1 Giăng 1-5
Giăng, “người môn đồ được Chúa Giê-xu
yêu”, đã viết lá thơ này để giúp đỡ những tín hữu trong việc bước đi với Chúa –
Đấng là hiện thân của sự sáng, tình yêu và sự sống.
Sống đạo hay theo Chúa thật sự thì lời
nói phải đi đôi với việc làm. Cầu nguyện tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu làm Cứu
Chúa, rồi học biết một số tín lý hay giáo lý thì ô-kơ. Nhưng tất cả những điều
đó sẽ là vô nghĩa nếu hành vi, lối sống của chúng ta không được (hoặc không
chịu) thay đổi.
Sứ điệp của cụ Giôn là ri nì: nếu thật
sự có Chúa Giê-xu sống trong đời sống của mình, thì bạn không thể nào sống
trong tội lỗi, làm những điều sai trật, trộm cắp và dối trá, cũng như sinh hoạt
tình dục phóng đãng được. Còn nữa, nếu thật sự có Chúa Giê-xu sống trong đời
sống của mình, thì bạn không thể nào giữ lòng thù ghét đối với những anh chị em
đồng đạo được. Bạn phải thay đổi lối sống của mình.
Thật ra, từ bé chúng ta đã được dạy phải
“thương người như thể thương thân”. Rồi mọi nhà hiền triết, tư tưởng cũng như
tất cả các tôn giáo trên thế gian, từ xưa đến nay, đều dạy con người ta làm
lành, lánh dữ, tu nhân tích đức cả, chớ không riêng gì đạo Chúa. Thế giới có
thừa những lời khuyên khôn ngoan, chỉ có điều là người ta không tìm đâu ra năng
lực hay khả năng để làm theo hay để sống theo những lời khuyên khôn ngoan ấy mà
thôi.
Thế thì, bằng cách nào người tin Chúa có
thể thay đổi lối sống của mình hay bởi đâu mà người tin Chúa có khả năng để làm
theo những lời khuyên dạy của Chúa? – Câu trả lời của Giăng là chính sự thông
công mật thiết với Đức Chúa Giê-xu sẽ đem lại cho chúng ta quyền năng hay khả
năng siêu nhiên để sống theo những lời khuyên dạy của Ngài.
Càng gần gũi Chúa chừng nào thì ta càng
dễ dàng tha thứ cho người khác, yêu thương người khác; càng gần gũi Chúa chừng
nào thì ta càng dễ dàng từ bỏ tội lỗi, đắc thắng cám dỗ. Đơn giản là vì càng
gần Chúa, bạn sẽ nhận ra được rằng những gì mà thế gian đang mê đắm, đang cho
là giá trị thì không thật sự có ý nghĩa, không thật sự có giá trị như thế.
Thật ra, những người xung quanh chúng ta
không mấy ấn tượng và cũng không dễ bị thuyết phục bởi những gì chúng ta KHÔNG
CÒN LÀM – tức là những thói quen xấu – sau khi tin thờ Chúa đâu. (Có thể, bạn
đã từng nghe những câu đại loại như: “Điều đó đúng là tuyệt vời đối với cậu,
nhưng mình thì lại thích ăn nhậu và hút hít, nên mình không muốn tin như cậu”).
Thế giới này sẽ bị đánh động bởi những gì chúng ta LÀM. Chính những hành động
yêu thương sẽ khiến cho Phúc Âm có sức hấp dẫn đối với cộng đồng quanh ta.
Đồng ý là về lý thì một người đã thật sự
có Chúa Giê-xu trong đời sống của mình thì không thể hay chính xác hơn là không
được phép phạm tội. Thế nhưng, trong thực tế thì một người sau khi tin Chúa vẫn
còn phạm tội. Trường hợp đấy thì phải xử thế nào? – Tự người ấy phải xưng nhận
tội lỗi của mình với Chúa để được tha thứ (1:9). Xưng nhận tội lỗi, hay còn gọi
là ăn năn trong trường hợp này không phải để đạt được sự chấp nhận của Chúa, mà
là để loại bỏ những chướng ngại hay những rào cản do tội lỗi để lại trong mối
thông công của người ấy với Chúa.
Khi một người thật lòng ăn năn tội và
cầu nguyện tiếp nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa, thì ngay thời điểm đó, mọi tội
lỗi – trong quá khứ, trong hiện tại và trong cả tương lai – của người ấy, ĐÃ
được Chúa tha, Chúa xóa sạch sẽ. Người ấy trở nên là con của Đức Chúa Trời. Nếu
sau đó, người ấy phạm tội thì không vì thế mà quyền làm con, cũng là sự cứu
rỗi, của người ấy sẽ bị tước mất. Tội lỗi của người ấy chắc chắn là sẽ làm Chúa
buồn, hoặc làm Chúa giận, tức là làm tổn hại mối quan hệ (thông công) với Chúa.
Để làm hòa lại với Chúa thì người ấy cần phải hạ mình xin lỗi Chúa, tức là ăn
năn.
Nghe giang hồ đồn rằng, mấy anh chị “duy
ân điển” hay “siêu ân điển”, tức những người tin theo sự dạy dỗ của sư Joseph
Prince, đang cố gắng ‘sửa sai’ người tin thờ Chúa khắp nơi rằng thì là ngày nay
ta không cần phải ăn năn khi đã … nhỡ phạm tội, vì cớ Chúa đã tha cho ta sạch
sẽ từ đời xưa rồi. Nếu đúng là như thế, thì rõ ràng là mấy boạn này chưa phân
biệt được ý nghĩa của sự ăn năn khi tiếp nhận Chúa Giê-xu và ăn năn lúc phạm tội
khi đã là Cơ-đốc nhân rồi.
Trong thơ này của cụ Giăng có hai địa
chỉ thuộc dạng “đất tranh chấp”, khiến cho lắm kẻ đau đầu nhức óc, từ ngày xưa
cho đến tận hôm nay. Cả hai đều nằm ở chương 5. Một là “ba nhân chứng” (5:6-8),
còn hai là “tội đến nỗi chết” (5:16-17).
Liên quan đến 3 chứng: Thánh Linh, Nước
và Huyết thì chỉ cần đọc phần Kinh Thánh này trong Bản Diễn Ý là có thể hiểu
được rồi:
“Chúng ta biết Chúa Cứu Thế là
Con Thượng Đế, vì chính Thượng Đế đã từ trời xác nhận lúc Chúa Giê-xu chịu lễ
báp-tem, và khi Ngài chịu chết trên cây thập tự - vâng, chẳng những lúc Chúa
chịu báp-tem mà cả lúc Ngài hy sinh tính mạng. Thánh Linh là Thần Chân lý, cũng
chứng nhận Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế? Chúng ta có ba bằng chứng: tiếng phán
của Thánh Linh trong lòng chúng ta, tiếng phán từ trời khi Chúa Cứu Thế chịu
báp-tem, và tiếng phán trước khi Ngài hy sinh tính mạng. Tất cả đều xác nhận:
Chúa Cứu Thế Giê-xu là Con Thượng Đế.”
Như vậy, “nước” là nói đến việc Chúa Cứu
Thế Giê-xu chịu báp-têm nước, còn “huyết” là đề cập đến sự chết của Chúa Cứu
Thế Giê-xu trên thập giá. Ý của cụ Giăng là từ lúc sinh ra, cho đến lúc chết
trên thập giá, Giê-xu luôn là Chúa Cứu Thế.
Cụ nói thế là vì có một nhóm tà giáo lúc
bấy giờ không công nhận Chúa Giê-xu là Đấng Christ, tức Chúa Cứu Thế kể từ lúc
sinh ra cho đến khi chết trên thập giá (4:1-3). Theo những người này này thì “Đấng
Christ” – được hiểu là quyền phép và ảnh hưởng của Đức Chúa Trời hiện diện –
chỉ giáng xuống trên con người Giê-xu, dưới dạng chim bồ câu, lúc Người nhận
báp-têm mà thôi. Và đến trước lúc Giê-xu thọ nạn trên thập tự giá thì “Đấng
Christ” đó đã lìa khỏi Ngài!
Cuối cùng là théc méc “tội đến nỗi chết”
(5:16-17). Cần nói ngay là tội này không cùng lê-vồ (level), không cùng bản
chất với “tội không được tha” (Mat.12:31-32). Thế thì “chết” ở đây là chết về
phần xác, chớ không chết về phần hồn, tức là mất sự cứu rỗi đâu nha. Đây là
kiểu chết … trước thời hạn chỉ dành riêng cho những người đã tin thờ Chúa.
Kinh Thánh không cho biết “tội đến nỗi
chết” là những tội gì, nhưng cứ theo hậu quả mà xét thì hai trường hợp tại hội
thánh Cô-rinh-tô (1 Corinhto 5:1-5; 11:27-31) dường như có liên quan đấy. Anh
chị em nào quan tâm về vấn đề này thì có thể tự nghiên cứu thêm từ những địa
chỉ Kinh Thánh sau đây: Esai 1:15; Giê-rê-mi 15:1; Ê-xê-chi-ên 14:14, 20; Miche
3:4.
Viết đến đây đột nhiên nghĩ đến những
cái chết trẻ, thậm chí còn quá trẻ vì bệnh của nhiều người hầu việc Chúa trong
thời gian gần đây. Ngoài trường hợp của bà Đô-ca (Công vụ 9:36-37), thì hình
như trong Kinh Thánh không có người hầu việc Chúa nào chết vì bệnh thì phải.
Không lẽ, những trường hợp chết trẻ vì bệnh kia lại rơi vào trường hợp mà cụ
Giăng bảo là có cầu nguyện cũng vô ích đây sao (?)
Hỡi anh chị em, hỡi quý tôi tớ Chúa, hãy
tỉnh thức!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét