Thì” trên đây không nữa. Mà nếu, một người đang sai bét
nhè mà không chịu “NẾU” thì làm sao mà người ấy có thể nhận “THÌ” được nhỉ? Mà
nếu anh í hay chị í cứ “đường ta ta đi ta đi” mà không chịu ‘diu-tơn’, không
chịu quay đầu thì ‘chéc cú’ là Chúa sẽ “THÌ” cho thôi rồi luôn. Đúng không?
Nguyên tắc: “Ăn Năn – Được Tha”, còn “Ăn Quen – Được Họa” là không thay
đổi đối với con dân Chúa ngày hôm nay; cũng giống như “Vâng Lời Chúa – Được
Phước”, còn “Không Vâng Lời Chúa – Được Họa” vậy. Thế nhưng, nơi chốn để thờ
phượng Chúa, nơi chốn để gặp gỡ Chúa, để ăn năn, để được tha tội, tức là để
thực hiện nguyên tắc “Nếu – Thì” thì đã thay đổi.
Kể từ thời Sa-lô-môn trở đi, muốn cầu Chúa thì chỉ có hoặc là đến tại
Đền Thờ Giê-ru-sa-lem hoặc là xoay mặt cho đúng hướng Giê-ru-sa-lem (trường hợp
không về thánh địa được). Nhưng từ sau khi Đức Chúa Giê-xu sống lại từ trong
cõi chết thì người ta “không còn thờ phụng Đức Chúa Cha … tại Giê-ru-sa-lem
nữa” mà là “thờ phụng Chúa Cha bằng tâm linh và lẽ thật” (Giăng 4: 21-22). Địa
điểm thờ phượng đã được thay đổi. Hẳn nhiên, Đền Thờ cũng đã được xây mới, không
bởi tay con người. Đền Thờ Thật là thân thể mỗi một chúng ta, tấm lòng mỗi một
chúng ta, những người tin thờ Chúa, những người được chọn để làm vua đồng cai
trị với Đấng Christ trong đời sống của mình.
Hai chương còn lại 8 và 9 được dùng để xác chứng cho lời hứa của Đức
Chúa Trời đối cùng Sa-lô-môn trong buổi thịnh trị của người, khi vua dốc lòng
tìm kiếm Chúa, đi trong đường lối mà cha mình là Đa-vít đã đi. Hình ảnh vua xây
thành, dựng kho, bắt kẻ thù phải phục dịch, rồi phát triển đoàn tàu buôn bán viễn
dương, … nói lên phước lành của Chúa. Rồi việc ‘Nam phương hoàng hậu’ phải hết
hồn vì Sa-lô-môn khôn quá, giàu quá, sang quá, … là bằng chứng của việc Chúa
làm cho vua … ‘bổng nhiên nổi tiếng’ khắp cùng thế giới. Hay nói theo ngôn ngữ
ngày nay là uy tín quốc tế của vua lên cao chưa từng thấy!
Nhưng sao chỉ nói toàn chuyện ‘vinh’ của Sa-lô-môn mà không đả động chi
đến chuyện ‘nhục’ của vua hè? – Chuyện ‘nhục’ của vua thì các ngươi đã nếm hậu
quả suốt 70 năm lưu đày rồi đó thây. Nếu muốn biết thêm chi tiết hả, thì đây: “Còn
các câu chuyện khác của vua Sa-lô-môn, từ đầu đến cuối, đều được ghi trong sách
của tiên tri Na-than, trong sách tiên tri của A-hi-gia, người Si-lô, trong sách
khải tượng của Giê-đô, vị tiên kiến nói về Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát” (9:
29). Vào đó mà đọc tha hồ nhé.
Còn hôm nay … như dzậy là quá đủ rồi. Xi du tu-mớ-râu!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét