Chủ Nhật, 14 tháng 6, 2015

ĐÂY, ĐƯỜNG DÂY NÓNG

Dừng Chân Lần Thứ 21
NHÌN LẠI
Một khi đã nhấn mạnh đến những thuộc tính của Đức Chúa Trời thì những người viết Thánh Thi nhận thấy rằng họ cần phải điều chỉnh phẩm hạnh, thái độ, tư cách và lối sống của chính mình cho phù hợp với Chúa, Đấng họ đang thờ phượng.
Không phải là ‘tút’, là ‘mông má’ bề ngoài, mà là thay đổi triệt để từ trong ra ngoài. Cũng không phải chỉ lúc nào đến nhà Chúa mới ‘tút’, mới ‘mông má’, mới nín nhịn, mới kiêng khem, mới kiềm chế mà là … từ trong nhà ra ngoài phố, từ nhà ta đến nhà Cha. Nói chung là điều chỉnh, là thay đổi mọi lúc mọi nơi.
Tình yêu của Chúa thấu đến tận trời cao, do đó, chẳng có gì phải … lăn tăn cả. Đức Chúa Trời luôn sẵn sàng cứu giúp trong cơn gian truân, do đó, chẳng có lý do gì để chán nản, thất vọng cả. Sự vĩ đại của Chúa thật đáng kinh sợ, do đó, hãy làm cho sự ngợi khen Ngài được biết đến khắp muôn dân.
Thế nhưng, con loài người thì thật mỏng manh và rất giới hạn, đầy tội lỗi và ô nhơ. Làm thế nào để đến được với Đấng Chí cao để được cứu giúp? – Kêu van cùng Chúa.
Lời van nài lòng thương xót và sự tha thứ của người viết Thánh Thi đã được đáp ứng bởi lời hứa của Thiên Chúa về sự yên ủi và thanh tẩy. Việc nhìn thấy sự vĩ đại và oai nghi của Đức Chúa Trời đã đem người đến chỗ trông đợi sức lực và sự chu cấp từ nơi Chúa.
Đây là điều mà mỗi thế hệ mới cần phải học và một trong những địa chỉ tốt nhất để học bài này là dưới chân các lão tiền bối, những người đã đồng hành với Chúa trọn cả cuộc đời (71: 18)
NHÌN LÊN
Ngày nay, ở hầu hết bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều có số điện thoại miễn phí trong trường hợp khẩn cấp. Tại Malaysia là 999 hoặc 112, còn ở Việt Nam là … 113 hoặc 114!
Đặc biệt là tại Mỹ, với việc gọi số 911 thì có thể nói chính xác là trong tích tắc đội hình cứu hộ đã xuất hiện, hoặc để giải cứu, hoặc để bảo vệ và thậm chí là để … yên ủi những người đang cần sự giúp đỡ. Thế cho nên, thậm chí một đứa trẻ lên 5 tại Mỹ cũng biết được ý nghĩa đặc biệt của số điện thoại 911 này.
Câu hỏi đặt ra là: Tại sao mỗi khi gặp rắc rối người Mỹ lại với lấy điện thoại và bấm số 911?
Phải chăng vì:
§  họ nghĩ rằng có một ai đó đang ở đầu dây bên kia sẽ nghe tiếng kêu cứu của họ?
§  họ hy vọng là có thể tìm được một sự giúp đỡ ở đâu đó?
§  họ mong ước là đã từng có một giải pháp cho tình thế nan giải của họ?
§  họ biết rằng, có những con người đã được huấn luyện, sẵn lòng tình nguyện và có khả năng giúp đỡ đang trong tư thế sẵn sàng đến ngay lập tức sau cuộc gọi của họ?
Hãy nghĩ đến Thánh Thi 70 như là cuộc gọi 911 của tác giả: “Lạy Đức Chúa Trời, xin giải cứu tôi.Lạy CHÚA, xin mau mau giúp đỡ tôi ... Ngài là Đấng giúp đỡ và giải cứu tôi. Lạy CHÚA, xin chớ chậm trễ.”  (70: 1, 5)
Tại sao tác giả Thánh Thi gọi cho Chúa? Ấy chẳng phải là vì ông nghĩ hay hy vọng hay ao ước hay tự hỏi rằng không biết Chúa có đến để cứu mình hay chăng mà là vì “(CHÚA) sẽ giải kẻ thiếu thốn khi nó kêu cầu, … Ngài sẽ thương xót kẻ khốn cùng, người thiếu thốn, … Ngài sẽ chuộc linh hồn họ khỏi sự hà hiếp và sự hung bạo”  (72: 12-14).
Đây cũng chính là ý tưởng mà tiên tri Giê-rê-mi đã trình bày: “CHÚA, Đấng đã dựng nên trái đất, hình thành nó, và lập vững nó, danh Ngài là CHÚA, phán thế nầy, ‘Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời ngươi. Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, những việc ngươi chưa từng biết.’”  (Giê-rê-mi 33: 2-3)
NHÌN TỚI
Chúng ta luôn đứng trước một số giải pháp để lựa chọn khi cuộc sống dường như vượt khỏi tầm kiểm soát và hoàn cảnh trở nên rối mù như … đèn cù. Bạn có thể dựa vào sức lực hay khả năng và sự hiểu biết của riêng mình, cho dù điều này đã được Lời Chúa trong Châm Ngôn 3: 5 cảnh báo là KHÔNG NÊN.
Bạn cũng có thể … ‘quên nó đi’ (thực ra là trốn chạy thực tại) bằng cách bận rộn càng hơn trong công việc – kiểu ‘bù đầu bù cổ’, hoặc kiểu làm … chết bỏ –  hay buông thả đời mình trong ăn chơi lạc thú. Thế nhưng giải pháp này không xóa bỏ được cảm giác sợ hãi, bất an và thiếu thốn đâu nha. Ấy là vì bạn có thể bỏ qua hay ‘chơi tình vờ’ với những nan đề của mình và hy vọng rằng chúng sẽ biến mất, nhưng … hổng có chuyện đó đâu cưng. Hic
Cách cuối cùng, bạn có thể gọi cho Chúa, Đấng duy nhất hứa rằng, sẽ không hề lìa chúng ta, không hề bỏ chúng ta (Mathiơ 28: 20; Hê-bơ-rơ 13: 5). Điều này nghe có vẻ là một giải pháp quá đơn giản và trong nhiều phương cách thì đúng là như vậy.
Với Tổng Đài của Quyền Năng và Sự Thương Xót như thế luôn chờ nhận cuộc gọi của chúng ta 24/24 giờ mỗi ngày, nhưng vẫn có những người đi tìm sự cứu giúp ở những nơi khác là sao ta?

Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2015

NẶNG GÁNH THAY CON

Thánh Thi 67-72 
Thánh Thi tập II kết thúc với sáu lời tuyên cáo hùng hồn rằng Đức Chúa Trời xứng đáng được tôn vinh và tin cậy. Các dân tộc khá nhận biết sự cai trị công minh của Đức Chúa Trời (TT 67), và hoan hỉ trong sự chăm sóc của Ngài đối với trẻ mồ côi và kẻ vô gia cư (TT 68). Chúa nghe tiếng kêu than của người cùng khốn (TT 69), giải cứu người bị áp bức cách nhanh chóng (TT 70), thêm sức lực cho người già cả (TT 71) và thi hành quyền cai trị trên muôn vua, muôn nước (TT 72). “Phải, hết thảy các vua sẽ sấp mình xuống trước mặt người; Các nước sẽ phục sự người.” (72: 11).
Chúng ta cũng có thể xếp 6 Thánh Thi của ngày hôm nay thành ba nhóm. Nhóm một gồm 2 ‘em’ đi đầu (67, 68) với phiên hiệu: Ngợi Khen. Nhóm hai được ưu tiên đến … 3 ‘bé’ gồm 69, 70 và 71 với tên nhóm là Khẩn Nguyện, và cuối cùng chỉ có mỗi ‘bạn’ 72 được mang tên Cầu Xin.
Không chỉ có thế, nếu muốn, mỗi một Thánh Thi còn được cấp cho một slogan, tương ứng với tên nhóm của mình. Này nhé, tổ I: “Ca Tụng Chúa” (67), “Tôn Cao Chúa” (68); tổ II: “Đừng Chậm Trễ, Chúa Ơi!” (69, 70), “Đừng Bỏ Con, Chúa Ơi!” (71); tổ III: “Chúc Tụng Chúa” (72)
Có rất nhiều câu trong phần Kinh Thánh hôm nay nên được … tô màu, nên được học thuộc lòng và … để dành sử dụng trong khi có cần, mà đặc biệt là trong thì giờ ngợi khen, chúc tụng Chúa. Chẳng hạn, những câu sau đây:
Đức Chúa Trời ở nơi thánh Ngài,
Là cha kẻ mồ côi, và quan xét của người góa bụa.
Đức Chúa Trời làm cho kẻ cô độc có nhà ở,
Đem kẻ bị tù ra hưởng được may mắn;
Song những kẻ phản nghịch phải ở đất khô khan.
Đáng ngợi khen Chúa thay,
Là Đấng hằng ngày gánh gánh nặng của chúng tôi,
Tức là Đức Chúa Trời, sự cứu rỗi của chúng tôi.
Đức Chúa Trời là Đức Chúa Trời giải cứu chúng tôi;
Ấy là nhờ Chúa Giê-hô-va mà loài người được tránh khỏi sự chết.
Đức Chúa Trời ngươi đã ban sức lực cho ngươi:
Hỡi Đức Chúa Trời, xin hãy khiến vững bền việc Chúa đã làm cho chúng tôi. (68: 5-6, 19-20, 28)
Vì Đức Giê-hô-va nghe kẻ thiếu thốn,
Không khinh dể những phu tù của Ngài. (69: 33)
Đáng ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời, là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên,
Chỉ một mình Ngài làm những sự lạ lùng!
Đáng ngợi khen danh vinh hiển Ngài đến đời đời! (72: 18-19)
Có ai đó đã từng nói rằng, ngày tháng của chúng ta giống hệt như những chiếc va-li – cùng một kích cỡ - nhưng có người thì lại xếp được nhiều ‘món’ vào đấy hơn người khác. Ngẫm thử đúng không?
Giữa một thời gian biểu bận rộn của mình, đừng bao giờ quên một thực tế rằng Đức Chúa Trời cũng đang bận rộn – thay cho bạn! Sau khi đọc xong Thánh Thi 68, hãy khám phá và viết lại cách vắn tắt ít nhất là 5 điều mà Chúa hứa với bạn – từ Thánh Thi này – cho ngày hôm nay và cho mỗi một ngày.
Trong thời đại máy tính mà chúng ta đang sống đây, con người ngày càng bị … số hóa trong mọi hồ sơ, giấy tờ giao dịch. Người ta cấp hay mặc định cho bạn một dãy số, thế là nhân dạng, cá tính và cả tên họ của bạn, dù muốn hay không, cũng dần biến mất.
Thế cho nên, sẽ là vô cùng khích lệ khi biết được rằng còn có một ai đó mà đối với người ấy bạn không bao giờ chỉ là một dãy số vô hồn. Một ai đó mà mỗi ngày còn trông xem, còn quan tâm đến ta vì lợi ích của ta. Một ai đó mà sẵn lòng chia vui sẻ buồn và cất đi gánh nặng của ta rồi thay vào đó là “gánh nhẹ nhàng” (Mathiơ 11: 28-30)
Năm lần trong Thánh Thi 68 đề cập đến năng lực – năng lực mà Chúa muốn thể hiện qua dân sự của Ngài. Hôm nay, bạn đã nhận được sức lực đó chưa? Đó là năng lực cho phép bạn làm được những việc mà bạn không thể làm bởi khả năng tự nhiên của riêng mình. Vì rốt lại, “chính Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên ban sức lực và quyền năng cho dân sự Ngài” (68:35)


Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015

GÁC TRỌN ĐÊM NAY

Thánh Thi 60-66
Tự do để bộc bạch trước Chúa, để bày tỏ với Ngài chính xác những gì ta cảm nhận là một phần quan trọng của sự cầu nguyện. Đời sống cầu nguyện của Đa-vít thể hiện những cảm xúc sâu kín của lòng ông.
Việc mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc (TT 60), cho triều đại của mình (TT 61) luôn đè nặng trên ông. Đa-vít khao khát được tăng trưởng trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời (TT 62-64), là mối quan hệ mà kẻ thù của ông không thể có được. Ông kinh sợ trước công việc sáng tạo đầy quyền năng của Chúa (TT 65) và hoan hỉ trong sự cứu rỗi có một không hai của Đức Chúa Trời (TT 66). Rồi ông mời gọi tất cả mọi người “Hãy đến chiêm ngưỡng công việc của Đức Chúa Trời: Công việc Ngài làm cho con cái loài người thật đáng sợ.” (66: 5)
Thánh thi 63 được viết bởi Đa-vít “khi ông đang ở trong hoang mạc Giu-đa”, một khu vực hoang vắng, nơi khan hiếm nước, cây cỏ gần như không thể sống được với cái nóng ban ngày khiến cho mọi hoạt động đều trở nên hết sức nhọc nhằn.
Trong sự khô hạn vây quanh như thế, Đa-vít đã được cảm thúc để viết “trong vùng đất khô cằn, nứt nẻ, chẳng có nước. Linh hồn con khát khao Chúa, Thân thể con mong ước Ngài.” (c.1). Cả hồn và thân, Đa-vít mong ước được ở trong sự hiện diện của Đức Chúa Trời.
Đa-vít biết rằng sự đói khát Chúa của ông chỉ được thỏa mãn khi ông bền đỗ theo Ngài: “Linh hồn con sẽ vui thỏa như được hưởng các vật thực béo bổ”  (c. 5). Trong giờ tìm cầu Chúa mỗi lúc tinh mơ, Đa-vít luôn tìm ra những khía cạnh trong thuộc tính của Đức Chúa Trời để suy gẫm trọn đêm (c.6).
Vì cớ Đức Chúa Trời đã giúp đỡ mình nên Đa-vít vui mừng “trong bóng cánh Chúa” (c.7). Trong sự trung thành đối với Chúa, Đa-vít nhận được sự bảo vệ, gìn giữ và chăm sóc của Ngài (c.8).
Đức Chúa Giê-xu đã nói với những môn đệ của Ngài: “Phước cho những người đói khát sự công chính, Vì sẽ được no đủ!” (Mathiơ 5: 6).
Làm thế nào để có được sự đói khát thuộc linh? Hãy dành ít nhất 15 phút hôm nay để ở riêng với Chúa. Hãy vui hưởng sự hiện diện của Ngài, thỏa thuê ăn nuốt Lời của Ngài và hãy để Chúa làm thỏa mãn lòng khao khát của bạn.
Bạn biết không, trong thời Kinh Thánh, đêm được chia thành ba phiên (chớ không phải 5 canh, như ở ta), đặc biệt là đối với ngươi lính và với người chăn cừu. Đó là: từ lúc mặt trời lặn đến 10 giờ đêm; từ 10 giờ đêm đến 2 giờ sáng và từ hai giờ sáng đến rạng đông. Nào, giờ thì hãy đọc lại Thánh Thi 63: 6 để khám phá xem Đa-vít đã thức cùng Chúa bao lâu.
Một linh hồn thực sự đói khát Chúa là rứa đó.
Biết bao người đang sẵn sàng trắng đêm cùng World cup, nhưng có được bao linh hồn nguyện thức cùng Chúa chỉ trọn một đêm (?)


Thứ Năm, 11 tháng 6, 2015

KẾT NỐI ĐỨC TIN

Thánh Thi 55-59
Ai đó đã từng nói rằng, trong họa có phúc. Ấy là vì, hiểm họa lớn có thể khiến lòng ta nao sờn nhưng cũng có thể mở ra một đức tin lớn nơi Đức Chúa Trời.
Mặc dù, đã từng gào lên với Chúa trong cơn đau đớn khi bị bạn bè phản bội (TT 55), khi bị kẻ thù truy đuổi cách gắt gao (TT 56-57) và khi bị những vị quan án hung bạo thù ghét (TT 58), nhưng cùng lúc đó, Đa-vít đã bày tỏ lòng tin quyết lớn lao nơi thẩm quyền của Đức Chúa Trời trong việc minh oan cho ông đúng thời điểm và đúng cách (TT 59).
Một khi mà đài đã báo bão thì tàu thuyền phải nhanh chóng vào nơi trú ẩn. Tàu thuyền cần phải có những chiếc neo vững chắc; nhà cửa, cao ốc cần phải có một nền móng chắc chắn; cây cối cần có một bộ rễ cắm thật sâu vào lòng đất.
Trong mỗi một trường hợp, những gì còn sót lại khi cơn bão đi qua phụ thuộc hoàn toàn vào sự kết nối của chúng với những gì không thể lay chuyển. Chiếc neo của Đa-vít trong những cơn bão cuộc đời chính là đức tin không chuyển lay nơi một Đức Chúa Trời không hề thay đổi.
Mỗi Thánh Thi trong phần Kinh Thánh mà chúng ta đọc hôm nay, mô tả những áp lực đáng lo ngại, những tác động có tính hủy phá đã ập vào cuộc đời của Đa-vít. Ông mô tả những cuộc tấn công dữ dội này như một cơn bão tố (55: 8), như những con thú đói (57: 4); như những con rắn độc (58: 4-5) và như những con chó đang gầm gừ (59: 6).
Thế nhưng, thay vì tập chú nơi những áp lực đang gầm rống quanh mình, Đa-vít lại để tâm vào việc kết nối đức tin với Đức Chúa Trời (55: 22; 56: 10-11; 57: 11; 58: 11; 59: 9). Và kể từ lúc chiếc neo của mình kết nối thành công với Vầng Đá Tảng Không Thể Dịch Chuyển, là chính CHÚA, thì Đa-vít nhận ra rằng, ông cũng đã trở nên vững vàng – không thể dịch chuyển!
Có cơ bão nào đang lăm le bên cạnh cuộc đời của anh chị em không? Anh chị em có đang phải đối diện với sự chống đối ác liệt vì cớ niềm tin của mình không? Hãy áp dụng cách thể hiện đức tin của Đa-vít vào trong trường hợp cụ thể của mình.
Hãy viết ra một vài câu, bằng chính lời của bạn, về lòng tin quyết của cá nhân mình nơi Đức Chúa Trời – Đấng không bao giờ thay đổi. Rồi hãy dán hay đặt những … sờ-ta-tút (status) ấy vào những nơi mà có thể thường xuyên nhắc nhở bạn rằng, dông bão cuộc đời chẳng việc gì phải sợ, nếu ta có một nền móng vững chắc và một chiếc neo đức tin nơi chính Đức Chúa Trời.


Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

KIỂU GÌ CŨNG THẮNG

Thánh Thi 50-54
Đối với vấn đề tội lỗi trong đời sống của người tin Chúa lẫn người không tin thì Đức Chúa Trời, trong sự công chính của Ngài, có cùng cách xử lý giống nhau.
Với những ai mà chỉ có vỏ bên ngoài là công chính mà bên trong chất chứa tội lỗi thì sẽ được cảnh báo và quở trách (TT 50). Còn với những ai mà biết nhìn nhận tội lỗi và lìa bỏ nó thì sẽ được tha thứ và được phục hồi (TT 51). Kẻ dối gạt gian ác (TT 52) và kẻ vô thần ngu dại (TT 53) thì sẽ đối diện với sự hủy diệt. Nhưng người công chính, dầu đang bị khốn khổ trong tay kẻ ác vẫn có thể tin quyết nơi chiến thắng tất yếu của Đức Chúa Trời (TT 54).
Hãy nhìn vào Đa-vít: Có những điều còn tệ hại hơn là bị thương tích bởi kẻ thù nữa kia. Đó là bị thương tích bởi bạn bè. Một khi mà bị người tâm phúc hay đồng nghiệp của mình đâm sau lưng thì bạn nên xử lý thế nào với cảm giác phẫn uất trào dâng cách rất, rất tự nhiên?
Câu trả lời là: Xử lý bằng sự cầu nguyện. Khi Đô-e người Ê-đôm báo cáo cho vua Sau-lơ về nơi ở của Đa-vít thì chẳng có gì là ngạc nhiên – kể cả đối với Đa-vít và Sau-lơ – vì Đô-e là thân cận với vua Sau-lơ. Thế nhưng khi dân Xíp – những người đã từng được Đa-vít cứu thoát khỏi tay quân Philitin, khi thành phố biên giới Kê-i-la của họ bị tấn công (1 Samuen 23: 1-5) – đi phản bội người từng giải phóng cho mình thì đúng là niềm đau khó tả.
Giận dữ … cay đắng … thù hận … đồng thanh cất tiếng. Đó là tất cả những phản ứng tự nhiên đối với sự phản bội. Thế nhưng, không một điều nào có thể giải quyết được vấn đề hay giúp gì cho người bị phản bội cả. Đối với trường hợp này, chúng ta cần phải chạy đến với Chúa – Đấng duy nhất có thể chữa lành những thương tổn bằng tinh thần yêu thương và tha thứ (hãy xem gương mẫu của Đa-vít trong TT 52: 8-9; 54: 6-7; 55: 22).
Anh chị em có đang bị thương tổn bởi bạn bè trong những ngày gần đây không? Hãy ‘kết liễu’ nó bằng lời cầu nguyện ri nè; “Lạy Chúa, Ngài biết con có đủ quyền để đối xử với ……… (tên người đó) …………… như kẻ thù. Dù con có thể phản ứng theo cách tự nhiên, nhưng xin giúp con Chúa ơi, đáp trả theo cách siêu nhiên trong sưc toàn năng của Ngài. A-men”
Có một điều khá thú vị trong phần Kinh Thánh hôm nay. Ấy là Thánh thi 53 gần như lập lại nguyên xi Thánh thi 14. Tựa đề giống nhau, câu cú cũng giống nhau, ba lần danh xưng Giê-hô-va được thay thế bằng danh xưng Đức Chúa Trời trong TT 53. Chỉ có một khác biệt duy nhất: anh sau (TT 53) bỏ mất của anh trước (TT 14) đúng 1 câu. Chịu khó đọc lại để biết em nào bị bỏ nhé.
Theo bạn thì đâu là lý do mà Thánh Thi 14 quan trọng đến nỗi phải được lập lại một lần nữa trong Thánh Thi 53?


Thứ Ba, 9 tháng 6, 2015

PHÁO ĐÀI KIÊN CỐ

Thánh Thi 42-49 
Thánh Thi tập 2 (từ 42-72) bắt đầu bằng 8 bài thơ, được cho là do con cháu của Cô-rê (hay Cô-ra) cảm tác.
Mà Cô-rê là ai? Cứ theo ‘sơ yếu lý lịch’ mà tra xét thì đây là người bị chôn sống vì tội đầu têu phản loạn chống Môi-se (Dân số ký 16). Không hiểu bằng cách nào mà vẫn còn sót lại được một phần hậu tự của ông, về sau được chọn là những người gác cổng Đền Thờ (1 Sử Ký 9: 19) và một phần khác là những ca sĩ và nhạc công phục vụ trong ca đoàn tại Đền Thờ (1 Sử ký 6: 31-47).
Tám chương Kinh Thánh hôm nay có thể chia thành 3 nhóm theo ba tiểu đề khác nhau. Đó là: kêu cứu cùng Chúa (TT 42-44), chúc tán Chúa là Vua (TT 45-48), và chê mấy anh giàu mà dại (TT 49).
Chúng ta không biết được bối cảnh sáng tác của những bài thơ này, nhưng rõ ràng người viết đang ở trong một hoàn cảnh rất bi đát. Bị hoạn nạn, áp bức (44: 24); bị thất trận, bị bắt làm tù binh, (44: 10-12); bị sỉ nhục, bị mắng chửi, trở thành đề tài đàm tếu của dân ngoại (44: 13-16); bị lưu lạc, không còn được thờ phượng Chúa (42: 4, 43: 2); bị người ta trêu chọc, chê giễu (42: 3, 10).
Nói chung, là vừa đau vừa nhục.
Càng nghĩ về quá khứ – về lịch sử của dân tộc, về kinh nghiệm của bản thân, nhất là những năm tháng được gần gũi Chúa, được phục vụ Chúa trong Đền Thờ của Ngài – người viết càng hối tiếc, càng đau đớn. Nhất là khi kẻ qua người lại cứ trêu ngươi: “Thế Chúa của mi ở đâu, mà mi ra nông nỗi này?”
Xưa con đi cùng đoàn dân,
Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời
Với tiếng reo mừng và ca ngợi,
Giữa đoàn dân đông dự lễ.
Bây giờ nhớ lại những điều ấy
Lòng con buồn thảm, xót xa. (42: 4)
Có lẽ đây là tâm trạng của không ít người vốn đã từng ‘vào ra’ nơi nhà Chúa, tức hội thánh của Đức Chúa Trời. Đó là những người đã từng là trưởng ca đoàn, là người hướng dẫn ngợi khen thờ phượng trong các hội thánh, đặc biệt là các hội thánh – mục vụ Việt Nam tại xứ Cọ này.
Ước gì những người ấy, giờ này – dù đang lưu lạc ở “đất Giô-đanh”, hay “núi Hẹt-môn” hoặc cao nguyên “Mít-sê-a” đi nữa – vẫn còn biết nhớ đến Chúa như “nai cái thèm khát khe nước”.
Con nai cần nước và thèm khát nước để có thể tung tăng vui sống khắp nơi. Trái lại, lạc đà thì không. Nó thể đi suốt 3 tháng mà không cần uống nước. Có ai đó đã từng bảo rằng, thật là dễ cho chúng ta trở nên giống như con lạc đà hơn là con nai trong cuộc sống đầy đủ này. Riêng bạn thì sao?
Giữa một thế giới đầy biến động và luôn thay đổi như hiện nay; trong thời điểm mà những nan đề khẩn cấp – từ mức độ cá nhân đến tầm quốc gia và quốc tế – luôn vượt trội bội phần hơn so với những giải pháp khả thi, thì đâu là chốn vững an thật sự mà chúng ta có thể chạy đến?
Hãy chạy đến chính nơi trú ẩn mà người viết Thánh Thi đã tìm thấy được.
Trong thánh thi 46, con cháu Cô-rê đã miêu tả những tai họa kinh hoàng ập xuống thế giới này: động đất, lở đất và sóng thần (c. 2-3). Và khi mọi thứ dường như mất sạch, thì nơi Trú Ẩn vững an – Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên – vẫn còn nguyên ở đó.
Phải, chính Đức Chúa Trời của Apraham, Ysac, Gia-cốp – Đức Chúa Trời mà chúng ta đang thờ phượng là Vầng Đá vững an của bao thời đại. Hãy nương náu mình nơi chính mình Ngài.
Trước khi, gấp Kinh Thánh lại, hãy làm theo sự hướng dẫn trong Thánh Thi 46: 10.
Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời;
Ta sẽ được tôn cao trong các nước,
Ta sẽ được tôn cao trên đất nầy.
Hãy gác sang bên tất cả những vướng bận đời thường và dành ít thời gian yên lặng, lắng lòng trước Chúa. Hãy trao cho Ngài tất cả những sợ hãi kín giấu nào có trong bạn.
Nếu có thể, hãy lấy một miếng bìa cứng và viết câu Kinh Thánh này vào đấy để tiện suy gẫm và học thuộc lòng. Rồi mỗi khi sự sợ hãi, như a-xít, bắt đầu gặm nhấm sự bình an trong tâm trí mình, bạn hãy rút câu này ra, mà tống khứ nó đi. Khá nhớ rằng, Nơi Trú Ẩn của bạn “hôm qua, hôm nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi” (Hê-bơ-rơ 13: 8)


Thứ Hai, 8 tháng 6, 2015

TỪ BÊN DƯỚI NHÌN LÊN

Thánh Thi 36-41
Sáu chương Kinh Thánh hôm nay kết thúc sách Thánh Thi thứ 1, gồm 41 bài thơ. Đây là sách có nhiều nét tương đồng như sách Sáng Thế ký trọng bộ Ngũ Kinh Môi-se.
Sáu chương này có thể chia thành ba cặp: 36-37; 38-39 và 40-41 theo ba chủ đề. Theo đó, cặp đầu tiên nói về sự chống đối từ bên ngoài hay ‘ngoại kích’. Cặp thứ hai đề cập đến những áp lực từ bên trong hay ‘nội công’. Và cặp cuối là lời chứng về chiến thắng bởi ân điển của Đức Chúa Trời mà có.
Đối diện với sự chống đối của kẻ ác, thay vì ‘dĩ độc trị độc’, ăn miếng trả miếng thì Đa-vít khuyên ‘nạn nhân’ tìm kiếm sự an ủi nơi tình yêu bất diệt của Đức Chúa Trời.


Hãy tin cậy CHÚA và làm điều lành;
Khá ở trong xứ và nuôi mình bằng đức thành tín của Ngài.
Hãy vui thỏa trong CHÚA,
Rồi Ngài sẽ ban cho bạn mọi điều lòng bạn ao ước.
Hãy phó thác đường lối của bạn cho CHÚA,
Cứ nhờ cậy Ngài, Ngài sẽ làm thành điều bạn muốn. (37: 3-5)
Thế cứ để chúng lộng hành, lấn lướt mãi à? – Không hề. Thấy dzậy chớ không phải dzậy đâu. Chúng ‘đi’ hồi nào không hay đấy. Nói cách khác, xử kẻ ác không phải là việc của chúng ta. Đó là việc của Chúa. Việc của chúng ta là tiếp tục tin cậy Chúa, tiếp tục làm lành và giao thác tương lai mình trong tay Chúa.
Đối với áp lực từ bên trong bởi tội lỗi và sự nản lòng thì Đa-vít tìm kiếm sức lực trong sự giúp đỡ của Chúa. Thánh thi 38, 39 đặc tả những hậu quả của tội lỗi hơn là hành vi phạm tội. Nào là bị lên án, bị bỏ rơi, cô đơn, nhục nhã, đau đớn, …
Thường thì trong những cảnh ngộ như vậy, người ta luôn bị mặc cảm tội lỗi đè nặng. Người phạm lỗi luôn ấm áp tư tưởng bỏ cuộc, thối lui, xa lánh Chúa, tránh mặt anh em đồng đạo.
Thế nhưng, Đa-vít thì khác. Ông không bi lụy trong hậu quả của tội lỗi, không chìm đắm trong hối tiếc mà là vận hết … nội công để bò đến cùng Chúa, dồn chút hơi tàn kêu lên với Chúa.
Lạy Chúa, bây giờ con trông mong gì?
Niềm hi vọng của con ở nơi Chúa.
Xin giải cứu con khỏi mọi vi phạm;
Đừng khiến con trở nên sự nhuốc nhơ cho kẻ ngu dại. (39: 7-8)
Đây cũng chính là phản ứng mà Chúa muốn nhìn thấy nơi mỗi chúng ta khi gặp phải cảnh ngộ tương tự. Vì Lời Chúa đoan chắc rằng, “còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín và công bình sẽ tha tội cho chúng ta và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (1 Giăng 1: 9)
Sau hết, đối cùng những hoàn cảnh tối tăm trong đời như bệnh tật, tai ương thì người của Chúa – thay vì nhìn vào nan đề của mình – lại tập chú nơi lòng nhân từ và sự thương xót dư dật của Đức Chúa Trời. Thật là một kiểu mẫu cầu nguyện đáng để chúng ta noi theo.
Nói về Chúa thay vì nói về nan đề, hoạn nạn của mình. Xin Chúa giải cứu, chữa lành cho mình nhưng không phải vì cớ mình mà là vì cớ Chúa, chính xác là vì cớ Danh Chúa. (Đừng để kẻ thù coi thường Chúa, sỉ nhục Danh Chúa). Xin Chúa giải cứu, chữa lành cho mình còn là vì … người khác nữa.
Nhiều người sẽ thấy điều đó và kính sợ
Đem lòng tin cậy nơi Đức Giê-hô-va. (40: 3)
Nguyện tất cả những ai tìm cầu Chúa
Được vui vẻ và hoan lạc nơi Chúa;
Nguyện những người yêu mến sự cứu rỗi của Chúa
Luôn nói rằng: “Đức Giê-hô-va thật vĩ đại!” (40 : 16)
Và bây giờ, đã đến lúc chúng ta cần phải áp dụng những kiểu mẫu cầu nguyện này vào thực tiển cá nhân của mình. Có thể bạn đang bị hoạn nạn, yếu đau; có thể bạn đang bị mặc cảm tội lỗi dày vò, không dám đến gần Chúa hoặc có thể bạn đang bị vu khống, bị công kích, hăm dọa? Hãy chọn 1 trong 3 kiễu mẫu cầu nguyện, phù hợp với trường hợp của mình và … phát hết cỡ volum đi.