Thứ Hai, 14 tháng 12, 2015

ĐỨC TIN DÀI THEO NĂM THÁNG

Dừng Chân Lần Thứ 45
NHÌN LẠI
Dù người viết thơ Hê-bơ-rơ vẫn còn là điều kín giấu, nhưng sức công phá của lá thư này là quá sức rõ ràng. Sự sinh ra về phương diện tâm linh chỉ mới là chuyện khởi đầu. Đó là điều bắt buộc để người tin Chúa tiến đến chỗ trưởng thành và thăng tiến trong mối quan hệ với Đức Chúa Giê-xu Christ. Đừng để bị cám dỗ trở lại … đường xưa lối cũ, vì cớ con đường Giê-xu là con đường tốt nhất.
Chúa Giê-xu trỗi hơn các thiên sứ … hơn cả Môi-se … trội hơn hẵn Giô-suê … hơn cả mọi tiên tri. Ngài đã cung hiến một phương cách tốt hơn … một sinh tế tốt hơn … một công tác hơn … và một sự an nghỉ tốt hơn. Cũng chính vì thế mà tác giả bức thư “tin chắc về những công việc tốt hơn” (Hê-bơ-rơ 6: 9) đối với những độc giả của mình khi thúc giục họ trưởng thành trong Đấng Christ
Con đường tốt hơn này đã từng in dấu chân của những người tuận đạo và những người hùng thời Cựu Ước, những người mà đức tin và lòng kiên nhẫn của họ có thể trở nên nguồn khích lệ vô tận cho bao thế hệ theo sau. Nơi họ chúng ta khám phá ra lẽ thật mang tính giải phóng rằng “người nào đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng Ngài thực hữu, và Ngài là Đấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài” (Hê-bơ-rơ 11: 6)
NHÌN LÊN
Quãng đường dài nhất mà bạn đã từng chạy không nghỉ là bao nhiêu? Và bạn cảm thấy thế nào khi cuối cùng đường đua kết thúc? Dù là một vận động viên marathon đi nữa, thì bạn cũng không bao giờ muốn chạy lại ngay lập tức một lần nữa, đúng không?
Đời sống Cơ-đốc nhân sẽ là một cơn gió thoảng nếu nó chỉ là một cuộc đua nước rút – là cuộc đua 100 mét của sự chịu đựng, là một phần tư dặm của sự kiên nhẫn và là nữa cuộc đua của sự kiên định. Tiếc thay, đời không phải thế. Đời sống Cơ-đốc còn hơn là một cuộc đua marathon (đua đường dài).
Đối với Môi-se, đó là cuộc “lội bộ” suốt 120 năm từ Ai-cập đến Ma-đi-an, rồi trở lại Ai-cập để đến đồng bằng Mô-áp. Đối với Nô-ê, nó bao gồm cả một thế kỷ dài đóng tàu dưới sự giám sát chặt chẽ của Đức Chúa Trời. Đối với Ap-ra-ham, điều đó có nghĩa là chờ đợi đứa con của lời hứa suốt 25 năm.
Không phải cuộc đua nước rút nhưng chắc chắn là một bài tập luyện sức chịu đựng. Và chính đức tin bền bỉ của những anh hùng Cựu ước này trên con đường dài mà họ đã dấn bước, đã cung ứng những lời chứng … dài theo năm tháng cho mãi đến tận hôm nay.
NHÌN TỚI
Khi nghĩ đến một gương đức tin bền bỉ ngay trong thế hệ của mình, thì ai là người sẽ xuất hiện trong trí của bạn? Sau đây là một vài gợi ý cho những ứng viên xứng đáng:
§  Một người hầu việc Chúa trung tín rao giảng Phúc Âm suốt 40 năm
§  Một cặp vợ chồng chung thủy trong hôn nhân và trung tín trong công tác qua mọi nan đề thử thách, thay vì để cho nan đề thử thách chia rẽ họ ra.
§  Một giáo sĩ tận tụy trên công trường truyền giáo suốt 30 năm
§  Một giáo viên trường Chúa Nhật, người đã trung tín dạy hết lớp này đến lớp khác, hết thế hệ này đến thế hệ khác trong hội thánh.
Tại sao chúng ta lại không trân trọng sự trung tín của những người đó bằng một cuộc gọi thăm hỏi, hay một món quà thiết thực nhân dịp Mùa Yêu Thương, tức Giáng Sinh đang về, ngay hôm nay? Khá nhớ rằng, đời sống của họ là những tấm gương sống động giải bày Hê-bơ-rơ 12: 1-2 đấy. Hãy ghi khắc lời Chúa nhắn nhủ đến mỗi một chúng ta:
“Hãy nhớ những người dắt dẫn mình, là người đã truyền giảng lời Đức Chúa Trời cho mình. Hãy xét xem kết quả cuộc đời họ và bắt chước đức tin họ. Đức Chúa Jêsus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi.” (Hê-bơ-rơ 13: 7-8)


Chủ Nhật, 13 tháng 12, 2015

TUYỆT ĐỈNH ĐỨC TIN

Hê-bơ-rơ 11-13 
Thơ Hê-bơ-rơ kết thúc với lời kêu gọi bà con tín hữu gốc Do Thái hãy bỏ lại sau lưng những lề luật đã lỗi thời để đến gần với Đức Chúa Trời bằng con đường mới và sống mà Đức Giê-xu đã hoàn tất qua sự chết của Ngài.
Nhưng tại sao lại phải ‘năn nỉ’ như thế? - Ấy là vì lúc bấy giờ bà con ta đã và đang bị bắt bớ, bị bách hại. Mà một khi người ta lâm nạn thì các ý tưởng suy diễn sẽ đồng loạt tấn công trong tâm trí của những người ấy. Đại loại như ri:  “Biết đâu chừng, đây là hậu quả của việc đổi đạo, bỏ đạo của ta thì răng. Thôi thì, ta về ta tắm ao ta cho nó lành ông ạ”. Thế rồi, ban đầu là ấm áp tư tưởng bỏ cuộc thối lui; và tiếp theo là … lối cũ ta về. Xong phim.
Nếu thờ phượng Chúa theo “kiểu mới” – tức trên cơ sở đức tin nơi sự chết đền tội của Đức Chúa Giê-xu mà thôi – là ô-kơ, là very gút, thì tại sao tụi tui lại bị ‘uýnh’ đến lên bờ xuống ruộng như dzầy? Sai mới bị bắt, chớ đúng thì sao lại bị bắt, rồi còn bị uýnh?
Quý dzị bị bắt bớ, bị ngược đãi và thậm chí bị uýnh không phải vì quý dzị đã phạm sai lầm đâu. Quí dzị bị (mà đúng ra là được) như dzậy là vì quý dzị đang ở trong giai đoạn tập luyện đức tin đấy thôi. Nếu hành trình theo Chúa mà chỉ toàn có hoa thơm cỏ lạ, toàn thành công với lại an nhàn thì cần gì đến đức tin, đúng hôn? Nếu đời ta mà không có nan đề, thử thách, đau đớn, hay thất bại thì dễ gì mà ta chịu nắm lấy Chúa, dễ gì ta chịu bám lấy Chúa. Nếu đời ta mà không có nan đề, thử thách, đau đớn, hay thất bại thì lấy gì mà rèn tập đức tin.
Đức tin mà không được tập luyện thì èo uốt, ẻo lả, chả nên tích sự gì. Loại đức tin ấy thì có cũng như không. Mà một đời sống không có đức tin thì “không thể nào sống đẹp lòng Đức Chúa Trời” được.
Sống chung với nhau mà “không đẹp lòng” nhau, không hài lòng nhau, không vui vẻ với nhau, thì … sung sướng cái nỗi chi. Đó là cái cảnh BỊ sống chung, chớ đâu phải ĐƯỢC sống chung, dù là sống chung với Chúa đi nữa, đúng không?
Nầy, hãy thành thật tự kiểm tra xem là bạn đang BỊ tin Chúa hay ĐƯỢC (tự nguyện) tin nhận Chúa; BỊ đi nhà thờ hay ĐƯỢC đi nhà thờ; BỊ thờ phượng Chúa hay ĐƯỢC thờ phượng Chúa; BỊ cầu nguyện hay ĐƯỢC cầu nguyện với Chúa; BỊ đọc Kinh Thánh hay ĐƯỢC đọc Kinh Thánh; BỊ dâng hiến hay ĐƯỢC dâng hiến; BỊ hầu việc Chúa hay ĐƯỢC hầu việc Chúa; …?
Thôi được rồi, ‘chiện’ hoạn nạn, thử thách, thậm chí bị chống đối hay bắt bớ là điều không tránh khỏi trên hành trình bước đi với Chúa theo “kiểu mới”, đúng hôn? Dzậy làm thế nào để tui có thể dzượt qua mọi trở ngại đó cách … ngon lành? – Dễ ẹt. Chỉ cần bước đi hay hành xử bởi đức tin thôi.
Bởi đức tin, là sao? – Là giống như những người tin theo Chúa trong thời xưa dzậy đó. Họ chỉ là những người bình thường, nhưng lại làm được những chuyện phi thường, lưu danh sử sách đấy.
Bí quyết gì í à? – Họ chỉ đơn sơ tin nơi tất cả những gì Chúa phán hứa, và tin rằng, Chúa sẽ hoàn thành tất cả những gì Ngài đã hứa. Nói cách khác, những người được Chúa công nhận là những anh hùng đức tin trong thời Cựu Ước đã sống cuộc đời của mình dựa trên những lời hứa của Đức Chúa Trời – thậm chí có những lời hứa mà đến hàng thế kỷ về sau mới được ứng nghiệm!
Nói cách nôm na thì đức tin có nghĩa là an nghỉ, là vui hưởng nơi những gì mà Đấng Christ đã làm cho chúng ta trong quá khứ, và đồng thời nó còn có nghĩa là trông đợi những gì Ngài sẽ đem đến cho chúng ta trong tương lai.
Bạn có nhớ cảm giác của mình lúc còn bé mỗi khi gần đến ngày sinh nhật không? Rất là phấn khích và hồi hộp, đúng không. Bạn biết chắc là mình sẽ được nhận quà cùng những sự thiết đãi đặc biệt. Tuy nhiên, sẽ còn có đôi điều lúc ấy khiến ta phải tròn xoe mắt … sửng sờ và sung sướng!
Tiệc sinh nhật bao gồm … cả sự bảo đảm lẫn sự biết trước, và đức tin cũng giống như vậy (11:1). Đức tin được xác lập cách vững chắc trên những kinh nghiệm trong quá khứ rằng những điều tốt lành tươi mới đầy kinh ngạc từ nơi Đức Chúa Trời chắn chắn sẽ thuộc về mỗi một chúng ta.
“Những kinh nghiệm trong quá khứ” chính là những gương mẫu của những anh hùng đức tin trong Cựu Ước. Đó là những chuẩn mực cho một đời sống tin kính mà chúng ta được kêu gọi noi theo. Nhưng đến đó chưa phải là đỉnh đâu nha. Chúng ta còn được kêu gọi để … bước lên một lê-vồ (level) sống đức tin cao hơn hẳn nữa đấy. Đó là sống theo gương mẫu của Chúa Cứu Thế Giê-xu – “Đấng Khởi Đầu và Đấng Hoàn Tất đức tin, Đấng vì niềm vui trước mặt đã gánh chịu thập tự giá, coi thường sỉ nhục, và đang ngồi bên phải ngai Đức Chúa Trời.” (12:2)
Trên bước đường theo Chúa, khi phải đối diện với những thử thách, hay bị bách hại chống đối vì cớ niềm tin thì có hai xu hướng cám dỗ thường xảy ra. Hoặc là “lối cũ ta về”, tức là trở lại với tôn giáo cũ, niềm tin cũ, hoặc là sống buông thả, không “theo đuổi sự thánh khiết” dù vẫn còn đi nhà thờ, vẫn còn giữ lễ. Cả hai đều là nô gút (no good), xấu đều như nhau. Cả hai đều “hụt mất ân sủng của Đức Chúa Trời”, cả hai đều “chẳng ai thấy được Chúa” (12:12-17)
Để giữ vững được “phong độ” trên đường đua này, người tin Chúa cần phải thường xuyên đọc lại gương anh hùng đức tin của những người đi trước, liên tục nhìn xem Chúa Giê-xu, đồng thời duy trì và phát triển mối quan hệ cách năng động với những anh chị em đồng đức tin, từ trong gia đình cho đến trong hội thánh (13:1-19).
Thế giới đang đi dần đến chỗ kết thúc, mỗi một ngày có thêm nhiều chuyện “rúng động” xảy ra trong mọi lĩnh lực, từ đạo đức, chính trị, kinh tế, thiên nhiên, …
Chúa đấy.
Chúa đang “dẹp bỏ các vật bị rúng động tức là các loài tạo vật để những điều bất di bất dịch tồn tại mãi mãi”. Thế thì, hỡi anh chị em, hãy tỉnh thức, “hãy ghi ơn và hãy lấy lòng kính sợ, tôn kính mà phục vụ Đức Chúa Trời cách đẹp lòng Ngài” (12:27-28)
Cầu xin Đức Chúa Trời bình an, là Đấng bởi huyết giao ước đời đời mà đem Đấng Chăn Chiên Lớn là Đức Chúa Jêsus, Chúa chúng ta, ra khỏi cõi chết, cung ứng cho anh em mọi ơn lành để làm theo ý muốn Ngài, và thực hiện điều đẹp ý Ngài trong chúng ta qua Đức Chúa Jêsus Christ. Nguyện vinh quang quy về Ngài đời đời vô cùng! A-men.” (13:20-21)


Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2015

CAO TRỌNG HƠN KINH LUẬT MÔI-SE

Hê-bơ-rơ 8-10
Đền Tạm (hoặc Đền Thờ tại Jerusalem) thời Cựu Ước liên hệ mật thiết với hệ thống Luật Pháp Môi-se. Hệ thống luật này bao gồm Mười Điều Răn, các giáo nghi, giáo luật, dân luật, … (Xem: Xuất hành 20-24; Lê-vi ký 1-17 hay Bộ Hành Xuyên Kinh Thánh thuộc các ngày 25-26/1; 1-5/2).
Nói như bác Pôl trong thơ Roma thì hệ thống Luật Pháp này là very, very gút. Đó là những hướng dẫn hoàn hảo cho mọi hành xử của con người. Thế nhưng, khi đi vào thực tế thì những điều luật này bị vô hiệu hóa. Chúng bị vô hiệu không phải vì chúng hỏng, mà là … chúng ta bị hỏng, các bác ạ.
Con người chúng ta yếu đuối và bất lực trong việc vâng giữ những đòi hỏi của Lề Luật này. Ngay cả khi chúng ta cố gắng đến mức tốt nhất đi nữa, thì tất cả những gì mà chúng ta đạt được chỉ là sự vâng giữ bề ngoài để tránh bị đòn, chớ bên trong thì vẫn còn lắm sân, si, … sai. Đúng hôn?
Chức vụ tế lễ A-rôn cùng việc thờ phượng Thiên Chúa qua việc dâng tế lễ nơi Đền Thờ là một phần trong hệ thống Luật Pháp Môi-se được Đức Chúa Trời thiết lập tại núi Sinai, như là giao ước với dân sự của Ngài. Đó là Giao Ước Cũ, hay Cựu Ước.
Vì Giao Ước cũ, như đã nói ở trên, là chưa hoàn hảo, nên một Giao Ước Mới phải được thiết lập là lẽ đương nhiên (8:7). Giao Ước mới cũng được xây dựng trên cơ sở dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời bởi chức vụ của các thầy tế lễ, nhưng ở cấp độ vượt trỗi hơn, chất lượng hoàn toàn tốt hơn hẵn.
Trong Giao Ước cũ, A-rôn là thượng tế, còn trong Giao Ước mới thì thượng tế là Đức Chúa Giê-xu Christ. Trong Giao Ước cũ thì tế lễ là thịt các con thú nuôi hay ngũ cốc được dâng tế, còn trong Giao Ước mới thì chính mạng sống của Đức Giê-xu Christ là sinh tế (9:1-28). Điểm khác biệt nữa là trong Giao Ước cũ, thì việc dâng tế lễ cứ phải lập đi lập lại hoài, hết lần này đến làn khác, hết năm này đến năm khác, còn trong Giao Ước mới thì “chỉ một lần là đủ cho tất cả” (9:12; 10:1-4, 11-14, 18).
Và chuyện này đã xảy ra rồi, tức Giao Ước mới đã được lập rồi, Di Chúc đã được lập rồi. Và vì người lập di chúc cũng đã chết rồi nên Di Chúc này đã có hiệu lực rồi (9:16). Đấy, ý của tác giả thơ Hê-bơ-rơ là rứa đấy.  
Đối với Cơ-đốc nhân gốc Do Thái thì chuyện “Cũ Mới” này là có lý do để lăn tăn, còn đối với chúng ta – những người vốn không thuộc giao ước nào ráo trọi – thì không gặp khó khăn gì trong việc đón nhận hay bước vào Giao Ước mới này cả, đúng không?
Nếu có ai đó cắc cớ hỏi: “Tại sao hằng năm không thấy mấy ông cúng tế gì hết vậy?” thì hãy lịch sự mà trả lời người ấy như ri: “Sao không. Xong lâu gồi. Do tụi này dâng lễ đúng chuẩn, cực chuẩn luôn, một lần là đủ cho tất cả, nên không phải cúng đi cúng lại hàng năm như ông đó thôi!”
Nhớ là, trước khi nói câu này thì phải chuẩn bị “đồ nghề’ để chứng đạo nha. Kiểu gì thằng chả cũng théc méc, rồi hỏi tới cho coi. He he
Nhân đây, cũng xin nhắc lại một lần nữa với các bạn trẻ – nhất là những bạn có xu hướng muốn phục hồi lại tất cả những gì liên quan đến sự thờ phượng của người Do-thái – rằng thì là chúng ta đã vào trong Giao ước mới, tức là đã ‘xài’ HÌNH THẬT từ đời tám hoánh nào rồi, nên đừng có thiêng liêng hóa, hay thần thánh hóa những lễ hội này nọ của họ nữa nha. Trừ lễ Thổi Kèn ra thì tất cả các kỳ lễ của người Do Thái đã ứng nghiệm hoàn toàn trong Đức Chúa Giê-xu Christ rồi còn đâu.
Do đó, trong sự thờ phượng Chúa, chúng ta cũng nên phân biệt rõ đâu là nguyên tắc bất biến của Thánh Kinh, đâu là “hàng đã hết hạn sử dụng” và đâu là ảnh hưởng văn hóa bản địa lên sinh hoạt của Hội Thánh.
Chẳng hạn, múa cờ khi thờ phượng Chúa thì không có gì sai trật, đúng không? Nhưng đâu có chỗ nào trong Kinh Thánh đề cập đến việc đấy. Đó là văn hóa. Rồi hành hương về xứ Thánh, về Jerusalem. Đó cũng là văn hóa. Chính vì vậy mà bất kỳ Cơ-đốc nhân Indonesia nào cũng muốn được một lần trong đời về thăm Israel. Ấy là ảnh hưởng từ gốc rễ Hồi Giáo trước đây của họ.
Điều cuối cùng trong phần Kinh Thánh hôm nay là một lời cảnh bảo – lời cảnh báo thứ 5: Đừng tự lừa dối chính mình!
Là răng? – Là lạm dụng hay khinh lờn ân điển của Đức Chúa Trời chớ răng.
Bởi sự chết đền tội của Đức Chúa Giê-xu mà con đường vào nơi Chí Thánh hay Cực thánh đã mở toang ra đối với tất cả chúng ta, là những kẻ tin. Chúng ta không còn cần phải dâng tế lễ hay vâng giữ luật này, lệ nọ để được cứu nữa. Chúng ta ĐÃ ĐƯỢC CỨU RỒI. Tất cả những ai thật lòng đặt lòng tin nơi Đức Chúa Giê-xu Christ thì đã được sạch tội rồi.
Chuyện bây giờ là “vào nơi Chí Thánh” nè.
Có phải vì tấm màn chắn (giữa nơi Chí Thánh và nơi Thánh) không còn nữa thì độ “thánh” của Đức Chúa Trời sẽ bị giảm xuống hoặc là những đòi hỏi nghiêm ngặt đối với những người vào nơi ấy, tức là mỗi một chúng ta, cũng được … du di cho thoáng hơn chăng?
Ở đó mà mơ nha các anh, các cha. Để biết thêm chi tiết, xin vui lòng … đọc kỹ phần còn lại của chương Kinh Thánh hôm nay (10:19-39) cho đến câu cuối cùng của lá thơ này. Đọc đi để biết Chúa yêu cầu ta PHẢI TỪ BỎ điều gì, PHẢI COI CHỪNG chuyện gì, phải VÂNG LỜI điều gì, PHẢI LÀM THEO việc gì ... để có thể vào tận nơi Chí Thánh mà không phải mất mạng nha cưng.
Khi đi vào khu vực có điện thế cao chừng nào thì cần phải trang bị đồ bảo hộ lao động càng chất lượng chừng nấy. Nơi Chí Thánh là khu vực “điện thế … siêu cao” đấy. Hỡi anh chị em, chớ có khinh lờn, vì “sa vào tay Đức Chúa Trời Hằng Sống là một điều khủng khiếp!” đó nha (10:31)


Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2015

CAO TRỌNG HƠN MỌI TƯ TẾ

Hê-bơ-rơ 5-7 
Việc thờ phượng tại Đền Tạm và về sau tại Đền Thờ Jerusalem là trung tâm điểm trong đời sống và sinh hoạt của Y-sơ-ra-ên. Mà thành tố quyết định trong sự thờ phượng đó chính là chức vụ tư tế hay tế lễ, khởi đầu với thượng tế A-rôn và các con trai của ông. Thế nhưng, Đức Chúa Giê-xu Christ là một vị tư tế vượt trội hơn hẳn. Ấy là vì Ngài thuộc về một ban thứ tư tế vượt trội: ban thứ Mên-chi-xê-đéc, tư tế hoàng gia (Sáng Thế 14: 18-20).
Răng lại rứa? – Bởi vì Mê-chi-xê-đéc ‘lên sân khấu’ trước A-rôn, và chức tế lễ của ông là vô tận, không có khởi đầu, cũng chẳng có kết thúc. Cũng một cách ấy, Đấng Christ làm thầy tế lễ đời đời. Ngài đã chết một lần đủ cả, làm sinh tế đời đời vì cớ tội lỗi.
Đây là những lẽ thật khó nuốt trôi đối với những Cơ-đốc nhân gốc Do thái như tác giả thơ Hê-bơ-rơ nhìn nhận. Nó đòi hỏi một sự trưởng thành tương đối để lãnh hội. Tuy nhiên, đây là những lẽ thật mang tính đổi đời một khi chúng được … cài đặt thành công!
Là những Cơ-đốc nhân gốc ngoại giáo thì hầu hết chúng ta không gặp rắc rối gì trong việc tin nhận rằng, Đức Chúa Giê-xu Christ là vị Thượng Tế, tức người đứng đầu của tất cả những thầy tế lễ từ xưa đến nay. Và chúng ta cũng không khó khăn gì để xưng nhận rằng Chúa Giê-xu là thượng tế đời đời, hiện đang ngồi bên phải Đức Chúa Cha tại nơi cao trên trời để cầu thay cho những người tin thờ Ngài.
Thế thì, ta học được điều gì từ 3 chương Kinh Thánh của này hôm nay?
Hẳn nhiên, bài học dạy dỗ thì … lủ khủ luôn. Song trong phần ‘bình lựng’ hôm nay chúng ta chỉ tập trung ‘soi’ một chỗ thôi. Đó là phân đoạn 5: 11 - 6:8. Phần Kinh Thánh này cũng chính là lời cảnh báo thứ 3 của thơ tín này đấy.
“Đáng lẽ anh em đã làm thầy từ lâu rồi, nay còn cần người ta lấy những điều sơ học của lời Đức Chúa Trời mà dạy anh em; anh em cần ăn sữa thay vì đồ ăn đặc” (5:12)
“Vậy, chúng ta phải bỏ qua các điều sơ học (bài học vỡ lòng) về đạo Đấng Christ mà tiến tới sự trưởng thành; đừng đặt lại những vấn đề nền tảng nữa” (6: 1)
Nan đề mà những Cơ-đốc nhân gốc Do Thái giáo gặp phải ở đây là gì? - Ấy là họ cứ dềnh dứ, cứ ‘chạy tại chỗ’ quanh chân thập tự chớ nhất định không chịu tiến lên, dứt khoát không tiến xa hơn khỏi ngôi mộ trống. Điều này cũng tương tự như ngày nay, còn có rất nhiều Cơ-đốc nhân – hạng thứ dân có, mà hạng sư thầy cũng có – cứ quanh quẩn bên chân thập giá mà thôi. Những người này suốt ngày cứ nói về việc được cứu bởi ân điển, về quyền năng của Huyết Chúa Giê-xu như thể cả thế giới đang phủ nhận chuyện ấy không bằng.
Mà có ai trong các hội thánh Đấng Christ phủ nhận những lẽ thật đó đâu cơ chứ. Đó là “những điều sơ học”, “những bài học vỡ lòng” về đạo Đấng Christ kia mà. Sao không chịu chuyển lên các lớp trên mà cứ ‘lưu ban’ tại lớp 1 hoài dzậy? Mà lưu ban cũng có giới hạn đó nha. Một vài năm thì còn du di, chớ đến năm thứ ba thì chắc chắn là … ‘hết cửa rồi cưng’! Chịu khó lên lớp trên học dùm đi nha các anh, các cha. Bộ muốn bị đuổi học vĩnh viễn hay sao mà cứ suốt ngày cứ đánh vần a b c mãi rứa?
Một khi cứ duy trì tình trạng … “chạy tại chỗ” như thế, thì đến một lúc những Cơ-đốc nhân gốc Do Thái giáo năm xưa đang đứng bổng … chuyển sang thụt lùi. Điểm này thì có lẽ khác biệt, và … nghịch hướng với những người theo tinh thần duy ân điển ngày nay. Tuy vậy, điểm chung của hai nhóm (duy ân và duy luật) này là điều hiểu biết cách không đầy đủ về ơn cứu rỗi nơi Đức Chúa Giê-xu.
Luận về chuyện ‘cài số lùi’ của mấy ‘eng’ đạo gốc … Do Thái, tác giả thơ Hê-bơ-rơ huỵch toẹt như ri:
“Những người từng được soi sáng, từng nếm ân tứ thiên thượng, từng dự phần về Thánh Linh, từng kinh nghiệm lời tốt lành của Đức Chúa Trời cũng như các quyền năng của đời tương lai. Nếu họ SA NGÃ thì không thể nào phục hồi để ăn năn trở lại; họ đã tự mình đóng đinh Con Đức Chúa Trời một lần nữa và công khai sỉ nhục Ngài” (6:6).
Từ “SA NGÔ ở đây không có ý nói về việc một người đã tin nhận Chúa nhưng sau đó phạm tội, sa ngã. Bởi cớ, hầu hết mọi tín hữu đều rơi vào tình trạng đó vì thói quen phạm tội của con người cũ. Và một khi đã phạm tội thì giải pháp ‘cứu hộ’ là ăn năn, xưng tội với Chúa (1Giăng 1: 9).
Từ “SA NGÔ được đề cập ở đây là có ý nói về những ai đã từng nhận được ơn cứu rỗi CHỈ BỞI ĐỨC TIN nơi Đức Chúa Giê-xu Christ, nay bổng dưng quyết định … cải đạo, trở lại Do Thái giáo để được cứu rỗi thông qua việc TUÂN GIỮ CÁC NGHI THỨC TẾ TỤNG của thời Cựu ước. Kinh Thánh cảnh báo là loại SA NGà này, thực chất là chối Chúa Giê-xu, thì KHÔNG THỂ NÀO PHỤC HỒI ĐỂ ĂN NĂN TRỞ LẠI!
Có thể, đối với những người này thì chỉ TIN nơi Chúa Giê-xu là chưa đủ và không chắc để được cứu, nên họ quyết định (hoặc đang ấm áp tư tưởng) … nghỉ chơi với Chúa luôn! Và khi mà một Cơ-đốc nhân đi đến quyết định nghỉ chơi với Chúa Giê-xu thì đây là … ‘hậu vận’ đang chờ ‘hắn’:“đất … sinh gai gốc, chà chuôm … đất trở thành vô giá trị, gần bị rủa sả và cuối cùng bị thiêu đốt.” (6: 8)
Không phải chỉ có Cơ-đốc nhân gốc Do Thái giáo ngày xưa mới sa vào cám dỗ này. Ngày nay, vẫn còn đấy. Việc Mục sư Ulf Ekman, vị sáng lập Hội Thánh Lời Sự Sống quyết định cải đạo sang Công Giáo vào tháng 4 năm 2014 là một lời cảnh báo nóng hổi đối với mỗi một chúng ta. Thế thì, hỡi anh chị em “ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” (1 Cô-rinh-tô 10: 12)


Thứ Năm, 10 tháng 12, 2015

CAO TRỌNG HƠN MỌI LÃNH TỤ

Hê-bơ-rơ 3-4 
Những đối thủ tiếp theo sẽ thượng đài để … ‘so tài cao thấp’ với Đấng Christ là Môi-se và Giô-suê – những người vĩ đại của Đức Chúa Trời, những người từng được Chúa đại dụng. Người Do Thái gần như là thần tượng hai vị lãnh tụ này và xem họ như là mẫu mực tuyệt đỉnh của việc được Đức Chúa Trời đại dụng.
Trong chương 3, Đức Chúa Giê-xu được … ‘so kè’ với Môi-se, còn trong chương 4 thì Ngài được so với Giô-suê. Đâu là lý chứng của người viết thơ? – Đơn giản ri nè: Môi-se là đầy tớ trong nhà Đức Chúa Trời. Còn Đức Giê-xu là Con của chủ nhà. Thế thì Ngài cao trọng hơn Môi-se là không còn gì để bàn cãi nữa rồi, đúng không?
Môi-se chỉ là tớ, còn Đức Giê-xu là Chủ. Môi-se đã dẫn dân sự Chúa ra khỏi Ai-cập để vào xứ hứa Canaan, là hình bóng cho sự an nghỉ của Đức Chúa Trời – sự an nghỉ và bình tịnh mà Chúa muốn cho tất cả chúng ta được kinh nghiệm thông qua đức tin nơi Đức Chúa Giê-xu Christ. Môi-se dẫn dân tộc mình hướng về sự an nghỉ mang tính biểu tượng, còn Đức Giê-xu thì đem tất cả mọi người vào trong sự an nghỉ thật.
Đó là sự an nghỉ được định sẵn cho chúng ta: “Thế thì vẫn còn sự an nghỉ ngày thứ bảy cho dân Đức Chúa Trời, vì người nào vào sự an nghỉ đó thì nghỉ các công việc mình cũng như Đức Chúa Trời đã nghỉ công việc của Ngài.” (4: 9-10)
Điểm nhấn của phần này là ri: Nếu ngừng nương cậy nơi bản thân và nỗ lực của chính mình, thì bạn sẽ bước vào sự an nghỉ, vì cớ bạn đã bắt đầu nương cậy nơi công tác của Đức Chúa Trời trong bạn. Đó là ‘bí kíp’ bị đánh mất của nhân loại. Đó là ‘bí kíp’ mà A-đam và Ê-va đã đánh mất tại vườn Ê-đen và chỉ mỗi mình Đức Chúa Giê-xu Christ đã đến để phục hồi lại cho chúng ta.
Một khi chúng ta học biết sống bởi công tác của Đức Chúa Trời trong chúng ta thay vì bởi công đức hay nỗ lực của riêng mình, thì chúng ta sẽ kinh nghiệm một đời sống thật sự bình an, yên tĩnh, đầy lòng tin cậy và đầy quyền năng và không bị khuấy động bởi ngoại cảnh. Và nhờ đó, ta có thể hoàn thành những việc lớn cho Chúa. Nghịch lý của nguyên tắc này là không có gì tích cực hơn, hiệu quả hơn và mạnh mẽ hơn so với một đời sống được ở trong sự an nghỉ của Đức Chúa Trời.
Giô-suê đã cố nhưng không thể đem dân sự vào trong sự an nghỉ thật. Ông chỉ đem họ vào được đất hứa, biểu tượng của sự an nghỉ mà thôi. Chỉ duy có Đức Chúa Giê-xu mới ban cho chúng ta sự an nghỉ thật. Thơ Hê-bơ-rơ bảo chúng ta rằng, “Vậy, chúng ta hãy gắng sức vào sự an nghỉ đó” (4: 11). Do đó, chúng ta cần tránh để không bị ngã đổ như những người Y-sơ-ra-ên không vâng phục khi bộ hành trong sa mạc năm xưa. Họ đã gục ngã, ra khỏi đường lối Chúa và đánh mất phước hạnh mà Chúa dành cho đời sống của mình.
Trong chương 3, còn có một lời cảnh báo thứ 2 (lời cảnh báo thứ nhất thuộc về phần Kinh Thánh của ngày hôm qua 2: 1-3): 
“Thưa anh chị em, hãy thận trọng để không một ai trong anh chị em có lòng gian ác và vô tín đến nỗi lìa bỏ Đức Chúa Trời hằng sống. Nhưng cứ khuyến cáo nhau hằng ngày đang khi còn được gọi là ‘ngày nay’ để không một ai bị tội lỗi lừa gạt mà cứng lòng, vì chúng ta được dự phần với Chúa Cứu Thế nếu chúng ta giữ vững niềm tin cậy ban đầu của mình cho đến cuối cùng! Như Kinh Thánh dạy: ‘Ngày nay, nếu các ngươi nghe tiếng Ngài thì đừng cứng lòng như tổ phụ các ngươi trong cuộc khiêu khích Đức Chúa Trời’”  (3: 12-15)
Hãy ghi nhớ và hết sức chú ý nơi lời cảnh báo này: Đừng cứng lòng và đừng chống cự lại sự hướng dẫn của Đức Chúa Trời. Đừng bao giờ nói với chính mình rằng: “Tôi luôn đúng trong đường lối mình. Mọi việc đều ô-kơ cả. Không cần phải thực hiện bất kỳ một sự tiến bộ nào trong mối quan hệ của tôi với Chúa cả. Tôi không cần phải nghe Chúa phán thêm nữa. Tôi không cần phải bước vào trong sự an nghỉ của Ngài”.
Một câu hỏi mà mỗi một chúng ta, những người tin thờ Chúa, cần phải thường xuyên tự chất vấn chính mình cách nghiêm túc và thành thật. Đó là: “Mình vẫn còn đang sống trong sa mạc hay đã thật sự được vào sống trong sự an nghỉ của Đức Chúa Trời?” Nếu câu trả lời là “sa mạc” thì lòng của chúng ta vẫn đang còn bị ‘sa mạc hóa’ đấy hỡi anh chị em. Mà nếu ta đang trong tình trạng cứng lòng thì chuyện chống nghịch Chúa là điều hết sức tự nhiên.
Anh chị em còn nhớ ẩn dụ về người gieo giống không? Đất vệ đường và đất đá sỏi là có bà con họ hàng với một tấm lòng bị sa mạc hóa đấy. Một tấm lòng như thế thì vô cùng khó khăn để nhận lãnh bất cứ điều gì từ nơi Đức Chúa Trời (sự mặc khải, ân tứ Thánh Linh, sự thăm viếng, phước hạnh, ...). Có chăng chỉ là một đời sống bất an, khô hạn cùng cực mà thôi.


Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

CAO TRỌNG HƠN MỌI THIÊN SỨ

Hê-bơ-rơ 1-2           
Tuy cũng được gọi là … ‘meo’ (mail), nhưng meo Hê-bơ-gơ (nói theo giọng Tây Nam Bộ) đúng là … không giống ai hết á. Ấy là vì ‘em’ nó có khởi đầu giống như một luận văn, có khúc giữa không khác chi một bài bài giảng và đoạn cuối, may quá, mới có chút ít tạm gọi là … meo!
Chưa hết, vì cớ người viết ẩn danh nên cho đến tận hôm nay, người ta vẫn còn cãi nhau chí chóe về tác quyền của nó. Rồi còn đối tượng nhận meo nữa chứ. Họ chéc cú là những Cơ-đốc nhân gốc Do Thái, nhưng họ sống ở đâu, thân thế sự nghiệp ra sao thì rất chi là tù mù. Chỉ có một điều ta được biết: ấy là mấy bạn này đang ấm áp tư tưởng lìa bỏ đức tin thật nơi Đức Chúa Giê-xu để trở lại thờ phượng Đức Chúa Trời theo kiểu cũ của Do Thái giáo.
Thơ Hê-bơ-rơ tập trung vào chính Đức Chúa Giê-xu, nền tảng đức tin căn bản và vững bền của người tin thờ Chúa. Chừng nào mà một tín hữu còn neo chặt niềm tin của mình nơi nền tảng này, tức là Đức Chúa Giê-xu, thì chừng đó người ấy sẽ còn được an toàn. Còn nếu khác đi thì chiếc thuyền cuộc đời của người chắc chắn sẽ bị trôi giạt, chìm đắm (2:1).
Tác giả dành trọn chương 1 để minh chứng rằng, Đức Chúa Giê-xu cao trọng hơn, vượt trội hơn mọi thiên sứ. Chúa Giê-xu cao trọng hơn mọi cấp bậc thiên sứ, vì Ngài là Con Đức Chúa Trời và các thiên sứ phải thờ lạy Ngài (1: 5-6).
Nếu chỉ đọc có chừng ni thì nhiều người sẽ bù lu bù loa lên rằng, Đức Giê-xu chỉ là con của Đức Chúa Trời mà thôi. Mà đã là con thì mần răng mà có thể ngang bằng Cha. Có lý quá đi chớ, đúng không? Thế nhưng, nếu đọc 2 câu 8-9 tiếp theo thì đảm bảo là sẽ bị … sốc hàng đấy.
Anh chị em có biết Đức Chúa Cha gọi Đức Con Giê-xu là gì không? – Là Đức Chúa Trời. Không những thế, Cha còn gọi Con là CHÚA, tức là Giê-hô-va đấy! (1: 8-10)
Mấy anh, mấy chị nào khoái trưng dẫn cổ ngữ nào Hê-bơ-rơ, nào Hy-lạp để lòe thiên hạ thì chịu khó gu-gồ hay gút-le (tùy theo cách nói của mỗi người) để xem từ CHÚA trong câu 10 có phải là Jehovah không nha. Một số người viện dẫn rằng, nhiều đối tượng trong Kinh Thánh cũng được gọi là chúa (hay thần) như Satan (2 Cô-rinh-tô 4: 4) hoặc một số thẩm phán trên đất (Thánh Thi 82: 1, 6).
Thêm nữa, mấy ảnh mấy chỉ còn cho rằng trong nguyên dzăn làm gì có chuyện viết hoa chữ ni (theós) nên … ai muốn hiểu sao hiểu. Ai muốn dịch chữ theós là Đức Chúa Trời thì dịch, còn riêng mấy anh, mấy chị này thì dứt khoát chỉ dịch là “thần”, là “chúa” (không viết hoa) mà thôi. Điều đó có nghĩa là Đức Giê-xu, theo những người này, chỉ là một vị thần không hơn không kém. Mà đã là một vị thần thì không thể ngang hàng với Đức Chúa Trời được, nói chi đến việc Giê-xu cũng chính là Đức Chúa Trời.
Cứ cho là cách dịch từ theós là thần, là chúa (không viết hoa) có đúng đi nữa, thì Đức Giê-xu không phải và cũng không thể là một vị thần bình thường. Bình thường sao được khi “vị thần” này là Đấng đã sáng tạo muôn vật, là Đấng sẽ cai quản muôn vật và hiện đang bảo tồn muôn vật. Bình thường sao được khi “vị thần” này là sự phản ánh của vinh quang Đức Chúa Trời và là hình ảnh trung thực của bản thể Đức Chúa Trời.
Có thần, có chúa nào lại đã có thể tẩy sạch tội lỗi cho nhân loại, và hiện đang ngồi bên phải Đấng Tôn Nghiêm, tức Đức Chúa Cha trên các tầng trời không? (1: 2-4). Câu trả lời luôn chắc chắn là không. Vì răng? – Vì Đức Chúa Giê-xu là duy nhất. Ngài vừa Đức Chúa Trời, cũng vừa là con người thật sự như mỗi một chúng ta. Khác biệt duy nhất: ấy là con người Giê-xu ấy không hề phạm tội!
Vâng, có thể còn khá nhiều người ngày nay tin theo cách lập luận vô cùng sâu … bọ của tà phái Chứng Nhân Giê-hô-va, kiên quyết không chấp nhận rằng Đức Chúa Giê-xu là Đức Chúa Trời. Thế nhưng, việc những người này chối bỏ ngôi vị Thiên Chúa của Đức Giê-xu không ảnh hưởng gì đến Ngài cả. Đức Chúa Trời đã xác nhận Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời và là CHÚA kia mà. Thế thì bạn chọn tin theo lời của ai về thân vị của Đức Chúa Giê-xu: lời của chính Đức Chúa Trời hay lời của ‘mấy cha, mấy anh’ tà giáo?
Nếu như chương 1, tác giả tập trung nói về con … Trời Giê-xu, tức ngôi vị Đức Chúa Trời của Đức Giê-xu thì chương 2, tác giả quay sang phần con người của Giê-xu, tức nhân tánh của Ngài.
Có một điều cần lưu ý là ở 2: 6-7, trong vài bản dịch tiếng Việt (Truyền Thống và Hiệu Đính) đã có sự … ‘viết hoa tùy tiện chữ … người’ dẫn đến việc hiểu nhầm chỗ ấy là nói về Chúa Giê-xu. Bản Dich Mới dịch chỗ này rất chuẩn. Và do đó, khi đọc những câu tiếp theo ta sẽ thấy được cách tác giả chứng minh Giê-xu chính là người đã làm trọn lời tiên tri Cựu ước. Ngài là Đầy Tớ chịu khổ, là Đấng Mê-sia, tức Đấng Cứu Thế đã từng được tiên báo từ ngàn xưa. Đối với những Cơ-đốc nhân người Do Thái – những người nhận ‘meo’ – thì những điều này là vô cùng, vô cùng quan trọng.
Thơ Hê-bơ-rơ không phải viết cho người chưa tin thờ Chúa mà là cho những người ĐÃ tin thờ Chúa. Hiểm họa được mô tả ở đây không phải là họ từ chối sự cứu rỗi mà là “coi thường ơn cứu rỗi lớn” (2: 2-3).
Thế nào là “coi thường ơn cứu rỗi”? – Coi thường là “không giữ vững lấy điều mình đã nghe”. Mà điều gì họ đã nghe? – Tin Lành về sự cứu rỗi bởi Đức Chúa Giê-xu mà đến, qua việc rao giảng của các nhân chứng và được xác nhận bởi những dấu kỳ, phép lạ và sự tuôn đổ của Đức Thánh Linh.
“Giữ vững” luôn bao gồm việc nghe cách cẩn thận, rồi gìn giữ và làm theo tất cả những gì mình đã nghe. Chính việc “gìn giữ và làm theo tất cả những gì mình đã nghe” lại là cửa ải, là vấn nạn không thể hoặc không muốn vượt qua của một ‘bộ phận không nhỏ’ … cựu tín đồ. Và vì cớ “không giữ vững lấy điều mình đã nghe” mà có biết bao nhiêu chiếc thuyền đời của những anh trai, chị gái vốn “sinh ra trong nhà có Đạo” hay đã từng một thời … “yêu mến Chúa thôi rồi” nay chẳng biết đang trôi giạt chốn mô.
Hóa ra, chuyện của những Cơ-đốc nhân gốc Do Thái trong thế kỷ thứ I nhưng vẫn còn luôn nóng hổi tính thời sự cho đến tận hôm nay. Vậy, hỡi anh chị em, hãy thường xuyên kiểm tra để xem ta có còn neo chặt đời mình nơi Đức Chúa Giê-xu chăng?


Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

NGƯỜI ƠI NHỚ … THA

Phi-lê-môn 
Thơ Phi-lê-môn là lá thơ ngắn nhất và mang tính riêng tư nhất của sứ đồ Phao-lô. Thơ này cũng thuộc vào nhóm những lá thơ viết từ ngục tù. Ngắn nhất nhưng ý nghĩa dạy dỗ thì không hề ngắn!
Số là ở hội thánh Colose có một đại gia tên là Phi-lê-môn. Có lẽ, chính Phao-lô đã hướng dẫn người này đến với Chúa. Ngày kia, có một nam nô lệ của Phi-lê-môn, tên là Ô-nê-sim bỏ trốn. Và khi trốn đi, dường như, Ô-nê-sim cũng có … cuỗm của ông chủ ít nhiều. Ngày qua tháng lại, Ô-nê-sim trôi dạt về tận thủ đô Rô-ma. Tại đó, không biết cơ duyên thế nào anh nô lệ trốn chủ này gặp phải Phao-lô. Thế là tin Chúa, rồi trở thành đệ tử rất chi là trung thành của bác í.
Sau khi tin nhận Chúa Giê-xu thì cuộc đời của Ô-nê-sim đổi thay nhiều lắm. Tội lỗi của anh í được Chúa tha nè; anh được trở nên là một phần trong gia đình của Đức Chúa Trời (với rất nhiều anh chị em mới trong Chúa Cứu Thế, bao gồm cả Phao-lô lẫn Phi-lê-môn); và nhận được một động lực mới để sống!
Thế nhưng, không phải tất cả đều thay đổi. Ô-nê-sim vẫn còn là nô lệ của Phi-lê-môn – một nô lệ bỏ trốn. Anh í vẫn còn là một tên trộm với món nợ phải trả cho chủ mình. Khoản ‘trễ hạn’ cần phải thanh toán này bao gồm sự bồi thường, ăn năn và trở lại chịu phục dưới quyền của Phi-lê-môn.
Vì Ô-nê-sim phải có trách nhiệm trong việc giải quyết những sai phạm của mình với người chủ cũ là Phi-lê-môn, nên Phao-lô đã viết lá thơ này cầu xin lòng khoan dung trên cơ sở tình yêu Thiên Chúa, rồi sai Ti-chi-cơ cùng với Ô-nê-sim trực tiếp mang về (Colose 4:7-9).
Đấy, đầu đuôi gốc ngọn là như thế. Và sau đây là những bài học áp dụng:
Trước hết, câu chuyện Ô-nê-sim, Phao-lô và Phi-lê-môn là bức tranh người thật việc thật, minh họa cách sống động cho lẽ đạo cứu rỗi. Trong đó, mỗi một chúng ta là tên nô lệ bỏ trốn Ô-nê-sim; Phi-lê-môn là hình ảnh của Đức Chúa Trời; còn Phao-lô người sẵn sàng đứng ra bảo lãnh cho Ô-nê-sim và nhận trách nhiệm bồi thường cho mọi sai phạm của Ô-nê-sim chính là hình bóng của Chúa Giê-xu.
Tiếp theo là bài học về sự tha thứ.
Tha cho những ai đã sai trật với mình, cho những ai đã làm tổn hại mình. Tha không phải là vì người đó xứng đáng được tha mà là vì vâng lời Chúa để tha, và là vì mình cũng là người đầy sai phạm từng được Chúa tha.
Sự tha thứ được nói đến trong thơ Phi-lê-môn không chỉ là bỏ qua, là không nhắc lại sai phạm của người mắc lỗi, mà còn là tiếp nhận lại, là chấp nhận người ấy, quý mến người ấy như trước khi có chuyện xảy ra và thậm chí còn quý hơn trước đó nữa cơ. Đó mới chính là sự tha thứ thật. Đó mới đúng nghĩa là Tin Lành, đó mới thật sự là Ân Điển.
Phi-lê-môn rất dễ dàng và vui lòng vâng lời Phao-lô để nhận lại Ô-nê-sim, không phải như một nô lệ mà là một người anh em, là vì ông ấy thật sự chịu ơn Phao-lô, ông ấy thật sự quý mến Phao-lô. Cũng một thể ấy, nếu bạn và tôi ý thức được rằng mình thật sự chịu ơn Chúa, thật sự quý mến Chúa thì việc vâng lời Chúa mà tha thứ, mà đón nhận trở lại những kẻ đã sai trật, đã gây hại cho mình chỉ còn là … “chuyện nhỏ như con thỏ” mà thôi.
Bài học tiếp theo là sự bồi thường.
Nói lời xin lỗi là việc cần phải làm nếu ta đã sai phạm với một ai đó. Thế còn những hậu quả mà ta đã gây ra cho người đó thì sao? – Thì phải đền chớ sao. Đức tin thì phải được thể hiện bằng hành động chớ. Đây mới thật sự là thách thức. Thật lòng hay không là chỗ này, chân thành hay không là chỗ này, chớ không phải chỉ có cái mồm: “ai em xo-ri”,  “ai em xo-ri” (I’m sorry) là xong đâu nha.
Nào, giờ thì điểm lại xem có những “khoản thanh toán đã quá hạn” nào mà mình chưa trả cho người ta không?
Chẳng hạn, khi bỏ công ty trốn ra ngoài, bạn có lấy cắp gì của chủ hay của công ty không? Rồi, sách, băng đĩa, nhạc cụ, đồ gia dụng, tiền vay, tiền nợ, … của người khác trong (những) năm qua thì sao?
Có thể, bạn chưa có điều kiện để trả cho xong thì bạn cũng phải đến gặp mặt với người ấy để thương lượng, để gia hạn hay để giải quyết theo một cách nào đó chớ. Đúng không? Ăn năn thật phải là như thế. Xin lỗi thật lòng thì phải là như thế.
Sắp hết năm rồi đó nha. Lo mà hoàn trả lại cho chủ những gì ta đã lấy cắp; Lo mà bồi thường, mà đền bù cho người ta những gì mình đã làm tổn hại. Đấy là lối sống của một người tin Chúa thật. Đấy mới là bằng chứng thật sự của một cuộc đời đã được Chúa biến đổi.
Bài học cuối cùng là … tuyệt chiêu khiến người ta vâng lời của bác Pôl.
Bác í bảo với Phi-lê-môn rằng, “dù trong Chúa Cứu Thế, tôi có quyền truyền bảo anh về việc anh nên làm, nhưng tôi thà lấy tình yêu thương nài xin anh thì hơn” (c. 8-9). Không dùng mệnh lệnh mà là khéo léo thuyết phục. Đó gọi là sử dụng “quyền lực mềm” đấy các bác lãnh đạo ạ. Cũng thì vâng lời, nhưng một đằng là … BỊ vâng lời, (nếu ta sử dụng mệnh lệnh), còn đằng kia là ĐƯỢC vâng lời.
Cầu xin Chúa giúp cho hết thảy chúng ta được như Phao-lô, biết khi nào nên cứng, khi nào nên mềm trong chức phận của một người hòa giải để hàn gắn lại những mối quan hệ gãy đổ trong Hội Thánh của Đức Chúa Trời ở khắp mọi nơi.