Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015

TUYỆT ĐỈNH YÊU THƯƠNG

1 Giăng 1-5
Giăng, “người môn đồ được Chúa Giê-xu yêu”, đã viết lá thơ này để giúp đỡ những tín hữu trong việc bước đi với Chúa – Đấng là hiện thân của sự sáng, tình yêu và sự sống.
Sống đạo hay theo Chúa thật sự thì lời nói phải đi đôi với việc làm. Cầu nguyện tiếp nhận Đức Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa, rồi học biết một số tín lý hay giáo lý thì ô-kơ. Nhưng tất cả những điều đó sẽ là vô nghĩa nếu hành vi, lối sống của chúng ta không được (hoặc không chịu) thay đổi.
Sứ điệp của cụ Giôn là ri nì: nếu thật sự có Chúa Giê-xu sống trong đời sống của mình, thì bạn không thể nào sống trong tội lỗi, làm những điều sai trật, trộm cắp và dối trá, cũng như sinh hoạt tình dục phóng đãng được. Còn nữa, nếu thật sự có Chúa Giê-xu sống trong đời sống của mình, thì bạn không thể nào giữ lòng thù ghét đối với những anh chị em đồng đạo được. Bạn phải thay đổi lối sống của mình.
Thật ra, từ bé chúng ta đã được dạy phải “thương người như thể thương thân”. Rồi mọi nhà hiền triết, tư tưởng cũng như tất cả các tôn giáo trên thế gian, từ xưa đến nay, đều dạy con người ta làm lành, lánh dữ, tu nhân tích đức cả, chớ không riêng gì đạo Chúa. Thế giới có thừa những lời khuyên khôn ngoan, chỉ có điều là người ta không tìm đâu ra năng lực hay khả năng để làm theo hay để sống theo những lời khuyên khôn ngoan ấy mà thôi.
Thế thì, bằng cách nào người tin Chúa có thể thay đổi lối sống của mình hay bởi đâu mà người tin Chúa có khả năng để làm theo những lời khuyên dạy của Chúa? – Câu trả lời của Giăng là chính sự thông công mật thiết với Đức Chúa Giê-xu sẽ đem lại cho chúng ta quyền năng hay khả năng siêu nhiên để sống theo những lời khuyên dạy của Ngài.
Càng gần gũi Chúa chừng nào thì ta càng dễ dàng tha thứ cho người khác, yêu thương người khác; càng gần gũi Chúa chừng nào thì ta càng dễ dàng từ bỏ tội lỗi, đắc thắng cám dỗ. Đơn giản là vì càng gần Chúa, bạn sẽ nhận ra được rằng những gì mà thế gian đang mê đắm, đang cho là giá trị thì không thật sự có ý nghĩa, không thật sự có giá trị như thế.
Thật ra, những người xung quanh chúng ta không mấy ấn tượng và cũng không dễ bị thuyết phục bởi những gì chúng ta KHÔNG CÒN LÀM – tức là những thói quen xấu – sau khi tin thờ Chúa đâu. (Có thể, bạn đã từng nghe những câu đại loại như: “Điều đó đúng là tuyệt vời đối với cậu, nhưng mình thì lại thích ăn nhậu và hút hít, nên mình không muốn tin như cậu”). Thế giới này sẽ bị đánh động bởi những gì chúng ta LÀM. Chính những hành động yêu thương sẽ khiến cho Phúc Âm có sức hấp dẫn đối với cộng đồng quanh ta.
Đồng ý là về lý thì một người đã thật sự có Chúa Giê-xu trong đời sống của mình thì không thể hay chính xác hơn là không được phép phạm tội. Thế nhưng, trong thực tế thì một người sau khi tin Chúa vẫn còn phạm tội. Trường hợp đấy thì phải xử thế nào? – Tự người ấy phải xưng nhận tội lỗi của mình với Chúa để được tha thứ (1:9). Xưng nhận tội lỗi, hay còn gọi là ăn năn trong trường hợp này không phải để đạt được sự chấp nhận của Chúa, mà là để loại bỏ những chướng ngại hay những rào cản do tội lỗi để lại trong mối thông công của người ấy với Chúa.
Khi một người thật lòng ăn năn tội và cầu nguyện tiếp nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa, thì ngay thời điểm đó, mọi tội lỗi – trong quá khứ, trong hiện tại và trong cả tương lai – của người ấy, ĐÃ được Chúa tha, Chúa xóa sạch sẽ. Người ấy trở nên là con của Đức Chúa Trời. Nếu sau đó, người ấy phạm tội thì không vì thế mà quyền làm con, cũng là sự cứu rỗi, của người ấy sẽ bị tước mất. Tội lỗi của người ấy chắc chắn là sẽ làm Chúa buồn, hoặc làm Chúa giận, tức là làm tổn hại mối quan hệ (thông công) với Chúa. Để làm hòa lại với Chúa thì người ấy cần phải hạ mình xin lỗi Chúa, tức là ăn năn.
Nghe giang hồ đồn rằng, mấy anh chị “duy ân điển” hay “siêu ân điển”, tức những người tin theo sự dạy dỗ của sư Joseph Prince, đang cố gắng ‘sửa sai’ người tin thờ Chúa khắp nơi rằng thì là ngày nay ta không cần phải ăn năn khi đã … nhỡ phạm tội, vì cớ Chúa đã tha cho ta sạch sẽ từ đời xưa rồi. Nếu đúng là như thế, thì rõ ràng là mấy boạn này chưa phân biệt được ý nghĩa của sự ăn năn khi tiếp nhận Chúa Giê-xu và ăn năn lúc phạm tội khi đã là Cơ-đốc nhân rồi.
Trong thơ này của cụ Giăng có hai địa chỉ thuộc dạng “đất tranh chấp”, khiến cho lắm kẻ đau đầu nhức óc, từ ngày xưa cho đến tận hôm nay. Cả hai đều nằm ở chương 5. Một là “ba nhân chứng” (5:6-8), còn hai là “tội đến nỗi chết” (5:16-17).
Liên quan đến 3 chứng: Thánh Linh, Nước và Huyết thì chỉ cần đọc phần Kinh Thánh này trong Bản Diễn Ý là có thể hiểu được rồi:
Chúng ta biết Chúa Cứu Thế là Con Thượng Đế, vì chính Thượng Đế đã từ trời xác nhận lúc Chúa Giê-xu chịu lễ báp-tem, và khi Ngài chịu chết trên cây thập tự - vâng, chẳng những lúc Chúa chịu báp-tem mà cả lúc Ngài hy sinh tính mạng. Thánh Linh là Thần Chân lý, cũng chứng nhận Chúa Giê-xu là Con Thượng Đế? Chúng ta có ba bằng chứng: tiếng phán của Thánh Linh trong lòng chúng ta, tiếng phán từ trời khi Chúa Cứu Thế chịu báp-tem, và tiếng phán trước khi Ngài hy sinh tính mạng. Tất cả đều xác nhận: Chúa Cứu Thế Giê-xu là Con Thượng Đế.
Như vậy, “nước” là nói đến việc Chúa Cứu Thế Giê-xu chịu báp-têm nước, còn “huyết” là đề cập đến sự chết của Chúa Cứu Thế Giê-xu trên thập giá. Ý của cụ Giăng là từ lúc sinh ra, cho đến lúc chết trên thập giá, Giê-xu luôn là Chúa Cứu Thế.
Cụ nói thế là vì có một nhóm tà giáo lúc bấy giờ không công nhận Chúa Giê-xu là Đấng Christ, tức Chúa Cứu Thế kể từ lúc sinh ra cho đến khi chết trên thập giá (4:1-3). Theo những người này này thì “Đấng Christ” – được hiểu là quyền phép và ảnh hưởng của Đức Chúa Trời hiện diện – chỉ giáng xuống trên con người Giê-xu, dưới dạng chim bồ câu, lúc Người nhận báp-têm mà thôi. Và đến trước lúc Giê-xu thọ nạn trên thập tự giá thì “Đấng Christ” đó đã lìa khỏi Ngài!
Cuối cùng là théc méc “tội đến nỗi chết” (5:16-17). Cần nói ngay là tội này không cùng lê-vồ (level), không cùng bản chất với “tội không được tha” (Mat.12:31-32). Thế thì “chết” ở đây là chết về phần xác, chớ không chết về phần hồn, tức là mất sự cứu rỗi đâu nha. Đây là kiểu chết … trước thời hạn chỉ dành riêng cho những người đã tin thờ Chúa.
Kinh Thánh không cho biết “tội đến nỗi chết” là những tội gì, nhưng cứ theo hậu quả mà xét thì hai trường hợp tại hội thánh Cô-rinh-tô (1 Corinhto 5:1-5; 11:27-31) dường như có liên quan đấy. Anh chị em nào quan tâm về vấn đề này thì có thể tự nghiên cứu thêm từ những địa chỉ Kinh Thánh sau đây: Esai 1:15; Giê-rê-mi 15:1; Ê-xê-chi-ên 14:14, 20; Miche 3:4.
Viết đến đây đột nhiên nghĩ đến những cái chết trẻ, thậm chí còn quá trẻ vì bệnh của nhiều người hầu việc Chúa trong thời gian gần đây. Ngoài trường hợp của bà Đô-ca (Công vụ 9:36-37), thì hình như trong Kinh Thánh không có người hầu việc Chúa nào chết vì bệnh thì phải. Không lẽ, những trường hợp chết trẻ vì bệnh kia lại rơi vào trường hợp mà cụ Giăng bảo là có cầu nguyện cũng vô ích đây sao (?)
Hỡi anh chị em, hỡi quý tôi tớ Chúa, hãy tỉnh thức!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét