Thánh Thi tập 2 (từ 42-72) bắt đầu bằng 8 bài thơ,
được cho là do con cháu của Cô-rê (hay Cô-ra) cảm tác.
Mà Cô-rê là ai? Cứ theo ‘sơ yếu lý lịch’ mà tra xét
thì đây là người bị chôn sống vì tội đầu têu phản loạn chống Môi-se (Dân số ký
16). Không hiểu bằng cách nào mà vẫn còn sót lại được một phần hậu tự của ông,
về sau được chọn là những người gác cổng Đền Thờ (1 Sử Ký 9: 19) và một phần
khác là những ca sĩ và nhạc công phục vụ trong ca đoàn tại Đền Thờ (1 Sử ký 6:
31-47).
Tám chương Kinh Thánh hôm nay có thể chia thành 3
nhóm theo ba tiểu đề khác nhau. Đó là: kêu cứu cùng Chúa (TT 42-44), chúc tán
Chúa là Vua (TT 45-48), và chê mấy anh giàu mà dại (TT 49).
Chúng ta không biết được bối cảnh sáng tác của
những bài thơ này, nhưng rõ ràng người viết đang ở trong một hoàn cảnh rất bi
đát. Bị hoạn nạn, áp bức (44: 24); bị thất trận, bị bắt làm tù binh, (44:
10-12); bị sỉ nhục, bị mắng chửi, trở thành đề tài đàm tếu của dân ngoại (44:
13-16); bị lưu lạc, không còn được thờ phượng Chúa (42: 4, 43: 2); bị người ta
trêu chọc, chê giễu (42: 3, 10).
Nói chung, là vừa đau vừa nhục.
Càng nghĩ về quá khứ – về lịch sử của dân tộc, về
kinh nghiệm của bản thân, nhất là những năm tháng được gần gũi Chúa, được phục
vụ Chúa trong Đền Thờ của Ngài – người viết càng hối tiếc, càng đau đớn. Nhất
là khi kẻ qua người lại cứ trêu ngươi: “Thế Chúa của mi ở đâu, mà mi ra nông
nỗi này?”
Xưa con đi cùng đoàn dân,
Dẫn họ đến nhà Đức Chúa Trời
Với tiếng reo mừng và ca ngợi,
Giữa đoàn dân đông dự lễ.
Bây giờ nhớ lại những điều ấy
Lòng con buồn thảm, xót xa. (42: 4)
Có lẽ đây là tâm trạng của không ít người vốn đã
từng ‘vào ra’ nơi nhà Chúa, tức hội thánh của Đức Chúa Trời. Đó là những người
đã từng là trưởng ca đoàn, là người hướng dẫn ngợi khen thờ phượng trong các
hội thánh, đặc biệt là các hội thánh – mục vụ Việt Nam tại xứ Cọ này.
Ước gì những người ấy, giờ này – dù đang lưu lạc ở
“đất Giô-đanh”, hay “núi Hẹt-môn” hoặc cao nguyên “Mít-sê-a” đi nữa – vẫn còn
biết nhớ đến Chúa như “nai cái thèm khát khe nước”.
Con nai cần nước và thèm khát nước để có thể tung
tăng vui sống khắp nơi. Trái lại, lạc đà thì không. Nó thể đi suốt 3 tháng
mà không cần uống nước. Có ai đó đã từng bảo rằng, thật là dễ cho chúng ta trở
nên giống như con lạc đà hơn là con nai trong cuộc sống đầy đủ này. Riêng bạn
thì sao?
Giữa một thế giới đầy biến động và luôn thay đổi
như hiện nay; trong thời điểm mà những nan đề khẩn cấp – từ mức độ cá nhân đến
tầm quốc gia và quốc tế – luôn vượt trội bội phần hơn so với những giải pháp
khả thi, thì đâu là chốn vững an thật sự mà chúng ta có thể chạy đến?
Hãy chạy đến chính nơi trú ẩn mà người viết Thánh Thi
đã tìm thấy được.
Trong thánh thi 46, con cháu Cô-rê đã miêu tả những
tai họa kinh hoàng ập xuống thế giới này: động đất, lở đất và sóng thần (c.
2-3). Và khi mọi thứ dường như mất sạch, thì nơi Trú Ẩn vững an – Đức Chúa Trời
của Y-sơ-ra-ên – vẫn còn nguyên ở đó.
Phải, chính Đức Chúa Trời của Apraham, Ysac,
Gia-cốp – Đức Chúa Trời mà chúng ta đang thờ phượng là Vầng Đá vững an của bao thời
đại. Hãy nương náu mình nơi chính mình Ngài.
Trước khi, gấp Kinh Thánh lại, hãy làm theo sự
hướng dẫn trong Thánh Thi 46: 10.
Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Đức Chúa Trời;
Ta sẽ được tôn cao trong các nước,
Ta sẽ được tôn cao trên đất nầy.
Hãy gác sang bên tất cả những vướng bận đời thường
và dành ít thời gian yên lặng, lắng lòng trước Chúa. Hãy trao cho Ngài tất cả
những sợ hãi kín giấu nào có trong bạn.
Nếu có thể, hãy lấy một miếng bìa cứng và viết câu
Kinh Thánh này vào đấy để tiện suy gẫm và học thuộc lòng. Rồi mỗi khi sự sợ
hãi, như a-xít, bắt đầu gặm nhấm sự bình an trong tâm trí mình, bạn hãy rút câu
này ra, mà tống khứ nó đi. Khá nhớ rằng, Nơi Trú Ẩn của bạn “hôm qua, hôm nay, và cho đến đời đời không
hề thay đổi” (Hê-bơ-rơ 13: 8)