Chủ Nhật, 27 tháng 12, 2015

7 DẤU LẠ THƯỜNG

Khải Huyền 10-13 
Cụ Giăng lại mở ngoặc đơn một lần nữa đấy bà con ạ. Khác với cảnh im phăng phắt khoảng nữa giờ, lúc niêm phong thứ 7 được mở, khi kèn thứ 7 trỗi lên thì trên trời rất chi là … sôi nổi, náo động vì những lời chúc tụng dâng lên Thiên Chúa từ các thiên sứ và các trưởng lão quanh Ngai, còn dưới đất là động đất và mưa đá. Giờ chung kết đã điểm. Hay gọn một từ là HẾT GIỜ! (10: 6)
Trong 4 chương Kinh Thánh hôm nay, chúng ta sẽ gặp lại rất nhiều hình ảnh, chi tiết tương tự như trong các sách tiên tri Cựu ước, đặc biệt là trong hai sách Ê-xê-chi-ên và Đa-ni-ên.
Trước hết, đó là cảnh cụ Giăng ‘bị’ ăn … sách. Giống y chang tiên tri Ê-xê-chi-ên đúng không (Exechien 2: 8 - 3: 4). Cùng một nguyên tắc: phải nuốt Lời Chúa xong rồi mới có thể đi ra giảng Lời Chúa. Chúng ta không thể cho người khác những gì ta không có. Đừng dại dột mà “bỏ qua giai đoạn phát triển … Lời Chúa” nha anh chị em.
Tiếp theo là cảnh đo Đền Thờ. Cũng tương tự như trong Ê-xê-chi-ên 40 – 43, nhưng điểm khác nhau là trong Khải Huyền 11 thì chỉ nói lướt qua, chớ không đi vào chi tiết và chính Giăng phải làm công việc đó chớ không phải thiên sứ như trong Ê-xê-chi-ên.
Đến chương 13 thì hình ảnh các quái thú rõ ràng là copy gần nguyên mẫu trong sách Đa-ni-ên.
Những sự tương đồng này cũng sẽ giúp người đọc hôm nay có thể tự hiểu được ít nhiều về những biểu tượng mà Giăng đã sử dụng trong sách Khải Huyền này. Đó chính là nguyên tắc: “dùng Kinh Thánh để giải nghĩa Kinh Thánh” mà từ xưa đến nay luôn được người tin Chúa sử dụng khi đọc hiểu Lời Chúa.
Thường thì khi đọc sách Khải Huyền, người đọc thường bị cuốn vào vô vàn các hình ảnh, biểu tượng mà Giăng đã sử dụng. Người ta bị hút vào việc tìm cách giải thích, tìm cách xác định ý nghĩa của biểu tượng đó, hình ảnh đó. Mê đến độ quên hẳn việc phải rút ra những bài học áp dụng cho chính mình từ phần Kinh Thánh mà mình đọc hôm đó. Anh chị em có từng … trượt như thế chưa?
Hình ảnh đầu tiên, trong phần Kinh Thánh hôm nay, luôn khiến cho các nhà giải kinh, chuyên lẫn không chuyên, từ xưa đến nay … “đau cái điền”, chính là “hai nhân chứng của Chúa” trong 11: 4-12. Ai cũng muốn truy tận gốc lý lịch của hai vị này.
Một số căn cứ vào câu 4 thì cho rằng đây nói về tổng trấn Xô-rô-ba-bên và thượng tế Giê-hô-sua (Xachari 4). Số khác thì cho rằng, đây là Môi-se và Ê-li vì các phép lạ họ làm giống y chang như những gì mà Môi-se và Ê-li đã từng làm. Số khác thì khẳng định rằng, hai người này là Hê-nóc và Ê-li. Ấy là vì căn cứ theo Hê-bơ-rơ 9: 27 thì “theo như đã định cho loài người phải chết một lần, rồi chịu phán xét”, mà hai cụ này chưa … chết nên phải ‘tái xuất giang hồ’ để … chết.
Thoạt nghe thì vô cùng chí lý, nhưng thật ra thì có nhiều người (có thể là ngay trong chúng ta đây) sẽ không bao giờ … được chết! Trường hợp này xảy ra khi Đấng Christ tái lâm. Khi ấy, người nào thật lòng tin thờ Chúa sẽ được biến hóa trong tích tắc, được cất lên không trung gặp Chúa và hẳn nhiên, người ấy sẽ nỏ biết chết là gì. Sướng kinh luôn.
Chúng ta học được điều gì từ hai nhân chứng này của Chúa? – Trước hết, đó là trong bất cứ thời điểm nào, ở bất kỳ nơi đâu Chúa cũng luôn có những nhân chứng thật của Ngài. Bất kỳ thời điểm nào Chúa cũng luôn có sẵn những con người can đảm rao giảng Lời Ngài, bày tỏ ý muốn của Ngài cho tha nhân.
Tiếp theo, người được Chúa sai phái luôn được trang bị quyền năng siêu nhiên, cùng sự bảo vệ siêu nhiên. Và cuối cùng, khi một người đã được chọn là chứng nhân của Chúa thì ngay cả sự chết của người ấy cũng được sử dụng để làm chứng về Chúa, để tỉnh thức nhiều người.
Trong chương 12-13, cụ Giăng kể lại 7 dấu hay điềm lạ mà cụ tận mắt chiêm ngưỡng. Đó là một phụ nữ, một bé trai, một con rồng đỏ, thiên sứ trưởng Mi-ca-ên, trận chiến ‘cùng trời cuối đất’ và 2 con quái thú. Và 7 “dấu” này cũng hút … hàng không kém so với hai nhân chứng ở trên trong việc truy tìm ‘gốc tích’ nhân vật.
Người phụ nữ trong chương 12 rõ ràng không phải là Đức Mary như Giáo hội Công Giáo dạy, mà là hình ảnh của dân tộc Y-sơ-ra-ên, từ nơi dân tộc này mà Đấng Cứu Thế Giê-xu đã mặc lấy hình thể con người mà giáng trần. Do đó, “đứa con trai” chính là Chúa Giê-xu. Và cũng chỉ có Chúa Giê-xu mới thích hợp với câu: “con trai ấy sẽ dùng gậy sắt mà cai trị mọi dân tộc; đứa trẻ ấy được tiếp lên tới Đức Chúa Trời, và nơi ngôi Ngài” (12: 5).
Còn con rồng thì đã được giải thích tại chỗ rồi. Đó là “con rắn xưa, gọi là ma quỉ và Sa-tan, dỗ dành cả thiên hạ” (12: 9). Rõ mặt hắn rồi nhé. Thế thì, anh chị em lo mà tự xử với những tấm ảnh mà trước đây mình đã chụp với hắn, hay những hình ảnh hoặc vật dụng trong nhà có ảnh của hắn đi nhé. Không ai chịu nhận là mình đã rước quỷ, rước tà vào nhà để thờ để kính cả, nhưng rõ ràng là hình ảnh con rồng có mặt hơi bị nhiều trong đời sống của từng gia đình người Việt Nam. Thậm chí, người Việt ta còn nhận mình là con cháu của nó nữa cơ đấy.
Vâng, đó chỉ là những hình ảnh mà thôi. Nhưng đó là những vật đáng diệt, những vật dụng ghê tởm đối với Thiên Chúa đấy. Anh chị em có muốn làm vui lòng Chúa không?
Ta có thể nhìn thấy sự quan phòng hay cung ứng vào của Đức Chúa Trời dành cho dân sự của Ngài, mà trong trường hợp này là dân Israel, trước sự tấn công dồn dập của Sa-tan. Đúng là “Chúng sẽ giao chiến với con nhưng không thắng được — Đức Giê-hô-va phán vậy — vì Ta ở với con để giải cứu con.” (Giê-rê-mi 1: 19)
Trong chương 13, Giăng mô tả có hai con quái thú lần lượt xuất hiện. Một con “từ biển lên”, một “từ đất ra”. Rõ ràng cụ Giăng được Chúa cho thấy bản chất thú hay thú tính của hai nhân vật này. Hầu hết các nhà giải kinh đều cho rằng, con thú thứ nhất là Antichrist (có thể là một lãnh đạo chính trị), còn con thứ hai là một tiên tri giả (có thể là một lãnh đạo tôn giáo).
Nếu dùng cặp đôi Chúa Giê-xu – Giăng Báp-tít để so sánh thì cặp quái thú kia chính là Hàng Nhái … giống như thật. Một sẽ giả dạng Chúa Giê-xu, và một giả dạng Giăng Báp-tít. Mục đích là nhằm lừa dối người ta, đặc biệt là người Do Thái (Israel). Vì cho đến tận hôm nay, còn rất nhiều người Do Thái vẫn không chịu tin rằng Đức Giê-xu, người Na-xa-rét là Đấng Mê-sia, tức là Chúa Cứu Thế!
Con thú thứ hai, tức một tiên tri giả – một lãnh tụ tôn giáo nổi tiếng vào thời cuối cùng – có tên được số hóa là 666. Ba số 6 này cũng làm điên đầu không biết bao nhiêu người, cả học thật lẫn học giả đấy ạ. Hễ trên thế giới xuất hiện một nhân vật nào nỗi tiếng thì y như rằng, người ta vội vàng ‘số hóa’ tên của người ấy để xem có đúng là ‘hắn’ hay không. Thế là từ hoàng đế Nê-rô, đến Hít-le, … Tony Blair và gần nhất là Obama đều lọt vào tầm ngắm. Thế nhưng, con thú thứ hai không phải là một lãnh đạo chính trị, do đó nếu có soi thì phải soi các cha, các sư mới đúng chớ nhỉ.
Đối với người tin thờ Chúa, điều cần soi không phải là tên người này người kia có phải là 666 hay không, mà là lòng của mình có thật sự tỉnh thức, tâm của mình có còn gần Chúa khi giờ tái lâm của Chúa đã cận kề hay không.


Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

7 KÈN TRỔI TIẾNG

Khải Huyền 7-9 
Kèn ở đây là tiếng kèn phán xét, chớ không phải kèn thắng trận, hân hoan vui mừng chi mô nà. Đang trong Mùa Giáng Sinh mà thổi kèn này thì thoạt trông dường như không hợp cho lắm. Thế nhưng, đây là tiếng kèn cần thiết cho những ai cứ tiếp tục ngang bướng từ chối lời mời gọi chân tình của chính Chúa Giê-xu.
“Người nào khát, hãy đến cùng Ta mà uống! Người nào tin Ta thì sông nước trường sinh sẽ tuôn tràn từ cõi lòng mình, đúng như Kinh Thánh đã dạy” Giăng 7: 37-38)
“Vì Đức Chúa Trời đã sai Con Ngài đến thế gian không phải để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con mà được cứu. Ai tin Con thì không bị kết án đâu, còn ai không tin thì đã bị kết án rồi, vì không tin đến danh Con Một của Đức Chúa Trời.” (Giăng 3: 17-18)
Ba chương Kinh Thánh hôm nay tiếp tục hé lộ tiến độ … thi hành án của Đức Chúa Trời ở kỳ chung kết đời đối với những kẻ chống Chúa, chối Chúa, và từ khước Chúa.
6 niêm phong đã được tháo rồi. Tất cả đều nín thở chờ niêm phong thứ 7.
Không biết có phải nhằm mục đích tăng sự ‘keng thẻng’ cho độc giả hay không mà cụ Giăng đã tạm nghỉ giải lao giữa 2 ‘thằng’ 6-7. Thay vào đó, cụ í e hèm rồi … mở ngoặc đơn (lần thứ nhất).
Trong ngoặc đơn này, cụ lia ‘ống kính’ rẹt rẹt từ trời xuống đất, rồi từ đất lên trời. Đầu tiên là cụ ‘dzum’ cận cảnh 144 nghìn “đầy tớ của Đức Chúa Trời” từ trong các chi tộc của Y-sơ-ra-ên được đóng dấu “sản phẩm được bảo hộ độc quyền từ thiên đàng”, tức là “hàng miễn trừ ngoại giao, không được khám xét, không được xâm phạm dưới bất kỳ mọi hình thức”. Ngon lành chưa nà.
Vì quá ngon lành như rứa nên rất nhiều anh … tà (không phải tài nha) cứ “bắt quàng làm họ”. Chẳng hạn, ‘anh’ Chứng Nhân Giê-hô-va. Trước đây, mấy ảnh cho rằng tất tần tật trong cả thiên hạ chỉ có 144 nghìn người được kể là đầy tớ Chúa và được cứu vào ngày sau rốt mà thôi. Và 144 nghìn ‘sư thầy’ đó không ai khác hơn là tín đồ thuộc Chứng nhân Giê-hô-va. Nhưng về sau, khi giáo hội Chứng nhân Giê-hô-va tăng trưởng, thì mấy ảnh liền ‘cập nhật’ lại rằng con số 144 nghìn đấy là chỉ về 144 nghìn nhóm Chứng nhân Giê-hô-va được cứu trong ngày cuối cùng. Rõ là giảng giải kinh … dị, đúng không?
Trong số 144 nghìn người được ‘uýnh dấu’ từ trong dân Y-sơ-ra-ên ta không thấy có anh trai nào (không có chị gái nha) từ trong chi phái Đan hết á. Thế là một số người đã nháo nhào lên rằng thì là vì Đan là chi phái quậy … bà cố luôn, đầu têu cho chuyện thờ hình tượng trong dân Y-sơ-ra-ên nà (Sáng Thế 49: 17; Thẩm Phán 18: 30); Số khác thì còn đi xa hơn khi căn cứ trên Danien 11: 37; Giê-rê-mi 8: 16 rồi luận rằng có khi từ Đan sẽ xuất hiện Antichrist nên bị Chúa … ‘dứt’ sớm luôn. He he.
Thật ra, cứ ‘đen thùi lùi’ mà hiểu thì đây chỉ là 144 nghìn “đầy tớ của Đức Chúa Trời” từ trong dân Y-sơ-ra-ên vào thời kỳ Đại Nạn được dám tem chất lượng mà thôi (7: 3). Đấy nhiều khi ta vẫn cứ mắc phải căn bệnh đọc Kinh Thánh bằng trí (tức là in trí sẵn trong đầu trước khi đọc rồi), chớ không chịu đọc bằng mắt là thế.
Chương 8 và 9 mới thật sự là 7 kèn trổi tiếng. Dù bảo là ấn, là kèn nhưng thật ra là một loạt xê-ri tai họa hay hình phạt giáng xuống trên đất trong kỳ Đại Nạn. Đúng nghĩa là tơi bời khói lửa đấy.
Này nhé, ba tiếng kèn đầu đi liền với ba món … đổ lửa: mưa lửa, đá tảng lửa và sao lửa liên tục … dội lửa xuống đất liền, biển cả, sông ngòi. Cây cối cháy, cơ sở vật chất cháy, thú vật cháy, và … con người cũng bị … nướng cháy. Đã nóng vì cháy lại thiếu nước sạch để uống nên không biết bao người thoát chết cháy nhưng lại … dính chết khát. Chưa hết, dù lửa cháy rực trời đến một phần 3 quả đất như thế, nhưng Kinh Thánh lại bảo rằng, cả thế giới lại chìm trong mờ tối, vì cớ “trời, trăng, sao” … thiếu sáng. Thật là khó hiểu, và dường như mâu thuẩn đúng không?
Đã vậy, mà ‘tay’ đại bàng còn ngoạc mồm bảo là “chưa xi-nhê gì đâu nhá. Mấy ‘thằng’ sau mới kinh!”
Mà đúng là kinh thật. ‘Ông’ thứ 5 vừa quất một hơi thì thôi rồi châu chấu mẹ, châu chấu con từ vực sâu trào lên cứ như là núi lửa đang phun. Mà đấy không phải châu chấu thường đâu. Quỷ đấy, tà ma đấy. Eo ôi, Chúa giam đám ‘đầu … chấu’ này khi mô mà giờ đây lại thả chúng ra như rứa. Đám này mà đã tấn công ai thì người ấy chỉ còn biết kêu lên rằng, “chết còn sướng hơn”. Nhưng không thể chết được mới đau chớ.
Khá nhớ là trong linh giới, cụ Giăng nhìn thấy đám quỷ như châu chấu này nhưng con người lúc bấy giờ thì chắc chắn là sẽ không nhìn thấy gì cả. Có thể, trong cái nhìn tự nhiên của con người thì “họa châu chấu” này sẽ ở dưới hình thức một đại dịch quái ác nào đó cũng nên. Đại dịch này sẽ hoành hành khắp thế giới trong vòng năm tháng. Tuy không gây chết người nhưng hành hại người ta đến độ chết còn hơn là sống.
Rồi tiếp theo tiếng kèn thứ 6. Kèn thứ sáu được dán nhãn là “nạn thứ hai” (9: 12). Nạn này gắn liền với hoạt động của một đạo quân có đến 200 triệu người. Hai trăm triệu là một con số khổng lồ ngay cả thời chúng ta đang sống đây. May ra, chỉ có anh Tàu là có khả năng đủ chuẩn này.
Một điều đặc biệt mà chúng ta cần lưu ý là mối liên quan giữa thế lực thần linh và các hoạt động chiến tranh của con người trên đất. Câu 14 của chương 9 cho thấy rằng, vừa sau khi 4 ông ‘thần chiến tranh’ này được ‘thả tự do’ là dưới đất đã sẵn sàng 200 triệu quân để cùng thực thi một sứ mệnh: “tiêu diệt một phần ba loài người” (9: 15, 18).
Tuy vậy, cả ‘thần chiến tranh’ hay quân đội hùng hậu của con người cũng chỉ là ‘công cụ thi hành án’ trong tay của Đức Chúa Trời đối với những kẻ ác, tức những kẻ khước từ thờ lạy Chúa mà thôi. Nghe thì có vẻ rất là khó chấp nhận, nhưng nếu Chúa không gật đầu thì không ‘anh’ nào được quyền động đậy gì cả. Mà nếu Chúa gật đầu thì mấy ‘ảnh’ dù có hùng hổ đến đâu cũng chỉ được hành sự “theo đúng chỉ đạo” của Chúa mà thôi.
Điểm đặc biệt nữa liên quan đến cuộc động binh trong kỳ Đại Nạn là ‘xuất xứ’ của 4 ‘ông thần chiến tranh’: bên bờ sông cái Ơ-phơ-rát! Mà Ơ-phơ-rát nay thuộc I-rắc, nơi mà đạo quân Hồi Giáo IS đang lộng hành, giết người cách tàn bạo đấy.
Còn những hình ảnh rất chi là ‘quái thú’ như “đầu ngựa giống như đầu sư tử, và miệng nó có phun lửa, khói, và diêm sinh”, hay “Vì quyền phép của những ngựa ấy ở nơi miệng và đuôi nó; những đuôi ấy giống như con rắn, và có đầu, nhờ đó nó làm hại người.” (9: 17, 19) thì chắc cú là cụ Giăng lại … bí từ rồi. Chớ đối với chúng ta ngày nay thì mấy chú … quái ngựa này có khác chi là mấy chiếc xe tăng với tháp pháo hai nòng, cả trước lẫn sau. Đúng không?
Cuối cùng, vẫn là một kết cục buồn: “Còn những người sót lại, chưa bị các tai nạn đó giết đi, vẫn không ăn năn những công việc bởi tay chúng nó làm, cứ thờ lạy ma quỉ cùng thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá, và gỗ, là những tượng không thấy, không nghe, không đi được. Chúng nó cũng không ăn năn những tội giết người, tà thuật, gian dâm, trộm cướp của mình nữa” (9: 20-21)
Chúa cho phép hoạn nạn đến như thế cũng là muốn tỉnh thức người ta quay đầu là bờ đấy thôi. Ôi lòng nhân từ của Chúa, sự nhịn chịu của Chúa là dường nào. Song lòng chai cứng, u tối và ngang bướng của con người … đúng là không thể hiểu nào hiểu được.


Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2015

GIÁNG SINH BẢN GỐC

Mathiơ 1:18-2:12; Luca 2:1-10 
Hôm nay, kỷ niệm sinh nhật Vua Giê-xu, chúng ta sẽ không đọc Kinh Thánh như thông lệ, mà sẽ trở lại với những tường thuật trong hai sách Phúc Âm về sự kiện Chúa thành người.
Trong Phúc Âm Mathiơ, chúng ta nhìn thấy Đức Giê-xu là một vị Vua đang được thờ phượng. Việc truy nguyên gia phả của Ngài đến tận Abraham chứng tỏ rằng, Đức Giê-xu thật sự là hậu duệ thuộc hoàng tộc Giu-đa.
Việc được hoài thai cách lạ lùng của Đức Giê-xu làm ứng nghiệm lời tiên tri Ê-sai rằng Ngài sẽ được sinh ra bởi nữ đồng trinh. Tên của Ngài: Emmanuen (nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta) nhắc chúng ta về sứ mệnh thiên thượng của Chúa. Nơi Chúa ra đời (Bết-lê-hem) làm ứng nghiệm lời tiên tri Mi-chê. Còn việc lánh nạn sang Ai-cập để bảo toàn tính mạng khỏi sự truy sát của vua Hê-rốt thì ứng nghiệm lời của tiên tri Ô-sê và của Giê-rê-mi.
Trong Phúc Âm Luca, chúng ta nhìn thấy Đức Giê-xu là một Bé Trai nằm trong máng cỏ. Sắc lịnh kiểm kê dân số của hoàng đế La mã khiến cho cha mẹ phần xác của Ngài phải về lại nguyên quán là thành Đa-vít để đăng ký. Tại đó, không có “phòng hộ sinh” nhưng có ... chuồng; thiếu người hầu, nhưng không thiếu … thú và như thế, Thiên Chúa trở thành người … là Cứu Chúa … là Christ, là CHÚA.
Các thiên sứ thì chúc tụng rằng, “Vinh danh Thiên Chúa trên cao”, còn những người chăn cừu thì loan báo sự đến của Chúa bằng việc “trở về, tôn vinh và ngợi ca Đức Chúa Trời về mọi điều họ đã nghe và thấy”. Còn bạn thì sẽ đáp ứng như thế nào với Tin Mừng rằng Cứu Chúa đã vào đời?
Theo bạn thì Đức Giê-xu, người làng Nazaret là ai? Bạn sẽ giới thiệu về Chúa như thế nào cho một người chưa từng gặp Ngài? Và nếu Chúa Giê-xu đến gõ cửa lòng bạn trong mùa Giáng Sinh này, thì Ngài sẽ tìm thấy được gì nơi đó: một căn phòng sẵn sàng đón khách hay chỉ là một tấm biễn báo: Hết Chỗ?
Năm xưa, khi Chúa giáng thế làm người, biết bao người gần xa đã được Thánh Linh thôi thúc, tìm về Bết-lê-hem để tôn thờ Vua Thánh. Dân lao động có, mà bậc tri thức cũng có; dân Chúa có mà dân ngoại cũng có.
Hãy để ý đến cách ra mắt Con Trẻ Giê-xu, tức “Vua dân Giu-đa mới sinh”, của những học giả từ phương Đông. Họ không đến chỉ “để xem việc vừa xảy ra” như mấy bác chăn cừu người Do Thái (Luca 2:15), mà là đến để thờ phượng. Dù lúc ấy, vị quân vương kia chỉ là một em bé mà thôi.
Những học giả này là dân ngoại thứ thiệt, nhưng sự thờ phượng của họ dành cho Vua Giê-xu khiến chúng ta phải tra xét lại thái độ của mình đấy. Họ không đi tay không đến thờ phượng Chúa. Họ thờ phượng Chúa bằng “những lễ vật là vàng, nhũ hương và một dược” (Mat. 2:11).
Trong mùa Giáng Sinh đầu tiên, người ta đã thờ phượng Chúa như vậy đấy. Còn hôm nay, trong mùa Giáng Sinh này, tôi và bạn sẽ ra mắt Vua Giê-xu với của lễ gì?
Điều gì là “vàng” đối với bạn? Có phải thời giờ, sức khoẻ, đất ruộng – nhà cửa (bất động sản) là vàng của bạn? Và bạn có chuẩn bị để trao phó số “vàng” này cho Chúa trong mùa Giáng sinh này không?
Còn điều gì là “trầm hương” và “một dược” của chúng ta?
Nói cách khác, điều gì khiến bạn cảm thấy thỏa mái, hứng khởi, vui vẻ; Điều gì khiến bạn dậy hương thơm: nổi tiếng; điều gì nơi bạn khiến bạn tự hào, hãnh diện; điều gì nơi bạn khiến người ta ngưỡng mộ? Bạn có sẳn sàng dâng – tức là đoạn tuyệt – số “dược liệu” này cho Chúa trong mùa Giáng Sinh này không?
Đã hơn 2000 năm rồi kể từ lúc Thiên Chúa trở thành người, Chúa Giê-xu ngày nay không còn là một em bé nằm trong máng cỏ nữa đâu. Ngài hiện là Vua của muôn vua, Chúa của các chúa. Ngài là Đấng sắp trở lại trần gian. Chúa sẽ không trở lại thế gian trong hình hài một em bé như lần trước, mà là sẽ xuất hiện từ trên không trung với muôn vàn thiên sứ thánh và các thánh đồ của Ngài. Mọi mắt sẽ được chứng kiến cách trực tiếp.
Đừng đón Giáng Sinh năm nay với tinh thần … “hoài cổ”, nhìn về quá khứ mãi như thế. Hãy đón Giáng Sinh này trong tinh thần khát khao chờ đợi Chúa tái lâm.
Bạn sẽ là ai trong mùa Giáng Sinh này? Là Hê-rốt chân thành, nhưng chân thành chống nghịch Chúa; là thượng tế, là chuyên gia kinh luật những người biết lẽ thật, những người được chọn để phục vụ Chúa nhưng chẳng tha thiết, mong đợi gì việc Chúa Cứu Thế giáng trần; hay bạn sẽ là nhà thông thái sẳn sàng từ bỏ lối sống quen thuộc, sẳn sàng hy sinh sở thích, hy sinh những điều quí giá nhất của mình để thực sự được gặp gỡ Con Đức Chúa Trời, Đấng đang kiên nhẫn gõ cửa lòng của mỗi một chúng ta.
Chúa phán: “Nầy, Ta đến mau chóng, đem phần thưởng theo với Ta, để thưởng cho mỗi người tùy theo việc họ đã làm. Ta là An-pha và Ô-mê-ga, là Đầu Tiên và Cuối Cùng, là Khởi Nguyên và Tận Cùng” (22:12-13).
Bạn đã sẵn sàng chưa? Nào, Merry Christmas!


Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

THÁO ẤN NIÊM PHONG

Khải Huyền 4-6 
Vào đầu chương 4, Giăng nhận được lịnh trực chỉ thiên đàng để xem trước “những điều sau này phải xảy đến”. Thế là trong tích tắc, Giăng đã được tận mắt chứng kiến cảnh thiên cung vô cùng lộng lẫy, uy nghiêm, thánh thiện với Thiên Chúa toàn năng đang ngự trên ngai, giữa điệp điệp trùng trùng những lời ca khen chúc tán. Và sau đó, Chiên Con, tức Đức Chúa Giê-xu lần lượt tháo ấn niêm phong. Giờ thi hành án chính thức bắt đầu.
Khá nhớ là Giăng dùng ngôn ngữ biểu tượng để kể lại cho chúng ta những gì cụ tận mắt nhìn thấy ở trên trời. Mà ngôn ngữ biểu tượng thì bao giờ cũng chỉ mang tính cách tương đối, chớ không thể mô tả đúng, chính xác tầm mức và bản chất của sự vật được. Đơn giản là có những sự vật, bản chất thuộc về trời, về cõi thần linh thì không hề có trong cõi tự nhiên, trong vốn từ của con người chúng ta. Bí từ là như thế.
Điều này cũng tương tự như khi cố gắng giải thích “bông tuyết là gì” cho một người Việt Nam chưa từng tận mắt chứng kiến tuyết rơi vậy. Ta có thể  bảo rằng tuyết giống như bông gòn, hoặc tuyết giống như … nước đá bào (xay nhuyễn) để ăn chè hay sinh tố. Thế nhưng, thực tế thì tuyết không phải là bông gòn cũng không phải là nước đá xay nhuyễn. Tuyết là tuyết. Rứa thôi.
Những nhà giải kinh theo trường phái Tiền Đại Nạn (những người tin rằng Hội Thánh sẽ được cất lên trước cơn Đại Nạn) luôn đồng hóa biến cố Giăng được “cất lên trời” (4: 2) với việc Hội Thánh sẽ được cất lên. Thứ nhất là vì họ xem Giăng đại diện cho Hội Thánh, và thứ hai là vì từ chương 4 cho đến tận chương 19 của sách Khải Huyền không còn nhắc đến Hội Thánh nữa. Tuy nhiên, cứ căn theo văn mạch mà xét, thì điều này rõ ràng là … hơi bị ‘ép người quá đáng’ rồi. He he.
Trước hết, trong phần Kinh Thánh hôm nay, điều chúng ta học được là xì-tai ngợi khen thờ phượng Chúa đúng nguyên bản. Nếu đọc cách chậm rãi hai chương 4 và 5, ta sẽ nhận thấy được ‘ở trên đó’ người ta thờ phượng Chúa rất chi là … ồn ào, náo động. Ngồi có, quỳ có; đàn có, trầm hương có; nghiêm túc có, quăng nón mũ tưng bừng bừng có; và đặc biệt là ai cũng lớn tiếng. Nói cũng to mà hát cũng to. Đã thế mà ca đoàn còn muôn muôn, nghìn nghìn, hằng hà sa số thì … độ ồn không thể nào tả xiết. Hát hò kiểu đấy mà chiếu theo công văn 1290, ngày 13/10/2015 của Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) thì bị kỷ luật nặng là cái chắc. He he. Thế mà Chúa không phản ứng, không quở, không rầy chi hết mới lạ chứ. Rõ ràng là Chúa thích xì-tai đấy rồi còn gì.
Đó đâu phải là xì-tai Ngũ Tuần, Ân Tứ chi mô, xì-tai Thiên Đàng đấy chớ. Nếu đến giờ này, anh chị em vẫn còn dị ứng với xì-tai ngợi khen thờ phượng ‘ồn ào’, ‘lộn xộn’, ‘thiếu kỉnh kiền’ thì gấp rút mà thay đổi, mà tập cho quen đi nhé. Kẻo mai này về trễn mà không hòa nhập được thì khổ đấy. Nhớ nha.
Trong sách Khải Huyền có một cụm từ thường được hiểu là nói về Đức Thánh Linh nhưng hơi bị … khác người. Đó là “bảy ngọn đèn cháy sáng trước ngai, đó là bảy linh của Đức Chúa Trời” (4: 5); “bảy sừng và bảy mắt, tức là bảy linh của Đức Chúa Trời” (5: 6). Thoạt trông thì cứ như là Đức Chúa Trời có 7 vị thần hoặc có 7 Đức Thánh Linh vậy. Nếu thế thì mâu thuẩn với việc chỉ có một Đức Thánh Linh mà thôi. Còn nếu 7 ‘vị’ (đèn/sừng/mắt) ấy đúng là 7 thần linh riêng biệt thì Đức Thánh Linh ở đâu, sao không thấy nơi Ngai Thiên Chúa?
Để ‘hóa giải’ cho vụ này, người ta luận rằng, 7 linh mà sách Khải Huyền nói đến là cách mà cụ Giăng phải chật vật mô tả Đức Thánh Linh vĩ đại trong vốn từ vô cùng giới hạn của con người mà thôi. Điều này cũng tương tự như tiên tri Ê-sai đã ‘phát biểu’ trước đây vậy (Esai 11: 2). Chỗ này ta cũng phải tạm chấp nhận, chờ ngày về trễn sẽ rõ. Đành phải cảm thông với cảnh bí từ của cụ thôi. He he
Giờ ta vào chương 6. Chiên Con khai ấn.
Có 6 ấn, hay 6 dấu niêm phong được Đức Chúa Giê-xu mở ra trong chương này nhưng chỉ có 5 biến cố xảy ra trên đất. Nhớ là dấu niêm phong nơi cuộn sách được mở ra trên trời, nhưng Giăng được nhìn thấy cả trong 2 thế giới: thế giới thần linh và thế giới vật chất dưới đất.
Đầu tiên là một người cưỡi ngựa trắng, đầu đội vương miện, tay cầm cung (không có tên), đi đến đâu thắng đến đấy. Đấy là trong cõi thần linh. Còn trong cõi thế, thì có lẽ lúc đấy một nhân vật sẽ xuất hiện trên thế giới. Người này rất có tài trong việc thương thuyết, đàm phán. Chính người sẽ dàn xếp tất cả mọi xung đột, đem các bên ngồi vào bàn đàm phán, ký hiệp ước hòa bình. Thế là thế giới được hưởng hòa bình. Hẳn nhiên, người này không phải là Đấng Christ.
Tiếp sau giai đoạn hòa bình, là chiến tranh trên toàn thế giới. Thần chiến tranh xuất hiện
Tiếp theo sau chiến tranh là đói kém, lương thực, thực phẩm trở nên khan hiếm, nhưng những mặt hàng xa xỉ (rượu dầu) thì vẫn còn … vô tư. Đó là công việc của lão Hắc Thần
Tiếp theo sau Hắc Thần là Tử Thần với chỉ tiêu là ‘hốt gọn’ 25% dân số trên toàn thế giới. Tử Thần được phép sử dụng 4 loại công cụ hỗ trợ để hoàn thành nhiệm vụ. Đó là “gươm dao, đói kém, dịch lệ và các loài thú dữ trên đất” (6: 8). Hãy tưởng tượng xem khi điều đó xảy ra, các quốc gia sẽ cuống cuồng chống đỡ như thế nào. Mà chống răng được? – Đã vào sổ đen rồi, có mà chạy đàng trời.
Cuối cùng, niêm phong thứ 6 được mở. Động đất kinh hoàng. Trời long, đất lỡ. Vũ trụ quay cuồng. Điều lạ là mọi người trên đất lúc ấy biết rất rõ biến cố này là “cơn giận của Chiên Con”, là “ngày thịnh nộ của Đấng Chí Cao”. Thế nhưng, họ lại đi cầu khẩn với đá, với núi giúp mình “tránh mặt Chúa” thay vì hạ mình xuống trước Chúa để ăn năn tội, xin được Chúa thương xót.
Dường như, lúc ấy người ta không có khả năng ăn năn tội như thời hiện tại mà chúng ta đang sống đây thì phải. Họ biết Chúa giận họ, họ biết mình sai phạm nhưng đã muộn mất rồi, không còn cơ hội để ăn năn.
Xin Chúa dùng điều này để tỉnh thức mỗi một chúng ta và qua chúng ta tỉnh thức nhiều người còn chưa chịu trở lại cùng Thiên Chúa là Cha đích thực của họ, để thờ phượng Ngài và để được hưởng đặc quyền làm con.


Thứ Tư, 23 tháng 12, 2015

THƯ GỞI CHO NGƯỜI

Khải Huyền 1-3 
Chúng ta bắt đầu tiến vào sách Khải Huyền, sách cuối cùng của Kinh Thánh và là sách không dễ … nuốt chút nào. Song đừng lo lắng, vì người viết là cụ Giăng đã ‘phán’ chắc nịch như ri: “Phước cho người đọc cùng những người nghe lời tiên tri nầy và vâng giữ những điều đã ghi chép trong đó” (1: 3). An tâm rồi nhé. Kiểu chi cũng được phước. A-men?
Ngay câu đầu tiên, tác giả đã giới thiệu ngay nội dung của sách rồi. Đó là mặc khải của Đức Chúa Giê-xu về sự đến lần thứ hai, tức là sự tái lâm của Ngài. Và cũng ngay chương đầu tiên, chân dung hiện tại của Đức Chúa Giê-xu đã được Giăng mô tả lại cách vô cùng sống động, uy nghiêm. Thật khác xa một trời một vực với hình ảnh một Giê-xu, Đầy Tớ Chịu Khổ khi Ngài còn thi hành chức vụ trong thân xác con người. Ấy thế mà, cho đến tận hôm nay, nhất là trong Mùa Giáng Sinh, người ta vẫn còn ‘trương’ hình ‘bé’ Giê-xu khắp nơi, khắp chốn. Hơn 2000 năm đã qua rồi mà vẫn còn bé mãi là răng? Sao mà cứ thích sỉ nhục Chúa mãi rứa hì.
Trong sách Khải Huyền, Giăng đã sử dụng … kính thưa các thể loại dấu hiệu, biểu tượng để kể lại những gì ông được Chúa cho thấy. Không phải cụ cố tình đánh đố chúng ta mà sử dụng toàn mật mã hay từ lóng đâu. Cụ làm thế là vì … bí từ đấy ạ. Chúa hé lộ tương lai xa tít tắp của loài người cho Giăng thấy. Mà có những sự kiện, sự vật thuộc về thời đại của chúng ta đang sống đây (nhưng là tương lai đối với cụ í) thì ngày ấy làm gì đã có (xe tăng, máy bay, vũ khí nguyên tử, … chẳng hạn).
Thế cho nên, Giăng buộc phải dùng những hình ảnh thay thế để kể lại thôi. Đó là chưa kể đến việc trong nhiều trường hợp Giăng được nhìn thấy bản chất dã thú của sự vật như Đa-ni-ên đã từng, nên ông phải kể lại ‘y khuôn’. Chỉ chừng đó thôi (lúc đúng nguyên bản, lúc dùng từ thay thế) cũng đủ khiến cho người đọc hôm nay như chúng ta phải … quay mòng mòng rồi.
Phần Kinh Thánh hôm nay dành nhiều thời lượng cho 7 lá thư mà Đức Chúa Giê-xu gởi đến 7 hội thánh tại khu vực Tiểu Á, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Có nhiều cách lý giải về 7 hội thánh này. Người thì bảo đây là những hội thánh có thật vào thời của Giăng. Người lại cho rằng 7 hội thánh chỉ mang tính biểu tượng. Số khác nữa thì tin rằng, 7 hội thánh này đại diện cho 7 thời kỳ hay 7 giai đoạn của lịch sử Hội Thánh từ ngày thành lập cho đến kỳ chung kết đời.
Riêng đối với chúng ta, những khách Bộ Hành, chúng ta không có nhiều thời giờ và cũng chưa cần thiết để tranh luận cho ra ngô, ra khoai mấy ‘chiện’ đó. Ta chỉ nhắm vào việc khám phá những bài học dạy dỗ để áp dụng cho chính mình trong hành trình theo Chúa mỗi ngày mà thôi.
Bảy lá thư hầu như đều có cùng một mẫu: (a) Giới thiệu chân dung Chúa Giê-xu – tác giả lá thư và là chủ của hội thánh, (b) đánh giá tình hình của hội thánh, (c) khen hoặc chê, (d) giải pháp trong trường hợp bị chê, và (e) lời hứa hay sự ban thưởng. Tuy nhiên, có hai ngoại lệ - hai hội thánh hoàn toàn không bị Chúa quở trách. Đó là Si-miệc nơ và Philadenphia.
Nếu bạn đọc và suy gẫm thật kỹ những câu Kinh Thánh của đầu mỗi lá thư gởi cho từng hội thánh, là những câu mô tả Chúa Giê-xu thì chắc chắn niềm tin của bạn nơi Chúa sẽ có nhiều chuyển động đấy.
Chẳng hạn, vì Chúa Giê-xu (chớ không phải bất kỳ một ai khác) là Đấng đang ngự giữa Hội Thánh và đang nắm giữ Hội Thánh trong tay Ngài (2: 1); Chính Ngài là Đấng khởi đầu và kết thúc mọi sự và là Đấng đã thắng hơn sự chết (2: 8) thì có việc gì của bạn mà Chúa Giê-xu không thể hoàn thành, có tình trạng nào của bạn mà Chúa không thể làm cho sống lại?
Hãy tiếp tục khám phá như thế suốt cả 7 lá thư nhé. Rất nhiều sự mặc khải mới mẽ về Chúa Giê-xu đang chờ bạn đấy.
Còn những lời quở trách của Chúa đối với 5 hội thánh (trừ Si-miệc nơ và Philadenphia) cần phải được xem xét cách nghiêm túc đối với chính cá nhân mình cách thường xuyên như thể việc khám sức khỏe định kỳ vậy. Hãy xét xem mình đang bị dính những triệu chứng nào của từng hội thánh trong số 7 hội thánh này. Bỏ tình yêu ban đầu chăng, thỏa hiệp với đời chăng, chỉ còn hình thức bề ngoài chăng, hâm hẩm chăng, …?
Sau khi đã định được bệnh rồi thì hãy nghiêm chỉnh áp dụng toa thuốc mà Bác sĩ Giê-xu đã cho. Chắc chắn là bệnh sẽ khỏi.
Trong phần Kinh Thánh hôm nay cũng có một vài nhân vật được nêu tên như Giê-sa-bên, Balaam, Ni-cô-la khiến người đọc phải động não ít nhiều. Nếu như Giê-sa-bên và Balaam thì ta có thể truy nguyên từ trong Cựu ước để hiểu được bản chất và công việc của những ‘bản sao’ của họ trong hiện tại. Trong khi đó Ni-cô-la lại là một nhân vật rất chi là … bí hiểm. Vì bí hiểm nên đã có không ít giả thuyết về gốc tích của nhân vật này. Một trong số đó là đánh đồng Ni-cô-la trong chương 2 của sách Khải Huyền với một trong 7 chấp sự đầu tiên của hội thánh tại Giê-ru-sa-lem (Công Vụ 6: 5). Thế nhưng, ngoài việc trùng tên thì chẳng có cơ sở nào để ‘phán’ như thế cả.
Tuy rất khó chứng minh sơ yếu lý lịch nhưng cả ba gương mặt mốc này đều có một điểm chung: dụ dỗ tôi con Chúa lìa bỏ lối sống thánh khiết, không tin Lời Chúa cách trọn vẹn như đáng phải có. Và cả 3 đều bị Chúa ghét, đều bị định cho sự phán xét.
Hội Thánh Chúa không bao giờ bị tàn diệt bởi sự bách hại, bắt bớ hay đủ kiểu áp lực, khống chế từ các thế lực bên ngoài, nhưng Hội Thánh lại thường bị … ‘chết’ bởi họa nội xâm, bởi chính ‘những người từ trong nhà’ như Balaam, như Giê-sa-bên, như Ni-cô-la.
Một khi mà Hội Thánh xa lìa đường lối Chúa, tẻ tách khỏi Lời Chúa, hòa nhập với Đời thì Chúa sẽ “cất chân đèn”, tức Hội Thánh “khỏi chỗ nó”. Một khi “chân đèn” đã được cất đi, thì cái còn lại không phải là Hội Thánh đâu mà chỉ là một tổ chức tôn giáo, một hội đoàn, một câu lạc bộ hay thậm chí tệ hại hơn là một sân chơi tôn giáo mà thôi.
Thế thì, CHÂN ĐÈN nhà bạn có còn ở chỗ nó không?


Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015

VÌ ĐỨC TIN MÀ CHIẾN ĐẤU

Giu-đe 
Nghe tựa đề đã thấy hừng hực khí thế … ‘uýnh đấm’ rồi. Vâng, chính bác Diêu Đe ‘xúi’ thế đấy ạ (c.3). Bác í tâm sự rằng, “dù rằng đời ta thích hoa hồng, (nhưng) kẻ thù buộc ta ôm cây súng” mà thôi.
Kẻ thù nào mà khiến bác í thay vì viết về sự cứu rỗi chung đã phải chuyển đề tài sang ‘uýnh đấm’ thế nhỉ? – Đó là những giáo sư, những giảng sư và giáo sinh giả.
Thoạt nghe, ta dễ có cảm tưởng những người này thuộc thành phần ‘tha hóa, biến chất, suy thoái tư tưởng, suy thoái đạo đức cách nghiêm trọng’, vốn thuộc về ta nay hóa thành … ma. Nhưng hóa là hổng phải dzậy. Những người này là “những kẻ đã bị định cho sự phán xét”.
Từ khi mô? “trước kia, từ xưa, từ lâu rồi” (c. 4). Ô hay, hóa ra từ trước đến giờ ‘chúng’ ở với ta, ‘sinh hoạt’ với ta và thậm chí còn … dạy dỗ Lời Chúa cho ta … nhưng nỏ thuộc về ta.
Không biết bác Diêu có bị kẻ xấu, hay các thế lực thù địch mua chuộc, xúi giục không mà ‘phát biểu’ thế này cơ chứ. Bác viết thế thì ‘gây hoài nghi, tạo dư luận xấu, làm mất đoàn kết nội bộ, làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân vào đội ngũ cán bộ’ trong … Hội Thánh lắm đấy.
Không hề. Diêu-đe rất chi là ‘gỏ gàng’ nha.
Chỉ cần một đường cọ thôi là chân dung mấy ông giáo giả, mấy ông sư giả này được khắc họa rõ nét ngay. Họ được chỉ đích danh là những kẻ không tin kính, đã biến ân điển của Đức Chúa Trời thành đời sống phóng đảng, chối bỏ Đấng Chủ Tể duy nhất và Chúa chúng ta là Chúa Cứu Thế Giê-xu (c. 4). Họ là những người “đã chọn theo con đường của Ca-in, vì lợi lộc, họ đã tự chuốc cho mình lỗi lầm của Ba-la-am, và phản loạn như Cô-rê, ...” (c. 11)
Có hai đặc điểm của mấy trượng này: (a) xuyên tạc hay bóp méo ân điển của Đức Chúa Trời, và (b) chối bỏ Đức Chúa Trời, chối bỏ Đức Chúa Giê-xu. Thế mới hay, không phải chỉ Hội Thánh trong thời Giu-đe mới gặp phải họa nội xâm này, mà Hội Thánh thời nay cũng vậy.
Những nhóm ‘siêu ân điển’ hay ‘duy ân điển’ mấy năm gần đây, và hiện tượng xét lại ‘tư cách Đức Chúa Trời’ của Chúa Giê-xu (mà thực chất là một bản sao đời mới của Chứng Nhân Giê-hô-va) tại Việt Nam từ khoảng giữa năm 2014 đến nay là bằng chứng sống động cho hiểm họa này.
Trước hiểm họa đe dọa đến sự tồn vong của Hội Thánh, đâu là cách ứng xử cần phải có của con dân Đức Chúa Trời? – Chiến đấu.
Muốn chiến đấu thì trước hết phải được trang bị. Muốn thắng thì phải mạnh. Muốn thắng GIẢ, phải mạnh THẬT. Thật ở đây là lẽ thật, là chân lý. Lời Chúa chính là chân lý. Lời Chúa (toàn bộ Kinh Thánh) chính là nền tảng đức tin của chúng ta. Hay nói như bác Diêu là “nền đức tin rất thánh của chúng ta” (c. 20).
Mà khi một người biết nuôi mình bằng Lời của Chúa thì cùng đồng nghĩa với việc người ấy biết giữ mình trong tình yêu thương của Đức Chúa Trời. Vì chính Chúa Giê-xu đã từng nói: “Nếu các con vâng giữ điều răn của Ta thì các con sẽ còn ở trong tình yêu của Ta …” (Giăng 15: 10)
Không chỉ nuôi mình bằng Lời của Chúa, muốn MẠNH thì người của Chúa còn phải luôn ở chế độ online với Chúa trong sự cầu nguyện. Không phải người tin Chúa nào cũng đủ ‘bén’ để phát hiện ra những vi-rút độc hại được ẩn giấu một cách kín đáo trong từng status, trong từng còm-men, trong từng bài giảng của mấy sư, mấy thầy loại nầy đâu. Thế nhưng, nếu một người luôn gần gũi Chúa trong sự cầu nguyện thì người ấy sẽ nhận được tín hiệu cảnh báo khi ‘bị vi-rút xâm nhập’.
Cứ tưởng bác Diêu chỉ cho bà con mình mấy bí kíp võ công để tấn công trực diện đám nội xâm tà đạo, nhưng đọc xong thơ bác thì hóa ra không phải là như thế. Bác í chỉ nhủ ta cách nhận diện kẻ thù, cách ‘đứng tấn’ vững như bàn thạch và cách cứu mấy em bị nhiễm tà ở các mức độ khác nhau mà thôi (c. 22-23).
Mà cứu làm sao? – Thôi thì đủ cung bậc cảm xúc: hỉ nộ ái ố (c. 23), nhưng tựu trung thì cũng trước là quét vi-rút, và sau đó giúp họ cài đặt phần mềm diệt vi-rút như chính ta đã làm là ăn (Lời Chúa) và thở (cầu nguyện) mỗi ngày. Đơn giản rứa thôi.
Ngoài việc nêu ra những chỉ dẫn cụ thể cho con dân Chúa đối phó với họa nội xâm này, Giu-đe dành phần lớn thời lượng của lá thơ để nói về án phạt đời đời, vô cùng nghiêm khắc, đã sẵn dành cho “những kẻ không tin kính, đã biến ân điển của Đức Chúa Trời thành đời sống phóng đảng, chối bỏ Đấng Chủ Tể duy nhất và Chúa chúng ta là Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Bác Diêu trưng ra 3 bằng chứng lịch sử về sự phán xét kinh khiếp của Đức Chúa Trời dành cho những kẻ vô tín, loạn nghịch.
Thứ nhất là dân Y-sơ-ra-ên. Rõ ràng là họ đã được cứu khỏi đời nô lệ tại Ai-cập, là hình bóng của tội lỗi và thế gian. Thế nhưng, Đức Chúa Trời đã LOẠI BỎ họ. Họ bị Chúa loại bỏ đang trên đường tiến về Xứ Hứa. Nói theo ngôn ngữ của thời Tân Ước thì họ đã bị mất sự cứu rỗi đấy.
Thứ hai, là các vị thiên sứ phản nghịch. Các vị này cảm thấy bị ‘mất tự do’ khi phải ở đúng chỗ mà Chúa sắp đặt. Thế là … xù. Ù xuống trần để được tự do (Sáng Thế ký 6).
Đúng là tự do thật. Vâng, có một giai đoạn họ được tự do hoàn toàn để làm theo điều mình thích, làm những điều mình cho là phải, nhưng kết cuộc thì sao? – Hiện đang “bị Đức Chúa Trời tống giam, chịu xiềng xích bất tận trong ngục tối, chờ đợi sự phán xét trong ngày lớn” (c. 6).
Võ công cỡ thiên sứ mà còn không tháo xiềng, bẻ xích được đành phải chịu cảnh gặm một khối căm hờn trong ngục tối, thì người phàm xác thịt như mấy anh giáo sư giả hay mấy em giáo sinh giả đang dạy nhăng dạy cuội kia … có mà chạy đàng giời nhá! Chưa tới giờ thôi con, ở đó mà ti toe, mà “mơ mộng, mà làm ô uế thân xác, khinh dễ thẩm quyền và báng bổ các đấng bậc vinh quang” (c. 8)
Gương cuối cùng, án phạt dân các thành Sô-đôm, Gô-mô-rơ và các vùng phụ cận. Tội của chúng là gì: DÂM. Dâm “không đúng quy trình”. Mà cụ thể là dâm “không chính chủ” và dâm “trái tự nhiên” tức là dâm đồng tính – đực rựa với đực rựa, thị mẹt với thị mẹt.
Một lần nữa, tại đây Kinh Thánh khẳng định rằng TÌNH DỤC ĐỒNG TÍNH LÀ TỘI LỖI. Không những thế, đó là tội gớm ghiếc, ghê tởm đối với Đức Chúa Trời. Tội này có dính dáng đến mấy ‘eng’ thiên sứ sa ngã vừa kể ở trên đấy. Án phạt dành cho chúng là gì? – Lửa đời đời.
Đấy, xem đấy mà răn mình và giữ mình nha anh chị em yêu dấu. Ý bác Diêu là như rứa.
Và rồi bác í kết thúc tâm thư của mình bằng một lời cầu nguyện rất chi là yêu thương và tràn đầy tin quyết: “Nguyện xin Đấng có quyền gìn giữ anh chị em khỏi vấp ngã, trình anh chị em một cách hân hoan và không có gì đáng trách trước sự hiện diện vinh quang của Ngài; là Đức Chúa Trời duy nhất, Đấng cứu rỗi chúng ta qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.” (c. 24-25)