Phi-lê-môn
Thơ
Phi-lê-môn là lá thơ ngắn nhất và mang tính riêng tư nhất của sứ đồ Phao-lô.
Thơ này cũng thuộc vào nhóm những lá thơ viết từ ngục tù. Ngắn nhất nhưng ý
nghĩa dạy dỗ thì không hề ngắn!
Số
là ở hội thánh Colose có một đại gia tên là Phi-lê-môn. Có lẽ, chính Phao-lô đã
hướng dẫn người này đến với Chúa. Ngày kia, có một nam nô lệ của Phi-lê-môn,
tên là Ô-nê-sim bỏ trốn. Và khi trốn đi, dường như, Ô-nê-sim cũng có … cuỗm của
ông chủ ít nhiều. Ngày qua tháng lại, Ô-nê-sim trôi dạt về tận thủ đô Rô-ma.
Tại đó, không biết cơ duyên thế nào anh nô lệ trốn chủ này gặp phải Phao-lô.
Thế là tin Chúa, rồi trở thành đệ tử rất chi là trung thành của bác í.
Sau
khi tin nhận Chúa Giê-xu thì cuộc đời của Ô-nê-sim đổi thay nhiều lắm. Tội lỗi
của anh í được Chúa tha nè; anh được trở nên là một phần trong gia đình của Đức
Chúa Trời (với rất nhiều anh chị em mới trong Chúa Cứu Thế, bao gồm cả Phao-lô
lẫn Phi-lê-môn); và nhận được một động lực mới để sống!
Thế
nhưng, không phải tất cả đều thay đổi. Ô-nê-sim vẫn còn là nô lệ của Phi-lê-môn
– một nô lệ bỏ trốn. Anh í vẫn còn là một tên trộm với món nợ phải trả cho chủ
mình. Khoản ‘trễ hạn’ cần phải thanh toán này bao gồm sự bồi thường, ăn năn và
trở lại chịu phục dưới quyền của Phi-lê-môn.
Vì
Ô-nê-sim phải có trách nhiệm trong việc giải quyết những sai phạm của mình với
người chủ cũ là Phi-lê-môn, nên Phao-lô đã viết lá thơ này cầu xin lòng khoan
dung trên cơ sở tình yêu Thiên Chúa, rồi sai Ti-chi-cơ cùng với Ô-nê-sim trực
tiếp mang về (Colose 4:7-9).
Đấy,
đầu đuôi gốc ngọn là như thế. Và sau đây là những bài học áp dụng:
Trước
hết, câu chuyện Ô-nê-sim, Phao-lô và Phi-lê-môn là bức tranh người thật việc
thật, minh họa cách sống động cho lẽ đạo cứu rỗi. Trong đó, mỗi một chúng ta là
tên nô lệ bỏ trốn Ô-nê-sim; Phi-lê-môn là hình ảnh của Đức Chúa Trời; còn
Phao-lô người sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho Ô-nê-sim và nhận trách nhiệm bồi
thường cho mọi sai phạm của Ô-nê-sim chính là hình bóng của Chúa Giê-xu.
Tiếp
theo là bài học về sự tha thứ.
Tha
cho những ai đã sai trật với mình, cho những ai đã làm tổn hại mình. Tha không
phải là vì người đó xứng đáng được tha mà là vì vâng lời Chúa để tha, và là vì
mình cũng là người đầy sai phạm từng được Chúa tha.
Sự
tha thứ được nói đến trong thơ Phi-lê-môn không chỉ là bỏ qua, là không nhắc
lại sai phạm của người mắc lỗi, mà còn là tiếp nhận lại, là chấp nhận người ấy,
quý mến người ấy như trước khi có chuyện xảy ra và thậm chí còn quý hơn trước
đó nữa cơ. Đó mới chính là sự tha thứ thật. Đó mới đúng nghĩa là Tin Lành, đó
mới thật sự là Ân Điển.
Phi-lê-môn
rất dễ dàng và vui lòng vâng lời Phao-lô để nhận lại Ô-nê-sim, không phải như
một nô lệ mà là một người anh em, là vì ông ấy thật sự chịu ơn Phao-lô, ông ấy
thật sự quý mến Phao-lô. Cũng một thể ấy, nếu bạn và tôi ý thức được rằng mình
thật sự chịu ơn Chúa, thật sự quý mến Chúa thì việc vâng lời Chúa mà tha thứ,
mà đón nhận trở lại những kẻ đã sai trật, đã gây hại cho mình chỉ còn là …
“chuyện nhỏ như con thỏ” mà thôi.
Bài
học tiếp theo là sự bồi thường.
Nói
lời xin lỗi là việc cần phải làm nếu ta đã sai phạm với một ai đó. Thế còn
những hậu quả mà ta đã gây ra cho người đó thì sao? – Thì phải đền chớ sao. Đức
tin thì phải được thể hiện bằng hành động chớ. Đây mới thật sự là thách thức.
Thật lòng hay không là chỗ này, chân thành hay không là chỗ này, chớ không phải
chỉ có cái mồm: “ai em xo-ri”, “ai em
xo-ri” (I’m sorry) là xong đâu nha.
Nào,
giờ thì điểm lại xem có những “khoản thanh toán đã quá hạn” nào mà mình chưa
trả cho người ta không?
Chẳng
hạn, khi bỏ công ty trốn ra ngoài, bạn có lấy cắp gì của chủ hay của công ty
không? Rồi, sách, băng đĩa, nhạc cụ, đồ gia dụng, tiền vay, tiền nợ, … của
người khác trong (những) năm qua thì sao?
Có
thể, bạn chưa có điều kiện để trả cho xong thì bạn cũng phải đến gặp mặt với
người ấy để thương lượng, để gia hạn hay để giải quyết theo một cách nào đó
chớ. Đúng không? Ăn năn thật phải là như thế. Xin lỗi thật lòng thì phải là như
thế.
Sắp
hết năm rồi đó nha. Lo mà hoàn trả lại cho chủ những gì ta đã lấy cắp; Lo mà bồi
thường, mà đền bù cho người ta những gì mình đã làm tổn hại. Đấy là lối sống
của một người tin Chúa thật. Đấy mới là bằng chứng thật sự của một cuộc đời đã được
Chúa biến đổi.
Bài
học cuối cùng là … tuyệt chiêu khiến người ta vâng lời của bác Pôl.
Bác
í bảo với Phi-lê-môn rằng, “dù
trong Chúa Cứu Thế, tôi có quyền truyền bảo anh về việc anh nên làm, nhưng tôi
thà lấy tình yêu thương nài xin anh thì hơn” (c. 8-9).
Không dùng mệnh lệnh mà là khéo léo thuyết phục. Đó gọi là sử dụng “quyền lực
mềm” đấy các bác lãnh đạo ạ. Cũng thì vâng lời, nhưng một đằng là … BỊ vâng
lời, (nếu ta sử dụng mệnh lệnh), còn đằng kia là ĐƯỢC vâng lời.
Cầu
xin Chúa giúp cho hết thảy chúng ta được như Phao-lô, biết khi nào nên cứng,
khi nào nên mềm trong chức phận của một người hòa giải để hàn gắn lại những mối
quan hệ gãy đổ trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét