Hê-bơ-rơ
1-2
Tuy cũng được gọi là … ‘meo’ (mail), nhưng meo
Hê-bơ-gơ (nói theo giọng Tây Nam Bộ) đúng là … không giống ai hết á. Ấy là vì
‘em’ nó có khởi đầu giống như một luận văn, có khúc giữa không khác chi một bài
bài giảng và đoạn cuối, may quá, mới có chút ít tạm gọi là … meo!
Chưa hết, vì cớ người viết ẩn danh nên cho đến tận
hôm nay, người ta vẫn còn cãi nhau chí chóe về tác quyền của nó. Rồi còn đối
tượng nhận meo nữa chứ. Họ chéc cú là những Cơ-đốc nhân gốc Do Thái, nhưng họ
sống ở đâu, thân thế sự nghiệp ra sao thì rất chi là tù mù. Chỉ có một điều ta
được biết: ấy là mấy bạn này đang ấm áp tư tưởng lìa bỏ đức tin thật nơi Đức
Chúa Giê-xu để trở lại thờ phượng Đức Chúa Trời theo kiểu cũ của Do Thái giáo.
Thơ Hê-bơ-rơ tập trung vào chính Đức Chúa Giê-xu,
nền tảng đức tin căn bản và vững bền của người tin thờ Chúa. Chừng nào mà một
tín hữu còn neo chặt niềm tin của mình nơi nền tảng này, tức là Đức Chúa
Giê-xu, thì chừng đó người ấy sẽ còn được an toàn. Còn nếu khác đi thì chiếc
thuyền cuộc đời của người chắc chắn sẽ bị trôi giạt, chìm đắm (2:1).
Tác giả dành trọn chương 1 để minh chứng rằng, Đức
Chúa Giê-xu cao trọng hơn, vượt trội hơn mọi thiên sứ. Chúa Giê-xu cao trọng
hơn mọi cấp bậc thiên sứ, vì Ngài là Con Đức Chúa Trời và các thiên sứ phải thờ
lạy Ngài (1: 5-6).
Nếu chỉ đọc có chừng ni thì nhiều người sẽ bù lu bù
loa lên rằng, Đức Giê-xu chỉ là con của Đức Chúa Trời mà thôi. Mà đã là con thì
mần răng mà có thể ngang bằng Cha. Có lý quá đi chớ, đúng không? Thế nhưng, nếu
đọc 2 câu 8-9 tiếp theo thì đảm bảo là sẽ bị … sốc hàng đấy.
Anh chị em có biết Đức Chúa Cha gọi Đức Con Giê-xu
là gì không? – Là Đức Chúa Trời. Không những thế, Cha còn gọi Con là CHÚA, tức
là Giê-hô-va đấy! (1: 8-10)
Mấy anh, mấy chị nào khoái trưng dẫn cổ ngữ nào
Hê-bơ-rơ, nào Hy-lạp để lòe thiên hạ thì chịu khó gu-gồ hay gút-le (tùy theo
cách nói của mỗi người) để xem từ CHÚA trong câu 10 có phải là Jehovah không
nha. Một số người viện dẫn rằng, nhiều đối tượng trong Kinh Thánh cũng được gọi
là chúa (hay thần) như Satan (2 Cô-rinh-tô 4: 4) hoặc một số thẩm phán trên đất
(Thánh Thi 82: 1, 6).
Thêm nữa, mấy ảnh mấy chỉ còn cho rằng trong nguyên
dzăn làm gì có chuyện viết hoa chữ ni (theós)
nên … ai muốn hiểu sao hiểu. Ai muốn dịch chữ theós là Đức Chúa Trời thì dịch, còn riêng mấy anh, mấy chị
này thì dứt khoát chỉ dịch là “thần”, là “chúa” (không viết hoa) mà thôi. Điều
đó có nghĩa là Đức Giê-xu, theo những người này, chỉ là một vị thần không hơn
không kém. Mà đã là một vị thần thì không thể ngang hàng với Đức Chúa Trời
được, nói chi đến việc Giê-xu cũng chính là Đức Chúa Trời.
Cứ cho là cách dịch từ theós là thần, là chúa (không viết hoa) có đúng đi nữa, thì
Đức Giê-xu không phải và cũng không thể là một vị thần bình thường. Bình thường
sao được khi “vị thần” này là Đấng đã sáng tạo muôn vật, là Đấng sẽ cai quản
muôn vật và hiện đang bảo tồn muôn vật. Bình thường sao được khi “vị thần” này
là sự phản ánh của vinh quang Đức Chúa Trời và là hình ảnh trung thực của
bản thể Đức Chúa Trời.
Có thần, có chúa nào lại đã có thể tẩy sạch tội lỗi
cho nhân loại, và hiện đang ngồi bên phải Đấng Tôn Nghiêm, tức Đức Chúa Cha
trên các tầng trời không? (1: 2-4). Câu trả lời luôn chắc chắn là không. Vì
răng? – Vì Đức Chúa Giê-xu là duy nhất. Ngài vừa Đức Chúa Trời, cũng vừa là con
người thật sự như mỗi một chúng ta. Khác biệt duy nhất: ấy là con người Giê-xu
ấy không hề phạm tội!
Vâng, có thể còn khá nhiều người ngày nay tin theo
cách lập luận vô cùng sâu … bọ của tà phái Chứng Nhân Giê-hô-va, kiên quyết
không chấp nhận rằng Đức Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời. Thế nhưng, việc những
người này chối bỏ ngôi vị Thiên Chúa của Đức Giê-xu không ảnh hưởng gì đến Ngài
cả. Đức Chúa Trời đã xác nhận Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời và là CHÚA kia mà.
Thế thì bạn chọn tin theo lời của ai về thân vị của Đức Chúa Giê-xu: lời của
chính Đức Chúa Trời hay lời của ‘mấy cha, mấy anh’ tà giáo?
Nếu như chương 1, tác giả tập trung nói về con …
Trời Giê-xu, tức ngôi vị Đức Chúa Trời của Đức Giê-xu thì chương 2, tác giả
quay sang phần con người của Giê-xu, tức nhân tánh của Ngài.
Có một điều cần lưu ý là ở 2: 6-7, trong vài bản
dịch tiếng Việt (Truyền Thống và Hiệu Đính) đã có sự … ‘viết hoa tùy tiện chữ … người’ dẫn
đến việc hiểu nhầm chỗ ấy là nói về Chúa Giê-xu. Bản Dich Mới dịch chỗ này rất
chuẩn. Và do đó, khi đọc những câu tiếp theo ta sẽ thấy được cách tác giả chứng
minh Giê-xu chính là người đã làm trọn lời tiên tri Cựu ước. Ngài là Đầy Tớ
chịu khổ, là Đấng Mê-sia, tức Đấng Cứu Thế đã từng được tiên báo từ ngàn xưa.
Đối với những Cơ-đốc nhân người Do Thái – những người nhận ‘meo’ – thì những
điều này là vô cùng, vô cùng quan trọng.
Thơ Hê-bơ-rơ không phải viết cho người chưa tin thờ
Chúa mà là cho những người ĐÃ tin thờ Chúa. Hiểm họa được mô tả ở đây không
phải là họ từ chối sự cứu rỗi mà là “coi thường ơn cứu rỗi lớn” (2: 2-3).
Thế nào là “coi thường ơn cứu rỗi”? – Coi thường là
“không giữ vững lấy điều mình đã nghe”. Mà điều gì họ đã nghe? – Tin Lành về sự
cứu rỗi bởi Đức Chúa Giê-xu mà đến, qua việc rao giảng của các nhân chứng và
được xác nhận bởi những dấu kỳ, phép lạ và sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh.
“Giữ vững” luôn bao gồm việc nghe cách cẩn thận,
rồi gìn giữ và làm theo tất cả những gì mình đã nghe. Chính việc “gìn giữ và
làm theo tất cả những gì mình đã nghe” lại là cửa ải, là vấn nạn không thể hoặc
không muốn vượt qua của một ‘bộ phận không nhỏ’ … cựu tín đồ. Và vì cớ “không
giữ vững lấy điều mình đã nghe” mà có biết bao nhiêu chiếc thuyền đời của những
anh trai, chị gái vốn “sinh ra trong nhà có Đạo” hay đã từng một thời … “yêu
mến Chúa thôi rồi” nay chẳng biết đang trôi giạt chốn mô.
Hóa ra, chuyện của những Cơ-đốc nhân gốc Do Thái
trong thế kỷ thứ I nhưng vẫn còn luôn nóng hổi tính thời sự cho đến tận hôm
nay. Vậy, hỡi anh chị em, hãy thường xuyên kiểm tra để xem ta có còn neo chặt
đời mình nơi Đức Chúa Giê-xu chăng?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét