Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015

NẢN CHẲNG TỪ NAN

Nehemi 5-7
Ba chương Kinh Thánh hôm nay có lẽ là sự hồi tưởng của Nê-hê-mi về chiến dịch “52 ngày đêm gian khó xây thành” chớ không phải là bản “tường thuật trực tiếp”. Bằng chứng rõ nhất nằm ở những lời cầu nguyện của ông trong hai chương 5 và 6 (5:19; 6:14).
Đúng là ‘thù trong, giặc ngoài’ hay tứ bề thọ địch. ‘Giặc ngoài’ thì xuất hiện từ khi dân sự Chúa bắt đầu khởi công. Còn ‘thù trong’ thì khi tường đã xây sắp xong rồi.
‘Thù trong’ hay quân nội gián này khởi nguồn từ thành phần quý-xờ-tộc. Anh chị em còn nhớ mấy ‘quý nhơn’ nầy không? Đây là những tay đã được điểm mặt trong chương 3: 5 là “không chịu ghé vai vào công việc của chủ mình” đấy. Và cũng chính mấy anh X này (Chúa còn thương nên tạm giấu tên) đã từng đi đêm qua lại với ‘kẻ thù trực tiếp’ của dân Chúa là lão Tô ... bi-gia (hay tô … gì thì tùy theo cách của bạn). Thấy chưa, sớm muộn gì bàn dân thiên hạ cũng biết thôi. Ở đó mà lén lút, giấu giếm.
Đã không tham gia làm công việc Chúa, những người quý tộc này còn gián tiếp làm ngưng trệ công việc xây thành. Mọi chuyện cũng chỉ bởi một chữ THAM. Một khi máu tham của các vị đã nổi lên thì bất chấp lề luật Chúa, bất chấp ‘quan hệ huyết thống’, bất chấp thân bằng quyến thuộc.
Họ dùng tiền để cho anh em vay. Người ta không trả nổi, xiết nhà. Không trả nổi nữa, xiết đất và nếu cần … bắt con người ta bán làm nô lệ luôn. Quý tộc Giu-đa đó nha, quan chức của Giu-đa đó nha. Và thế là ‘nhân dân’, những người đang tình nguyện xây thành chịu hết nỗi. Lãn công hoặc làm cho có lệ mà thôi.
Nhớ nha: “Lòng tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác” (1 Timothe 6: 10) và một trong những điều ác đó là khiến cho người khác xao lãng công việc Chúa đấy. Đặc biệt, nếu là một người lãnh đạo trong hội thánh thì tác hại từ lòng tham tiền của người đó lên hội chúng là lớn vô cùng.
Nê-hê-mi xử lý ‘thù trong’ như thế nào? Trước hết, ông triệu tập một đại hội. Ông phê bình công khai chuyện sai trái của hàng lãnh đạo (không xử lý nội bộ đâu nghe); yêu cầu họ chấm dứt việc làm đó, ngay lập tức ‘khắc phục hậu quả’ và sau đó là ký ‘cam kết’. Xong. Yên dân ngay.
Thế nhưng, để có quyết định sáng suốt như thế thì Nê-hê-mi đã có một thời gian “suy tính trong lòng” hay “suy tính kỷ càng” (5:7). Hơn nữa, ông đã thuyết phục được cả hai thành phần quý tộc và thường dân bằng chính đời sống gương mẫu, kính sợ Chúa của mình.
‘Thù trong’ vừa dẹp yên thì ‘giặc ngoài’ liền tràn đến. Chúng tràn đến khi mọi sự sắp đến lúc hoàn thành. Đây là thời điểm mà chúng ta thường lơi lõng sự thức canh. Ôi dào, vẽ chuyện. Đã sắp ra mâm ra bát rồi còn gì. Nhiều người bị kẻ thù đánh bại không phải lúc khởi công mà là ngay lúc cắt băng khánh thành đấy ạ. Ma quỷ không hề ngủ và cũng không hề … ngu. Nhớ đấy.
Trong chương 4, ma quỷ dùng hai chiêu để ngăn cản công việc Chúa: nhạo báng và phá tán. Nê-hê-mi chỉ mỗi việc tin cậy Chúa trong sự cầu nguyện. Còn trong chương 6 này, chúng sử dụng phương án: thỏa hiệp, vu khống và đe dọa mạng sống.
Rất lịch nhé. Cho người trao thư mời tận tay. Và cũng rất kiên nhẫn. Phương án một, mời ra ngoại thành uống cà-phê nói chuyện. Phương án hai, gặp nhau để xác minh về đơn tố cáo của nhóm ‘quần chúng bức xúc’. Phương án ba, dọa giết để khiến người của Chúa phạm luật (dẫn một anh què ngoại quốc Semagia hay Sê ma giáo nào đấy vào trong Đền Thờ) và sau đó là hạ uy tín.
Tất cả đều bị thất bại. Người của Chúa không bị sập bẫy.
Răng mà ông khôn sáng rứa hè? Ấy là vì ông biết Lời Chúa. Thêm nữa, Nê-hê-mi là người biết Chúa. Ông biết Chúa mà ông tin thờ. Lòng tin của ông đặt nền tảng trên hai thực thể không hề thay đổi đó. Vâng, Lời Chúa và chính Chúa là nền tảng không hề thay đổi cho một đức tin thật.
Ngoài ra, Nê-hê-mi còn biết rõ sự kêu gọi mà Chúa dành cho mình. Ông cũng là một người có đời sống cầu nguyện.
Vì tất cả lý do đó mà Nê-hê-mi có được một sự sáng suốt lạ lùng để thẩm định sự việc. Sự sáng suốt lạ lùng hay nói theo ngôn ngữ của Tân Ước là ân tứ “phân biệt các linh” này, là điều thật sự cần thiết cho mỗi một chúng ta, đặc biệt là cho những người lãnh đạo hội thánh, đang khi sống và phục vụ giữa một thế giới đầy dẫy sự dối trá, gian ác như hiện nay.
Chỉ mất vỏn vẹn 52 ngày để tái thiết xong toàn bộ tường thành Giê-ru-sa-lem cũng như sửa chữa các cổng thành. Thế mà suốt 100 năm, kể từ đợt hồi hương lần thứ nhất dưới sự lãnh đạo của Xô-rô-ba-bên, người Do Thái vẫn không thể thực hiện được. Vì đâu nên nỗi?
Phải chăng đó là vì … “chưa đến thời điểm của Chúa” hay là vì thiếu một người lãnh đạo ‘vừa có tâm, vừa có tầm’ giống như tổng trấn Nê-hê-mi?


Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015

SỨC THIÊNG CỦA CHÚA

Dừng Chân Lần Thứ 16
NHÌN LẠI
Ê-xê-chia và Ê-xơ-ra. Tên của họ nghe giống nhau và có nghĩa gần gần nhau. Ê-xơ-ra nghĩa là “giúp đỡ” hay “sự giúp đỡ”, còn Ê-xê-chia là “Đức Chúa Trời giúp sức hay làm cho mạnh mẽ”. Nhưng sự giống nhau của họ đến đấy là … hết.
Ê-xê-chia là vua, còn Ê-xơ-ra là thầy tế lễ. Họ chưa từng gặp nhau vì sống cách nhau hàng trăm năm tại hai phương trời cách biệt: một ở Giê-ru-sa-lem, còn một tận xứ Ba-tư. Ê-xê-chia nổ lực bảo vệ dân tộc mình khỏi sự tấn công của kẻ thù, còn Ê-xơ-ra thì tập chú vào việc tái thiết dân tộc sau 70 năm lưu đày.
Vâng, hai vị anh hùng Cựu ước này đã thực hiện được những việc lớn lao cho Đức Chúa Trời vì cớ họ cùng chia sẻ đam mê đọc, học và vâng giữ lề luật của Chúa. Họ có thể giúp đỡ và làm mạnh mẽ người khác vì cớ cuộc đời họ được neo đậu nơi nền tảng không hề thay đổi là Lời của Đức Chúa Trời.
Ê-xê-chia và Ê-xơ-ra, Ru-tơ và Ê-xơ-tê – thật là một di sản đồ sộ gồm những anh hùng mà ta có thể gặp trong từng trang Cựu Ước. Những người nam, người nữ - những người đã từng đồng hành với Chúa trong những tháng ngày biến động – đã có những quyết định cứng rắn, đã đối mặt với những kẻ thù khủng khiếp, đã cầu nguyện bằng những lời cầu nguyện đầy quyền năng và đã thực hiện những chiến công vĩ đại trong sức thiêng của Đức Chúa Trời.
NHÌN LÊN
Ê-xơ-ra đã trực tiếp học biết về tay của Đức Chúa Trời của ông (Ê-xơ-ra 7: 6, 9; 8: 18, 22). Một khi mà thuộc tính của Đức Chúa Trời được mô tả trong thuật ngữ của con người thì ta gọi đấy là phép nhân hình hóa. Dười đây chỉ là một vài điển hình trong nhiều cách thức mà Đức Chúa Trời được mô tả trong thuật ngữ của con người. Bạn có thể giải thích ý nghĩa của những ‘chi thể’ được nói đến dưới đây không?
“Bàn tay” của CHÚA (Giô-suê 4: 24) giúp chúng ta đến để nắm lấy ………………… của Ngài.
“Tiếng phán” của CHÚA (1 Samuen 15: 22) nói đến ……………………………......... của Ngài.
“Mắt” CHÚA (2 Sử Ký 16: 9) khiến chúng ta nghĩ về …………………………….......... của Ngài.
“Cánh tay” CHÚA (Esai 51: 9) ám chỉ đến …………………………………………........... của Ngài.
Khi ra đòn, mục đích của võ sĩ quyền anh là hạ gục đối thủ bằng sức mạnh của đôi tay mình. Toàn bộ sức mạnh của người võ sĩ  đều được dồn hết vào đôi tay. Cũng một thể ấy, Đức Chúa Trời mong ước dồn quyền năng của Ngài vào đời sống của người tin thờ Chúa. Đời sống của Ê-xơ-ra luôn đầy dẫy quyền năng của Đức Chúa Trời vì cớ tấm lòng ông, tâm trí ông luôn đầy dẫy Lời của Ngài.
NHÌN TỚI
Những ngày gần đây, nếu đang trải qua thời kỳ yếu đuối hay không kết quả trong đời sống thuộc linh của mình, thì có lẽ, anh chị em nên kiểm tra lại bộ phận “tiếp điện” của mình. Một cành nho héo úa và không cho quả thì rõ ràng là đã … ‘hội đủ điều kiện’ để bị cắt bỏ khỏi gốc nho, tức là nguồn sức và nguồn sống của nó (Giăng 15: 1-8)
Hạnh phúc, kết nhiều quả, thịnh vượng – mỗi một ‘món’ này là di sản hay tài sản thừa kế dành cho bất kỳ ai “vui thích và suy gẫm luật pháp của CHÚA ngày và đêm” (Thánh Thi 1: 1-3). Đây là chân lý mà Ê-xơ-ra đã học biết được, và bạn cũng có thể như thế.
Suy gẫm (nghĩa đen là “nhai đi nhai lại”) có nghĩa là nghiền ngẫm, ngẫm nghĩ, là rút ra những chất bổ dưỡng từ những chân lý sống động của Kinh Thánh. Việc này tương tự như con bò lấy dưỡng chất từ cỏ xanh vậy đó. Và như thế, nếu chỉ ‘nhai’ một trường hợp điển hình thì không bao giờ đủ được. Có muôn vàn lý do để cứ “suy đi, ngẫm lại” cùng một phần Kinh Thánh nào đó. Khá nhớ rằng, Đức Chúa Trời luôn thích thú soi sáng Lời của Ngài bằng những góc nhìn tươi mới, đặc biệt là cho những phần Kinh Thánh mà ta đã từng đọc, từng học qua!
Hãy lật lại những phần Kinh Thánh mà ta đã đi qua từ đầu năm đến giờ và tìm những đoạn mà bạn yêu thích. Hãy đọc lại cách chậm rãi và ‘nhai’ cho thật kỹ. Chắc chắn, bạn sẽ nhận được một sự dạy dỗ tươi mới nào đấy từ nơi Đức Thánh Linh. Vâng, một sự dạy dỗ hay soi dẫn tươi mới từ một đoạn Kinh Thánh cũ, từ một phần Kinh Thánh quen thuộc.
Lời Chúa thì cũ, vì đã có từ hàng ngàn năm rồi nhưng không bao giờ lỗi thời, cũng như mặt trời thì đúng là xưa thật là xưa nhưng sức nóng của nó, ánh sáng của nó hay nói chung là giá trị của nó, đối với đời sống con người thì vẫn y nguyên từ buổi sáng thế cho đến tận hôm nay.
Bạn có phải là người luôn “vui thích về luật pháp của Đức Giê-hô-va, và suy ngẫm luật pháp ấy ngày và đêm” không?


Thứ Tư, 6 tháng 5, 2015

VAI ANH VÁC ĐÁ, TAY EM CẦM GIÁO

Nehemi 3-4
“Vai anh vác đá, tay em cầm giáo” nghe cứ như “Gởi Người Đi Xây Hồ Kẻ Gỗ” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý ấy nhỉ. Vâng, âm hưởng thì có giống chút chút, còn ‘nội hàm’ thì … xa tít tắp mù khơi luôn. “Vác đá, cầm súng” là mô tả cảnh dân Do Thái hồi hương đang xây lại tường thành, trước mưu đồ tấn công phá hoại của kẻ thù. Giống như câu: “Tay cày, tay súng” ở ta trước đây vậy đấy.
Hôm nay ta Bộ hành chỉ có 2 chương, song chương 3 đúng là khô như … đá. Xây tường mà lị. Thế nhưng, trong ‘đá’ này có ‘ngọc’ đó nghe. Hơi bị nhiều đấy. Cố mà đãi … đá để tìm nha.
Trước hết, ta xem cách Nê-hê-mi điều binh, khiển tướng trong việc “xây dựng lại nơi đổ nát của ngày xưa”. Trừ giới quý tộc ra, thì toàn dân toàn quan người Do Thái đều tham gia tái thiết tường thành, dựng lại cổng thành.
Nghệ thuật truyền cảm hứng hay ta còn gọi là “trao khải tượng” của Nê-hê-mi thật sự hiệu quả. Vì sau khi nghe Nê-hê-mi trình bày, thì các đại biểu nhất trí ngay: “Họ nói: ‘Nào, chúng ta hãy khởi công xây dựng lại ngay đi!’ Vậy họ mạnh dạn bắt tay vào công việc tốt đẹp nầy.” (2: 18).
Tuy tất cả đều nhiệt tình tham gia nhưng Nê-hê-mi không dồn họ vào một chỗ. Nguyên tắc chủ đạo: mỗi người xây sửa phần “đối ngang nhà mình”. Chiến thuật này vừa huy động được tối đa số người tham gia (thế mới có chuyện mấy cô con gái ‘chủ tịch’ quận cũng làm phụ hồ vô tư, hay mấy anh thợ vàng, thợ bạc và mấy anh chuyên sản xuất mỹ phẩm cũng không quản ngại dự phần), vừa bảo đảm ‘chất lượng công trình’. Tuy là tường chung, tuy là cổng chung nhưng ở trước nhà mình, nên có gì đó cũng là của riêng, là của mình. Mà hễ cái gì là của mình thì chuyện đầu tư, chăm chút hơn … của chung, cũng là chuyện tự nhiên thôi. Chung mà riêng, riêng mà chung là vậy.
Cum từ được sử dụng thường xuyên trong chương 3, sau từ “xây sửa lại” hay “tu bổ” là “KẾ người/chúng”. Người này kế tiếp người kia, mỗi người một phần việc, tuy giống nhau nhưng không hề giẫm chân nhau, ngăn cản nhau hay phê phán chỉ trích nhau. Chắc chắn là nhiều người trong số họ có cách trộn hồ, bê đá, trát vữa, … khác nhau; Chắc chắn là họ sử dụng những công cụ lao động khác nhau nhưng những điều đó không khiến cho họ bất đồng, tranh cãi. Đơn giản là họ tập chú vào mục tiêu. Họ có cùng mục tiêu: tái thiết tường thành, dựng lại cổng thành.
Khi không nhìn vào sự khác biệt của nhau mà chỉ tập chú vào những gì giống nhau giữa chúng ta thì việc hiệp một hay hòa thuận bao giờ cũng … nhỏ như con thỏ - dù là hiệp một trong hôn nhân giữa vợ và chồng, hiệp một trong gia đình, trong hội thánh hay trong bất kỳ tổ chức xã hội nào khác.
Nay quay sang ý nghĩa của từng chiếc cổng thành trong chương 3 nhé. Ngày xưa, mỗi một thành phố đều có một vòng tường bọc xung quanh, giống như tường rào của hầu hết những ngôi nhà ở miền Bắc Việt Nam vậy. Tường thành vốn có một chức năng căn bản: bảo vệ người sống trong thành phố khỏi sự tấn công của kẻ thù cũng như khỏi sự ô nhiễm về tôn giáo, văn hóa ngoại lai. Một thành phố ngày xưa mà không có vòng thành thì cũng giống như một căn nhà không có vách, không có tường, hay một mãnh vườn không có rào vậy. Mà như thế thì trộm cướp cứ vô tư vào ra, thú nhà, thú rừng cứ tha hồ lui tới. Đúng không?
Thế là cần phải xây tường. Nhưng nếu chỉ có tường mà không có cửa hay cổng thì cũng bằng nhau. Trộm vẫn cứ vào, thú vẫn cứ vô. Rồi, thì sửa cổng. Có mười cái cổng. Nhưng không phải cổng nào cũng “bị lửa thiêu đốt” đâu nhé. Và không phải cổng nào cũng cần phải “tra chốt và then cài” à nha.
Nào bây giờ ta cùng theo lịch trình tái thiết ‘ngược chiều kim đồng hồ’ trong chương 3 để học biết ý nghĩa cụ thể của từng chiếc cổng. Hãy lưu ý xem chiếc cổng nào trong đời sống của bạn, của hội thánh nơi bạn đang sinh hoạt bị thiêu hủy mà lo phục hồi nhé.
Cổng Chiên (3: 1-2) Đây là chiếc cổng mà người ta dẫn những con chiên (cừu) từ bên ngoài vào thành phố để làm sinh tế cho Đức Chúa Trời tại Đền Thờ. Mà Giê-xu người Nazaret được gọi là Chiên Con của Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng đã đến để cất tội lỗi của thế gian. Nói cách khác, cổng Chiên là hình bóng của Thập Tự giá. Đây phải là khởi đầu công việc của Đức Chúa Trời trong đời sống một người. Đây phải là nơi khởi đầu của bất kỳ một cuộc tái thiết hay tu bổ nào dưới góc độ cá nhân hay tầm mức tập thể. Nhớ là cổng này không bao giờ chốt hay khóa nhé.
Cống Cá (3: 3-5): Đây là hình bóng cho công tác chứng đạo của người tin thờ Chúa. Hãy nhớ lại câu nói của Đức Chúa Giê-xu với Phê-rơ: “Đừng sợ! Từ nay trở đi, ngươi sẽ nên tay đánh lưới người” (Luca 5: 10). Chiếc cổng này của bạn, của hội thánh bạn có còn ô-kê không hay đã tàn lụi? Lần cuối cùng bạn nói về Đức Chúa Giê-xu cho người khác cách đây bao lâu rồi?
Cổng Cũ (3: 6-12): Chiếc cổng này tượng trưng cho lẽ thật, tức những chân lý đã được bày tỏ trong Kinh Thánh. Đối với không ít người tin thờ Chúa, thậm chí là người hầu việc Chúa, thì một số điều dạy dỗ trong Kinh Thánh hoặc đã lỗi thời hoặc không còn giá trị trong thời đại ngày nay. Cổng đã bị thiêu rụi từ lâu nhưng ‘chúng’ không hề biết mới đau chớ. Trộm đã vào khoén sạch sành sanh rồi mà vẫn cứ tỉnh bơ, mồm xoen xoét: “bà còn thức đây nghe bây”!
Những chân lý được bày tỏ trong Kinh Thánh đúng là xưa thật, nhưng đó là đồ cổ chớ hổng phải đồ cũ đâu nha cưng. Xem lại đi nhé.
Cổng Trũng (3: 13-14): Cổng này nói về sự khiêm nhường. Đây là nơi mà chúng ta hạ mình trước Chúa, đầu phục chính mình cho ý muốn của Ngài theo gương Chúa Giê-xu (Philip 2: 6-8). Khá nhớ rằng, Đức Chúa Trời luôn chống cự kẻ kiêu ngạo đấy. Mà kiêu ngạo là răng? – Đơn giản là điều gì ta thích thì ta làm. Thế cho nên, mỗi khi cái tôi của ta, sự kiêu ngạo của ta thắng thế trong đời ta thì cổng Trũng của ta đã bị “thiêu rụi” mất rồi.
Cổng Phân (3: 14): Hết tên hay sao mà lại lấy Phân đặt tên cho một cổng thành nhỉ. Nghe cái tên đã mất cảm tình. (Đối với người miền Nam thì gọi thế là … rất văn hóa, khoa học nữa là khác, song người miền Bắc mà nghe đến từ này thì dễ tiết nước bọt để … phun lắm à nha. He he). Người ta gọi như thế vì qua cổng này rác từ thành phố được đem ra bỏ ngoài trũng Hi-nôm đấy.
Cổng này mà bị hư thì rác làm sao ‘xuất’ ra được. Mà không ‘xuất’ rác ra được thì thành phố sẽ phải chịu cảnh “đêm đêm ngữi mùi hương”. Mà ngày và đêm cứ được khuyến mãi mùi hương của rác như thế thì không cần phải ‘thế lực thù địch’ nào tấn công cả, dân trong thành cũng lăn đùng ra chết … dịch thôi.
Cổng Phân tượng trưng cho sự ăn năn, tức xưng nhận tội lỗi của mình và lìa bỏ nó. “Hãy thanh tẩy chính mình cho sạch những điều ô uế về phần thân thể lẫn tâm linh, hãy hoàn thành sự thánh hóa trong niềm kính sợ Đức Chúa Trời” (2 Corinhto 7: 1). Và “nếu chúng ta xưng tội lỗi mình thì Ngài là Đấng thành tín và công chính sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Giăng 1: 9).
Viết đến đây, chợt nghĩ đến mấy thầy, mấy chú bên “duy ân điển”, những người đang nhiệt thành thực hành và cổ xúy cho lối sống mới: “không cần phải ăn năn lần nữa, nếu lỡ phạm tội”. Cổng Phân của mấy ‘ảnh’ đổ nát như rứa mà mấy ‘ảnh’ bảo không cần phục hồi. Rứa thì rác mấy ‘ảnh’ đổ đâu ta? Chẳng lẽ mấy ảnh hổng có rác. Hay vì ‘sống chung với … rác’ riết rồi quen nên hổng còn phân biệt được mùi … rác thối. Mà cũng có thể vì bệnh nặng quá rồi nên mất khứu giác, tức là khả năng … ngữi cũng nên. Nếu đúng như thế thì … thối thật.
Cổng Suối (3: 15): Chiếc cổng này tượng trưng cho Đức Thánh Linh. Lưu ý là cổng Suối đi liền sau cổng Phân đấy. Rác rưới, ô nhơ, bất khiết trong ta phải được dọn dẹp trước, sau đó mới nói đến việc khơi thông dòng chảy của “suối nước sự sống” trong ta. Sự thông công với Đức Thánh Linh cần phải được tái lập trở lại. Nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra SAU KHI ta ăn năn tội lỗi, tức là dọn dẹp sạch sẽ phố phường mà thôi. Nhớ nha.
Cổng Nước (3: 26): Nước luôn là hình bóng về Lời Đức Chúa Trời. Cần lưu ý là cổng Nước không cần phải xây sửa hay tu bổ nhé. Lời Chúa không bao giờ bị hư hỏng, cũng không cần thêm hay bớt gì cả. Chúng ta chỉ cần tiếp nhận và đi xuyên qua cổng này mà thôi.
Cổng Ngựa (3: 28): Chiếc cổng này là nơi ra, vào của những chiến binh mỗi khi lâm trận. Nó là hình bóng của trận chiến thuộc linh. Là những người lính của Đấng Christ (2 Timothe 2: 3-4), bạn có còn đang đứng trong trận chiến vì cớ Chúa ngày hôm nay không? Nếu câu trả lời của bạn là không, thì cổng Ngựa của bạn cần phải sửa hơi bị nhiều rồi đó.
Cổng Đông (3: 29): Chiếc cổng này nói về sự tái lâm của Đấng Christ (Mathiơ 24: 27). Cổng phía Đông cũng là nơi sự vinh hiển của Chúa đi vào (Ê-xê-chi-ên 43). Bạn có chờ đợi, có trông mong ngày Chúa Giê-xu trở lại không?
Cổng Đông trong lòng một người, một gia đình, một hội thánh bị đổ nát là khi lẽ thật về sự tái lâm của Chúa Giê-xu không thật sự có chỗ trong cá nhân đó, gia đình đó hay hội thánh đó. Biết về lẽ thật đó là một chuyện, còn có sống xứng đáng với việc Chúa Giê-xu sẽ trở lại trong nay mai lại là một chuyện khác. Mà có “chuyện khác” này thì mới thật sự là có cổng Đông đúng nghĩa. Cổng Đông của bạn ô key chớ?
Cổng Phán Xét hay còn gọi là cổng Duyệt Binh, nguyên văn là Mi-phơ-cát (3: 31): Đây là nơi các đạo binh tập họp trước khi vị chỉ huy đến duyệt binh, hoặc được dùng để xử án. Cổng này là hình bóng cho toà Đấng Christ, khi mọi Cơ-đốc nhân hàng ngũ chỉnh tề trong lễ “Tổng Kết Cuộc Chạy Marathon Đường … Đời”. Được thưởng hay chỉ được … cứu mà thôi chính là lúc này đây (1 Cô-rinh-tô 3: 13-15).
Dài quá rồi phải không. Mười cửa kia mà (còn cổng Epraim và cổng Ngục mà trong sách này không nói đến nữa đấy: Đủ số phải là 12 cơ!). Hãy nhanh chóng sửa lại những cổng thành nào bị đổ nát trong đời sống cá nhân của bạn và hãy cầu nguyện để đến lúc gia đình bạn, hội thánh của bạn cùng đứng lên tái thiết lại từng cổng thành như dân Do Thái đã làm dưới quyền lãnh đạo của Nê-hê-mi năm xưa.


Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

NGƯỜI CHO SỨ MẠNG

Nehemi 1-2
Thế là Nê-hê-mi, một vị quan trong triều đình Ba-tư, chuyên kề cận dâng rượu cho đại đế Ạt-ta-xét-xe, đã được Đức Chúa Trời kêu gọi. Chúa kêu gọi ông làm người lãnh đạo đợt hồi hương lần thứ ba, cũng là lần cuối cùng của người Do thái về lại Giê-ru-sa-lem.
Quan dâng rượu cho vua, tuy chức không cao, quyền không lớn, nhưng là người thân cận, rất được tin tưởng của vua. Ngoài việc nếm trước rượu của vua để phòng có ‘thế lực thù địch’ nào toan hạ độc vua không, thì quan dâng rượu còn là người luôn bên cạnh vua để trò chuyện, cố vấn, … về nhân tình thế thái, quốc gia đại sự.
Đang yên ổn trong thủ đô của toàn thế giới lúc bấy giờ thì Nê-hê-mi lại được (bị) Chúa gọi về cố đô Giê-ru-sa-lem, một thành phố hoang tàn. Sự kêu gọi của Nê-hê-mi được bắt đầu bằng một cuộc gặp rất đỗi bình thường với người em họ là Hanani. Thế đấy, có những cuộc gặp gỡ không lấy chi làm đặc biệt nhưng đã dẫn đến những bước ngoặc lớn lao trên đời sống và chức vụ của biết bao người.
Cuộc đời của Nê-hê-mi đã hoàn toàn đổi hướng, từ chỗ phục vụ vua đời đến chỗ phục vụ Vua Trời. Đối với Đời, thì việc thay đổi của Nê-hê-mi là ‘xuống cấp’. Song theo quan điểm của Trời, thì Nê-hê-mi đang thật sự được ‘thăng cấp’. Những năm tháng học tập và phục vụ trong hoàng cung chỉ là thời gian chuẩn bị cho chức vụ thật sự mà Chúa đã sắm sẵn cho ông mà thôi.
Thế nhưng, Nê-hê-mi được chọn không phải vì ông có địa vị trong cung vua. Chúa chọn Nê-hê-mi vì ông thuộc típ người 3 trong 1! Này nhé: ông là người có lòng cưu mang; ông là một người cầu nguyện; và ông là một người hành động.
Tuy sống ở ngoại quốc, đủ đầy mọi sự nhưng Nê-hê-mi lại có lòng cưu mang cơ nghiệp nhà Chúa. Ông liên tục cầu nguyện cho cơ nghiệp nhà Chúa. Từ khi biết được tình trạng dân sự Chúa ở quê nhà, Nê-hê-mi liên tục kiêng ăn cầu nguyện xin sự cứu giúp của Chúa. Và cuối cùng, ông sẵn sàng trở nên là câu trả lời của Chúa cho tình trạng đó.
Có rất nhiều người ngày hôm nay cũng thật sự đau đớn về tình trạng của hội thánh, không ít người trong số họ thường kêu khóc với Chúa cho hội thánh, nhưng có quá ít người sẵn sàng dấn thân như Nê-hê-mi để ‘thay đổi hiện trạng’. Thật không khó để gặp những con người có khả năng chỉ ra những sai trật, những tệ nạn, nan đề trong xã hội hay trong hội thánh; cũng không khó để tìm ra những con người luôn có những đề xuất, kế hoạch, phương án, … rất chi là lý tưởng. Nhưng, thời nào cũng vậy, luôn khó tìm những con người sẵn sàng xắn tay áo lên để làm một việc gì đấy để ‘giải quyết vấn đề’.
Bạn thuộc loại người nào: “Chỉ được … cái nói giỏi” hay là “nói được làm được”?
Anh chị em có nhận thấy được tình trạng thật của gia đình mình không? Anh chị em có nhận thấy những đổ vỡ trong hội thánh địa phương nơi anh chị em đang sinh hoạt không? Anh chị em có đã và đang LÀM GÌ để cải thiện tình trạng đó chưa?
Nhớ nè: một khi bạn chấp nhận xắn tay áo lên (hành động) thì cũng đồng nghĩa với việc phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận trả giá đấy. Nê-hê-mi đã chấp nhận rời khỏi hoàng cung, để sống đời … dân xây dựng. Rời khỏi cái tổ êm ấm, an toàn để đối diện với thách thức, chống đối, hiểm nguy.
Trong chương 2 nói riêng và trong cả sách Nê-hê-mi nói chung, chúng ta có thể nhận được rất nhiều bài học về người lãnh đạo và công tác lãnh đạo. Đặc biệt là đối với những ai được kêu gọi “xây sửa” lại những cá nhân, những hôn nhân và những hội thánh đang bị đổ vỡ, tàn rụi.
Nê-hê-mi đích thân đi xem xét tường thành, tức là bí mật điều tra để nắm biết thông tin cụ thể về những nơi chốn “đổ vỡ”. Chỉ sau đó, ông mới triệu tập những người lãnh đạo để thông báo kế hoạch tái thiết. Sự khôn sáng của Nê-hê-mi trong việc thực hiện kế hoạch rõ ràng là kết quả cụ thể của 4 tháng cầu nguyện, kiêng ăn, tìm kiếm và chờ đợi ý Chúa của ông.
Được Chúa kêu gọi để thực hiện sứ mạng thì chưa đủ. Người được kêu gọi cần phải biết chờ đợi – trong sự cầu nguyện – thời điểm của Chúa, sự hướng dẫn của Chúa. Một khi đã nhận được sự ủng hộ của Chúa thì chuyện được con người, từ vua chí dân, ủng hộ là lẽ đương nhiên. Và một khi đã được Chúa ủng hộ thì kẻ thù dù có dấy lên cỡ nào đi nữa, cũng sẽ bị hạ xuống mà thôi.
Bạn đã có được bản hướng dẫn chi tiết từ nơi Chúa về việc tái thiết đối tượng cụ thể mà Chúa kêu gọi bạn chưa?


Thứ Hai, 4 tháng 5, 2015

TUYỆT TÌNH TANG

Ê-xơ-ra 9-10
Bốn tháng sau ngày hồi hương, Ê-xơ-ra được biết một sự thật phủ phàng: dân Chúa đồng hóa với thế gian hơi bị mạnh. Rõ ràng nhất là trong lĩnh vực hôn nhân. Và nâm-bờ hoanh trong chuyện này là các quan chức và các nhà lãnh đạo. Thật không hỗ danh là lãnh đạo. Phạm tội cũng đi đầu. Bái phục, bái phục.
Thật ra, hôn nhân với dân ngoại chỉ là điển hình thôi, chớ còn tình trạng ô nhiễm thuộc linh thật sự là ri nè: “Dân Y-sơ-ra-ên, kể cả những thầy tế lễ và người Lê-vi đều không sống tách biệt với các dân tộc trong xứ, nhưng bắt chước theo những tập tục ghê tởm của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ai Cập, và dân A-mô-rít.” (9: 1)
Một khi mà dân Chúa kết hôn với người thờ lạy hình tượng, mà chính xác là thờ ma lạy quỷ, thì việc thỏa hiệp trong mọi lĩnh vực khác là điều chắc chắn. Đó chính là lý do mà từ ban đầu Đức Chúa Trời đã nghiêm cấm dân Y-sơ-ra-ên, tuyển dân của Ngài, cưới gả với dân ngoại.
Dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày cũng vì tội thờ lạy hình tượng, nay được trở về cố hương họ lại tiếp tục lập lại chính sai phạm của cha ông mình. Sự cám dỗ “mang ách chung với kẻ chẳng tin” luôn chào đón con dân Chúa suốt mọi thời đại. Không ít con cái của những “thầy tế lễ” đã cưới gả với dòng dõi bất khiết xung quanh “khiến cho dòng dõi thánh (lẽ ra phải có từ chúng) đã bị pha trộn”.
Nhiều anh trai, chị gái rất tự tin tuyên bố rằng, mình chắc chắn sẽ đem người yêu chưa tin Chúa trở lại đầu phục Chúa. Khốn nỗi, có đứa nào đang yêu, (mà trong những trường hợp này phải là si mới đúng), lại đủ can đảm để nhìn nhận rằng, mình đang bị mù. He he. Thế cho nên, từ xưa đến nay, trong những cuộc hôn nhân kiểu này thì con Đời luôn thắng con Trời. Chỉ thấy đứa không tin kính Chúa kéo đứa tin kính ngã nhào chớ hiếm khi thấy chiều ngược lại.
Trường hợp khá lắm là ri: chìu theo người bạn đời, tức là theo đạo chồng hoặc theo đạo vợ, chớ lòng thì không hề có Chúa. Hôn nhân kiểu này mà con cái nó không phản Chúa, không chống Chúa, không chối Chúa mới là lạ.
Nhiều bạn trẻ chỉ nghĩ đến việc “con vợ mình đẹp, thằng chồng mình xinh” chớ có anh chị nào có suy nghĩ đủ dài đến ‘hậu quả’ của chuyện tình “so le đức tin” như thế này đâu. Và thế rồi, dù biết đó là điều cấm nhưng vẫn cứ đưa đầu vào mang ách; Và các bậc cha mẹ, dù biết đó là chống nghịch Chúa, nhưng vì sĩ diện, vì … đủ thứ chuyện nên cũng tìm mọi cách hợp thức hóa … cho rồi.
Quan điểm của Chúa trong vấn đề này là rất rõ ràng: “TUYỆT TÌNH”
Từ người đầu tiên là Apraham (Sáng thế ký 21: 10-21) cho đến dân Do Thái hồi hương thời Ê-xơ-ra cho đến chúng ta, những người tin thờ Chúa ngày hôm nay, mạng lịnh chỉ có một: ĐOẠN TUYỆT. Nhớ đấy.
Chỉ có một ngoại lệ duy nhất: chỉ người vợ nào quyết định dứt khoát với dân tộc mình, từ bỏ hoàn toàn thần tượng của mình, rồi nhận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên làm Chúa của mình thì người ấy sẽ được nhận vào cộng đồng dân Chúa như Ru-tơ đã từng. Đó chính là lý do mà kết cuộc chỉ có tổng cộng 114 ‘bà mẹ Samari … anh hùng, thà chết chớ không chịu hy sinh’, bị đuổi khỏi cộng đồng dân Do Thái mà thôi.
Nguyên tắc này cũng được lập lại trong thời Tân Ước: “Nếu anh em nào có vợ không tin Chúa, nhưng người nầy bằng lòng chung sống với mình, thì người ấy không được ly dị vợ. Nếu một phụ nữ có chồng không tin Chúa, nhưng người nầy bằng lòng chung sống với mình, thì người ấy không được ly dị chồng. Vì người chồng không tin Chúa sẽ nhờ vợ được thánh hóa; còn người vợ không tin Chúa sẽ nhờ chồng được thánh hóa. Nếu không, thì con cái anh em đã bị ô uế, nhưng hiện nay chúng đều được thánh hóa cả. Nếu người không tin Chúa muốn phân rẽ thì cứ để người ấy phân rẽ. Trong trường hợp nầy, anh em hay chị em không bị ràng buộc gì. Vì Đức Chúa Trời đã gọi chúng ta sống trong hòa bình. Hỡi người làm vợ, biết đâu chị em lại cứu được chồng mình? Hỡi người làm chồng, biết đâu anh em lại cứu được vợ mình?” (1 Corinhto 7: 12-16).
Một bài học khác mà ta có thể nhận được từ phần Kinh Thánh hôm nay là gương cầu thay của Ê-xơ-ra. Trong khi những người lãnh đạo và những thầy tế lễ khác thì rất tích cực làm gương … xấu cho toàn hội chúng, thì Ê-xơ-ra lại hạ mình ăn năn trước mặt Chúa về tội lỗi của họ và của toàn dân sự. Dù không cưới vợ ngoại hay theo đòi các thói tục của dân bản địa, nhưng Ê-xơ-ra đã đồng hóa chính mình trong tội lỗi mà dân sự đã phạm trước mặt Chúa. Ông đã nhận về phần mình tội lỗi của dân sự.
Việc ông trải lòng mình ăn năn tội lỗi cách chân thành trước mặt Chúa và cầu thay cho dân sự đã ảnh hưởng cách mạnh mẽ đến hội chúng. Hội chúng đã theo gương ông hạ lòng ăn năn trước Chúa.
Ăn năn thật bao giờ cũng bao gồm việc xưng nhận tội và thực hiện hành động tương ứng. Người Do Thái đã xưng tội và rồi quyết định ly dị với nhưng người vợ nào không chịu đoạn tuyệt với thần tượng để trở thành dân Chúa.
Một người lãnh đạo biết đau đớn vì tội lỗi của dân sự Chúa, một người lãnh đạo dám đồng hóa mình với dân sự khi bước vào sự cầu thay, một người lãnh đạo dám sống theo như những gì mình dạy dỗ từ nơi Lời của Đức Chúa Trời là loại lãnh đạo mà hội thánh Chúa khắp mọi nơi đang trông đợi.
Nguyện Đức Chúa Trời dấy lên những Ê-xơ-ra như thế cho hội thánh Ngài trên xứ sở của chúng ta.


Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2015

NGÀY VỀ QUÊ MẸ

Ê-xơ-ra 7-8
Giữa chương 6 và chương 7 của sách Ê-xơ-ra hay chính xác hơn là từ 6: 22 đến 7: 1 là một khoảng thời gian im lặng dài đến … 58 năm kia đấy. Đây là thời trị vì của vị vua Ba-tư cuối cùng, Ạt-ta-xét-xe. Ông này là con ông Xét-xe, vị vua đã cưới cô Ê-xơ-tê làm vợ đấy. Thế thì câu chuyện được thuật lại trong sách Ê-xơ-tê là xảy ra trong khoảng giữa của 2 đoạn 6-7 này. Nhớ nha.
Chương 7 chấm dứt 58 năm yên lặng bằng việc giới thiệu Ê-xơ-ra, một thầy tế lễ, con nhà nòi. Dòng A-rôn chính hiệu. Ông còn là một chuyên gia về Lời Chúa. Tất cả những điều đó (truyền thống gia đình, trình độ kinh thánh) là một thuận lợi lớn cho Ê-xơ-ra, nhưng mọi sự chỉ thật sự có ý nghĩa khi và chỉ khi Ê-xơ-ra đáp ứng tiếng gọi của Chúa: Hồi Hương.
Với lịnh vua trong tay, và khoảng đâu chừng 40 tấn bạc và vàng, giáo sư Ê-xơ-ra cùng 1,753 người lên đường trực chỉ Giê-ru-sa-lem thẳng tiến suốt 4 tháng trời ròng rã. Cuối cùng họ đã đến nơi an toàn trong sự bảo vệ cách lạ lùng của Chúa
Bài học lớn nhất mà chúng ta học được qua hai chương Kinh Thánh hôm nay: chọn tin cậy Chúa.
Có khi nào bạn đã từng cố giúp Chúa bằng cách làm cho Chúa cái việc mà Ngài đã hứa là sẽ làm không?
Apraham đã từng ‘cố’ như thế bằng việc làm cha của Ích-ma-ên (Sáng Thế Ký 16), cho dù Chúa đã hứa sẽ ban cho ông một đứa con trai bởi Sara. Vua Sau-lơ đã từng cố như thế (1 Samuen 17: 38-39) khi khoát cho Đa-vít bộ giáp của mình, nhưng cậu thiếu niên chăn cừu thì biết Chúa muốn mình dùng cách gì để hạ được tên khổng lồ Gô-li-áp.
Ê-xơ-ra cũng bị cám dỗ ‘cố’ như thế. Ông có cơ hội để xin vua cho mình một đạo kỵ binh bảo vệ suốt cuộc hành trình. Song Ê-xơ-ra đã chọn quỳ gối trước Chúa và nhận sự bảo đảm từ Ngài theo như lời ông đã công xưng trước vua Ạt-ta-xét-xe: “Tay của Đức Chúa Trời chúng tôi giúp đỡ mọi người tìm kiếm Ngài, nhưng quyền năng và cơn thịnh nộ của Ngài chống cự những kẻ nào lìa bỏ Ngài” (8: 22)
Với lòng tin quyết như thế, Ê-xơ-ra và đội hình hơn nghìn người của ông đã có một cuộc hành trình suốt bốn tháng trời thật sự bình an. Đi đến nơi, về đến chốn. An toàn.
Bạn đã từng bị cám dỗ như kiểu của Ê-xơ-ra bao giờ chưa? Và khi đối diện với những cám dỗ đó thì đâu là nơi mà bạn thường đặt lòng tin cậy: sổ tiết kiệm, thẻ bank (tài khoản ngân hàng)? những khoản đầu tư? bạn bè? công việc? người bạn đời? hay nơi chính Chúa?
Hãy trở lại với Chúa ngay hôm nay trong sự cầu nguyện tin quyết và chờ đợi sự hướng dẫn của Ngài cho bước linh trình của bạn trong những ngày sắp tới.
Trong phần Kinh Thánh hôm nay chúng ta cũng thấy được những con người được Chúa dấy lên để lãnh đạo dân sự của Ngài thuộc đủ thành phần. Xô-rô-ba-bên là một hoàn tử Giu-đa, còn Ê-xơ-ra thì là một văn sĩ và là một thầy tế lễ, rồi sau này, đến lượt Nê-hê-mi, ngưỡi lãnh đạo cuộc hồi hương lần thứ ba là một chính trị gia xuất thân từ một chi tộc không có gì đặc biệt.
Dù bạn là ai, bạn cũng có một chỗ trong kế hoạch xây dựng Hội Thánh của Chúa trên đất này. Điều duy nhất Chúa đòi hỏi nơi bạn: một đức tin năng động. Một đức tin đặt trọn nơi Đức Chúa Trời và duy chỉ một mình Ngài mà thôi.
‘Hồi hương’ đối với người này có thể giống hoàn toàn như Ê-xơ-ra là lìa bỏ xứ người để về lại quê nhà góp phần xây dựng hội thánh Chúa; Đối với người khác, ‘hồi hương’ là lìa … Đời, là bái bai những lạc thú thế gian để quay về với Cha, để trở lại cùng Chúa xây lại Đền Thờ lòng và còn nữa, ‘hồi hương’ cũng có thẻ là lìa bỏ những gì tiện nghi, quen thuộc để dấn thân vào cuộc thám hiểm thuộc linh mà đích đến cuối cùng là Giê-ru-sa-lem.
Dù ‘hồi hương’ của bạn thuộc kiểu nào đi nữa mà hôm nay, nếu Chúa gọi bạn ‘hồi hương’ để góp phần xây dựng Đền Thờ, bạn có sẵn sàng thưa vâng với Chúa như Ê-xơ-ra đã từng không?