Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

NGÀY TÀN CỦA BẠO CHÚA

1 Các Vua 20-22 
Ba chương Kinh Thánh hôm nay thuật lại giai đoạn cuối đời của vua A-háp, vị vua đã đạt đến cực đỉnh trong sự gian ác tại vương quốc phía Bắc là Y-sơ-ra-ên.
Từ cuối chương 16, ta đã được xem ‘lý lịch trích ngang’ của vị vua này:
“Năm thứ ba mươi tám đời A-sa, vua Giu-đa, thì A-háp, con trai Ôm-ri, lên ngôi làm vua Y-sơ-ra-ên; người ở Sa-ma-ri, cai trị trên Y-sơ-ra-ên hai mươi hai năm. A-háp, con trai Ôm-ri, làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va hơn hết thảy các người tiền bối mình. Vả, người lấy sự bắt chước theo tội lỗi của Giê-rô-bô-am, con trai Nê-bát, làm nhỏ mọn, nên người đi lấy Giê-sa-bên, con gái Ết-ba-anh, vua dân Si-đôn, mà làm vợ; người cũng đi hầu việc Ba-anh và thờ lạy nó. Người lập một bàn thờ cho Ba-anh tại trong miễu của Ba-anh mà người đã cất tại Sa-ma-ri. A-háp cũng dựng lên một hình tượng Át-tạt-tê. Vậy, A-háp làm nhiều điều ác, chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên hơn các vua Y-sơ-ra-ên trước mình” (16: 29-33)
A-háp rất là sùng đạo, trừ đạo … Chúa; chúa nào cũng thờ, ngoại trừ Chúa Giê-hô-va! Thế nhưng, có thể nói đối tượng thờ phượng ‘nâm-bờ hoanh’ của A-háp là thờ … bà, bà vợ Giê-sa-bên!
A-hap là vua, là lãnh đạo của Y-sơ-ra-ên, còn Giê-sa-bên là lãnh đạo của A-hap! (Nếu tại Y-sơ-ra-ên lúc bấy giờ mà có một HSV (hội sợ vợ) thì chắc chắn A-háp sẽ được tín nhiệm cao cho vị trí chủ tịt. Hic).
Giê-sa-bên đứng đằng sau mọi quyết định của A-háp. Câu chuyện chiếm vườn nho của Na-bốt trong chương 21 cho chúng ta thấy rõ rằng, chính Giê-sa-bên mới là người thật sự cầm quyền, chính Giê-sa-bên mới là người thật sự lãnh đạo đất nước.
Đây chính là nguồn gốc mọi tai họa đối với A-háp nói riêng và quốc gia Y-sơ-ra-ên nói chung. Cũng chính vì thế mà việc cưới Giê-sa-bên đã đưa A-háp đạt đến đỉnh … ác, theo chuẩn của Chúa. Ác hơn việc thờ lạy bò con vàng mà Giê-rô-bô-am đã tái lập nữa kia. Kinh.
Ngày nay tinh thần Giê-sa-bên hoặc linh Giê-sa-bên vẫn luôn tìm cách tấn công và kiểm soát vợ của những người lãnh đạo trong hội thánh. Tà linh này thông qua người vợ luôn xui khiến chồng làm những chuyện sai trật với đạo lý Chúa, hãm hại những tôi tớ Chúa thật và đem sự đồi bại vào trong nơi chốn thờ phượng Chúa.
Hãy tỉnh thức với tà linh này hỡi anh chị em.
Dù A-háp thuộc dạng … ‘ác 5 sao’ nhưng Chúa lại luôn ban cho ông ta hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Răng lọa rứa hè? – Câu trả lời là ri: Ta sẽ phó nó vào tay ngươi, và ngươi sẽ biết Ta là Giê-hô-va (20: 13, 28)
Không phải vì A-háp đẹp lòng Chúa đâu mà là vì Chúa còn cố tỉnh thức tay bạo chúa này, rằng thì là chính Chúa, Giê-hô-va, mới là Chân Thần, mới là Đấng xứng đáng để thờ phượng, để nương cậy, chớ không phải là Ba-anh hay Át-tạt-tê. Thắng hay bại là do Chúa Giê-hô-va mà có chớ không phải do thần thánh nào khác hay là do sức mạnh quân sự của vua hay của liên minh mà vua có được.
Hết tiên tri này đến tiên tri khác, hết hướng dẫn rồi cảnh báo, nhưng than ôi, A-háp đã vào giai đoạn cuối, hết thuốc chữa rồi nên giờ chỉ chờ chuông gọi hồn A thôi.
Mỗi khi có ai đó trái ý mình hay quở trách mình thì vua A-hap luôn “lấy làm buồn rầu và giận dữ” (20: 43; 21: 4), chỉ có lần cuối cùng khi đối mặt với bản án chung thẩm được tuyên bởi tiên tri lửa Ê-li thì A-háp mới hạ lòng ăn năn. Nhưng khi ấy thì đã quá muộn rồi.
Hỡi anh chị em việc còn có ai đó góp ý cách thẳng thắn hay chỉ ra cái sai của mình thì hãy khiêm nhường, tạ ơn Chúa, cảm ơn người mà suy xét. Nếu điều người ấy nói là đúng thì hãy thay đổi, hãy ăn năn. Còn nếu điều người ấy nói thật sự không chính xác thì cũng hãy xem lại cách sống, cách xử sự của mình để người ta không hiểu nhầm cách tai hại như thế.
Đừng bao giờ căn cứ vào những chiến công mà ta còn giành được hay số lượng đông đảo những ‘tiên tri’ luôn mượn danh Chúa ‘phán’ những điều ta muốn nghe, mà thật sự là xúi ta vào chỗ chết, để minh chứng rằng việc ta đang làm là đúng, ta vẫn còn ‘ngon lành’ trong mắt Chúa. Chết bất đắc kỳ tử nghe cưng. Cũng thì chết trên chiến trường nhưng A-háp đã chết cách lãng nhách (22: 34).
Thật ra, thì A-háp vẫn còn biết phân biệt đúng sai chớ không đến nỗi lú hoàn toàn. Ông vẫn biết được đám tiên tri đông đảo bên cạnh mình là xạo, là một lũ nịnh. Ông cũng biết được ai là tôi tớ thật của Đức Chúa Trời và đâu là sứ điệp thật từ Đức Chúa Trời.
Vì biết cho nên khi ra trận A-háp không dám mặc hoàng bào. Thế nhưng với bản tánh ngoan cố của mình, A-háp bỏ ngoài tai lời cảnh báo của Chúa qua tôi tớ thật của Ngài là tiên tri Mi-chê, để ra trận. Có lẽ, ông hy vọng rằng, lần này Chúa lại … du di, lại bỏ qua cho mình chuyến nữa chăng.
Nhưng Trời bất dung gian, A-háp mất mạng nơi chiến trường bởi một mũi tên lạc.
Một kết cuộc tối hù cho ngày tàn của một bạo chúa, và cũng là kết thúc của sách Các Vua thứ nhất, sách liệt kê những vị vua nhưng không biết tôn Thiên Chúa làm Vua trong đời sống của mình. 


Chủ Nhật, 5 tháng 4, 2015

A-HÁP XÁP Ê-LI

1 Các Vua 17-19
Không ồn ào, không màu mè, không một lời giới thiệu, Ê-li đột ngột xuất hiện trên sân khấu lịch sử Y-sơ-ra-ên để tiên báo về cơn hạn hán khủng khiếp trong thời trị vì của bạo chúa A-háp. Bắt đầu từ đây hoạt động của các tiên tri Đức Chúa Trời trở nên nổi trội hơn, và làm cho hình ảnh các vị vua ‘lu mờ’ đi nhiều so với các chương trước đó.
Các tiên tri Cựu ước luôn xuất hiện trong một hoàn cảnh nào đó khi có nan đề. Nói cách nôm na thì “không có nan đề, không có tiên tri”. Tiên tri Ê-li cũng không ngoài quy luật đó.
Có rất nhiều sứ điệp đã từng được giảng dạy từ ba chương Kinh Thánh hôm nay về đức tin, về Đức Chúa Trời và về người hầu việc Chúa.
Giữa một xã hội bội đạo, tội ác gia tăng và hội tụ ngay trong nhà của người lãnh đạo quốc gia là vua A-háp thì Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục dùng tôi tớ Chúa tỉnh thức những người lãnh đạo và dân sự của Ngài về sự sai trật, về sự mù lòa của họ. Lúc bấy giờ, từ vua đến dân không ai còn phân biệt được ai là Chân Thần. Họ không còn biết giữa Giê-hô-va và Ba-anh thì ai mới thực sự là Chúa. Tức là, ai là Đấng cầm quyền tể trị trên sự sống và sự chết; ai là Đấng cầm quyền tể trị trên muôn loài vạn vật, trên mọi dân mọi nước; ai thật sự làm mưa làm gió; ai thật sự làm sấm làm sét; ai thật sự đang sống.
Tất cả những phép lạ mà Chúa thực hiện qua tiên tri Ê-li là nhằm đánh thức dân sự Ngài khỏi cơn mê … thần ảo. Và những phép lạ đó cũng nhắc nhở chính những người hầu việc Chúa rằng Ngài vẫn hiện đang sống và vẫn đang kiểm soát tình hình. Vâng, Chúa chớ không phải hoàn cảnh (hạn hán) hay con người (A-háp hay Giê-sa-bên) đang kiểm soát tình hình và Chúa điều khiển mọi sự để hoàn thành kế hoạch theo ý muốn tốt lành của Ngài.
Thật ra, phép lạ không thật sự khiến người ta tin mà chỉ có tác dụng tỉnh thức hay thu hút sự chú ý của ‘khán thính giả’ mà thôi. Phép lạ cũng không nhằm để đáp ứng nhu cầu của con người mà là nhằm bày tỏ vinh quang của Chúa hay tôn cao Chúa mà thôi. Chúng ta cần phải ghi nhớ điều này để không bị lệch lạc khi cầu xin, cũng như khi nhận được phép lạ từ Chúa.
Ba chương Kinh Thánh hôm nay cũng lập đi lập lại một chân lý bất biến rằng, nơi đâu còn có người tin cậy Chúa, nơi đó còn có phép lạ xảy ra.
Bất kể người đó là ai: tiên tri, tức người hầu việc Chúa, quan chức chính phủ, hay thậm chí là một bà góa chưa tin thờ Chúa; Bất kể nơi đó là đâu: trong khe, trong hang đá, trong hoàng cung, trong nhà người ngoại, trên đỉnh núi.
Hễ còn có người tin cậy Chúa – tức là còn có người NGHE LỜI CHÚA + LÀM THEO Y BON như thế – thì còn có phép lạ xảy ra.
Phép lạ có thể xảy ra trong việc tiếp trợ thức ăn, có thể là sự chữa lành, khiến người chết sống lại, có thể là sự can đảm lạ thường, quyền năng siêu phàm để tuyên chiến và chiến thắng mọi tà linh, … Không miễn trừ một lĩnh vực nào hết. Mọi nơi, mọi chốn phép lạ đều có thể xảy ra.
Nôm na ri nè: Nếu chúng ta dám tin thì Chúa dám làm. Đơn giản rứa thôi. Vì Chúa của chúng ta là Đấng hay làm phép lạ (Thi thiên 77: 14) và đến tận hôm nay Chúa vẫn không hề thay đổi.
Tại sao bạn và tôi lại không thể là một người như vậy được nhỉ?
Trong chương 19, có một bài thuốc khá hay trị bệnh nản lòng, đặc biệt hiệu quả cho con dân Chúa nói chung và cho người hầu việc Chúa nói riêng.
Ê-li đang rơi vào một tâm trạng cực kỳ chán nản, với những ý tưởng tự thương hại ngập tràn: “Con rất nhiệt thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân. Vì dân Y-sơ-ra-ên đã loại bỏ giao ước Ngài, phá hủy các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết các nhà tiên tri của Ngài; chỉ một mình con còn lại, và họ cũng đang truy tìm để lấy mạng sống con (19: 10)
Ê-li bị xì-trét (stress) khi nào? – Ngay lập tức sau chiến thắng có một không hai trên đỉnh Cạc-mên. Một mình Ê-li chấp cả bạo chúa A-háp cùng 450 tế sư của Ba-anh và 400 thầy tế A-sê-ra và ông đã thắng tuyệt đối. Rồi sau đó … nản lòng cùng cực. Xì-trét cấp độ nặng. Nhớ nha.
Chúng ta rất dễ bị đánh bại ngay sau một chuyến công tác xa nhà rất thành công, một buổi nhóm, một kỳ bồi linh đầy ơn mà mình hoặc là diễn giả chính hoặc là người trong ban tổ chức. Bạn cần ẩn mình, nghỉ ngơi đúng nghĩa (kể cả là đang ở nhà), hạn chế … động chân tay, mồm mép và gặp gỡ đến mức gần bằng … zê-rô!
Lần cuối cùng mà bạn bị xì-trét nặng hay tự thương hại chính mình là khi nào? Bạn có nhớ nguyên nhân của lần đó không và ‘trận’ đó kéo dài bao lâu? Và cuối cùng thì điều gì đã giúp bạn vượt qua được vậy?
Ê-li được phục hồi sức lực khi vâng lời sứ giả của Chúa “ăn và uống” và hoàn toàn ra khỏi tình trạng chán nản khi được nghe tiếng phán im dịu nhỏ nhẹ của Chúa.
Thường khi bị xì-trét ta không thiết gì đến ăn uống, tâm trí cứ hận, cứ trách, cứ lẫn quẩn một dòng ‘tin nhắn’ trong trí: “chết còn sướng hơn!” Giải pháp: tìm chỗ yên tỉnh mà ngủ, rồi cố mà ăn uống tịnh dưỡng và lắng nghe Lời Chúa (tự đọc Kinh Thánh, hoặc nghe đọc Kinh Thánh hoặc nghe bài giảng). Nhớ là phải CỐ đó nha. Lúc đó thì ĂN hay NGHE đều là phải bởi đức tin cả, chớ không thể nghe theo ‘thằng’ cảm giác được. Cố là như thế.
Điều cuối cùng, Chúa không hề trách Ê-li chuyện nản lòng. Chúa cũng không chấp tôi tớ Ngài về những lời nói ra trong lúc quá bức xúc (kiểu: ‘giết con đi Chúa ơi, dứt con đi Chúa ơi’. Hic). Hiểu. Đơn giản là vì Chúa không chọn tôi tớ Ngài để nản lòng, thối chí mà là để vững lòng bền chí. Ngài không chọn họ để thất bại mà là để thành công. Rứa thôi.
Việc Chúa sai Ê-li đi xức dầu cho Haxaen, Giêhu và Elise (19: 15-16) chứng tỏ rằng Chúa vẫn tiếp tục tin dùng người của Ngài. Còn có sự yên ủi nào lớn hơn dành cho người bỏ cuộc trước đó không. Đó cũng chính là điều mà Đức Chúa Giê-xu đã dành cho Phierơ, sau khi Ngài sống lại từ cõi chết: “Hãy chăn chiên Ta!”.
Đức Chúa Trời luôn dành cho chúng ta cơ hội để trở lại, để làm lại cuộc đời. Vẫn còn cơ hội cho bạn ngày hôm nay. Vẫn còn có một Haxaen, một Giêhu chưa được phong Vương đang ở đâu đấy. Vẫn còn có một Elise – đệ tử tương lai của bạn – đang chờ bạn đụng đến để có thể chặt cày, xẽ bò dâng trọn cuộc đời phục vụ Chúa Toàn năng.


Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

ĐÔI NGÃ CHIA LY

1 Các Vua 12-16
Vâng, chia tay. Đường ai nấy đi. Người Nam, kẻ Bắc. You sugar you, I sugar I. Chỉ hơn có mỗi chữ Rê (Giê) trong cái tên (Giê-rô-bô-am/Rô-bô-am), mà anh miền Bắc lại được hơn anh miền Nam những 8 chi phái!
Vương quốc phía Nam tuy là chính danh, hợp hiến nhưng chỉ còn 2 chi phái. Còn Bắc triều tuy chiếm danh, vi hiến nhưng lại được cả 10 chi. Bắt đầu từ đây, huynh đệ tương tàn, quanh năm suốt tháng lo uýnh nhau cho đến ngày ngoại bang vào hốt sạch.
Năm chương Kinh Thánh hôm nay là một loạt những câu chuyện buồn trong lịch sử dân Chúa. Tất cả đều tập trung khắc họa thật rõ nét kết cuộc vô cùng bi thảm của cuộc đời một cá nhân hay một dân tộc mà từ bỏ Chúa. Là con dân Chúa, là hậu tự của Ap-ra-ham, dân Y-sơ-ra-ên được chọn để trở nên một dân lớn, một nguồn phước cho muôn dân trên đất nhưng giờ đây điều đó đã trở thành … ‘xưa rồi Diễm’. Thật là “cầm vàng lại để vàng rơi”.
Salomon thôi thì khôn ngoan tuyệt trần, lại có cả ngàn bà vợ nhưng chẳng được anh con trai nào ra dáng để nối ngôi, ngoài mỗi anh Rô-bô hơi bị kém khôn này. Đúng là mất phước quá đi.
Việc đất nước bị chia làm đôi là hậu quả tội lỗi của Salomon khi lòng vua lìa xa Chúa. Thế nhưng, duyên cớ đưa đến … đôi ngã chia ly là do cách hành xử hết sức dại dột của vị tân vương. Rô-bô-am được quyền nối ngôi cha nhưng có một điều gì đó khác thường các bác ạ. Ấy là lễ đăng quang của vua thay vì được tiến hành trong hoàng cung lộng lẫy của Salomon, lại diễn ra tại Sichem, một vùng đất thuộc các chi phái miền Bắc.
Mười chi phái miền Bắc sẵn sàng ủng hộ tân vương với điều kiện cụ thể. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay là ‘bầu chọn thông qua thương lượng’. Tuy là dòng dõi hoàng tộc, nhưng Rô-bô-am ngay từ đầu đã ‘không được tín nhiệm cao’. Và khi tân vương bác bỏ yêu sách của ‘đại đa số quần chúng nhân dân’ thì chuyện gì đến phải đến: ‘Giu’ ở lại, ‘Y’ đi nhé hay Rô ở lại Giê đi nhé. Chia ly.
Trong việc tham vấn của Rô-bô-am trước yêu sách của các chi phái miền Bắc cho chúng ta thấy rằng, vua chỉ thích nghe những lời khuyên hợp ý mình, chớ không thật sự tìm kiếm sự khôn ngoan thật. Ý kiến của “những kẻ cùng tuổi với vua và đang hầu cận vua” phản ánh đúng ‘tâm tư, tình cảm’ của vua, hay nói cách khác, đó cũng chính là ý của vua. Kết cuộc: nổi loạn.
Anh chị em ơi, mỗi khi xin ý kiến hay tìm kiếm lời khuyên từ người khác cho một vấn đề gì đó mà mình đang đối diện, anh chị em có thật lòng mong được nghe được một giải pháp khôn ngoan hay anh chị em chỉ tìm xem ý kiến của người khác để hậu thuẩn cho dự định, toan tính đã có sẵn trong lòng của mình mà thôi? Và lắm khi, những lời khuyên khôn ngoan thật thường ngược lại với toan tính hay ước muốn của mình đấy. Nhớ nha.
Nay quay sang anh Giê miền Bắc. Chúa đã làm thành kế hoạch mà Ngài đã tỏ cho anh qua tôi tớ Ngài là tiên tri A-hi-gia trước đó, khi anh đang còn là cục trưởng cục … cu-li (11: 26-39). Thế nhưng, khi đã thực sự ngồi lên ngai, cai trị trên 10 chi phái, thì Giê ta lại đâm ra sợ. Binh hùng, tướng mạnh như thế mà lại sợ.
Giê sợ gì? Sợ tay Rô-bô miền Nam kia lôi kéo hết thần dân của ta về với hắn. Sợ rồi có một ngày, ‘nhân dân’ sẽ quay lại ‘xử’ mình để đi theo ‘chủ cũ’. Đúng là một khi lòng đã bất an thì nhìn đâu cũng thấy ‘thế lực thù địch’, kể cả hội chúng hiện đang ủng hộ mình hết lòng.
Rõ ràng là Chúa đã tiết lộ kế hoạch của Ngài cho Giê, rồi Ngài làm thành điều ấy nhưng … Giê vẫn không thể tin. Hổng lẽ, Giê suy bụng Giê ra bụng … Chúa hay sao mà Giê phải dùng đến thủ đoạn vô cùng tội lỗi để giữ dân.
Giê phục hồi tôn giáo thờ bò con vàng, không phải một nơi mà khắp mọi nơi. Nói chung là vô cùng thuận tiện để bà con giữ đạo. Rồi để bổ sung cho số lượng thầy tế dòng Lê-vi chính hiệu đang thiếu trầm trọng, Giê-rô-bô-am đã ‘hạ chuẩn’ để phong chức tràn lan cho hàng thứ dân luôn. Đầy đủ mọi sự rồi nhé. Muốn tượng, có tượng; muốn bàn thờ có bàn thờ; muốn thầy tế có thầy tế; muốn lễ hội có lễ hội; muốn địa điểm thờ phượng gần có địa điểm gần. Tất cả đều đầy đủ, trừ một việc: không đúng theo quy định của Giê-hô-va Đức Chúa Trời về sự thờ phượng. Rứa thôi.
Thế mới hay, khi một người không có mối quan hệ cá nhân với Chúa; khi một người không thật sự biết Chúa, thì dù địa vị, quyền uy có cao lớn cỡ nào đi nữa thì người ấy cũng không bao giờ có được sự bình an, người ấy không bao giờ có được sự tin quyết trong lòng. Và một khi không thật sự có Chúa thì người ta luôn tìm mọi cách nắm lấy phương tiện để làm công việc Chúa. Mà một khi toan dùng sự khôn ngoan của mình, khả năng hay tài sức của mình để bảo vệ mình, để ‘thi hành chức vụ’ thì người ấy coi như đã tự tuyên án tử hình cho chính mình rồi.
Tôn giáo của Giê-rô-bô-am sai rành rành ra như thế mà tại sao cả mười chi phái, từ bé đến lớn, từ già chí trẻ lại cứ như con thiêu thân lao vào là sao nhỉ? Mà không chỉ thời Giê-rô-bô-am mà còn hàng loạt vị vua tiếp theo sau, kể cả những vị vua không ưa gì Giê-rô-bô-am, cũng lần lượt từng em một chui vào vết xe đổ này. Hình tượng là cái chi chi mà người ta khoái thờ, khoái lạy dù biết rõ rằng đó là việc làm Chúa vô cùng ghê tởm.
“Nếu ngươi nghe lệnh Ta, đi theo lối Ta, làm điều phải trước mắt Ta, giữ điều răn, luật lệ Ta như tôi tớ Đa-vít Ta trước kia, Ta sẽ ở cùng ngươi, lập triều đại ngươi vững chắc như triều đại Đa-vít, vì Ta cho ngươi nước Y-sơ-ra-ên.” (11: 38)
Đây là lời Chúa phán cùng Giê-rô-bô-am và cũng là nguyên tắc đã được vững lập xuyên suốt Kinh Thánh: Nghe Lời Chúa – làm theo, tức vâng lời hay vâng giữ - được thành đạt cách bền vững. Và ngược lại, nghe – không làm theo – được họa cách chắc chắn.
Bài học đơn giản rứa thôi mà sao người ta cứ cố tình không thuộc nhỉ.
Chúa ban phước, ban thành công cho người vâng lời cách chắc chắn thể nào, thì Ngài cũng sẽ chắc chắn ban hình phạt cho người không vâng lời cũng thể ấy, dù người ấy có là vua hay chỉ là hạng thứ dân.
Hình ảnh vị tiên tri trẻ bị sư tử quật một phát chết tươi trong chương 13 minh chứng hùng hồn cho chân lý này, dù anh í vừa mới hoàn thành cách xuất sắc sứ mệnh được Chúa giao. Hẳn nhiên, có đôi điều trong chương 13 khó giải thích cách thỏa đáng nhưng hình ảnh sư tử mà ‘chê’, không thèm ăn thịt của người đầy tớ Chúa không vâng lời cũng đáng để suy gẫm lắm à nha.
Hình ảnh này khiến ta liên tưởng đến cảnh “muối mất mặn” mà Đức Chúa Giê-xu đề cập trong sách Mathiơ quá đi. “Các con là muối của đất, nhưng nếu muối mất vị mặn thì làm thế nào cho nó mặn lại được? Muối ấy trở nên vô dụng, phải ném bỏ đi và bị người ta chà đạp dưới chân (5:13)
Như vậy, túm lại một điều: vâng giữ lời Chúa thì công thành danh toại, còn không vâng giữ lời Chúa thì … nỏ thành công, cũng chẳng thể thành danh, ngoại trừ danh tiếng xấu!
Rứa đấy.


Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2015

LÒNG DẦN XA CHÚA

1 Các Vua 9-11
Với việc xây xong Đền Thờ cho Danh của Chúa tại Giê-ru-sa-len, Salomon đã đạt đến đỉnh trong sự nghiệp của mình. Chính trong thời khắc quyết định ấy, Chúa hiện ra lần thứ hai cùng Salomon với cả lời hứa và lời cảnh báo.
Nếu Salomon tiếp tục theo đường lối tin kính của cha mình, là Đa-vít, thì Chúa sẽ ban phước cho vua và làm cho ông thịnh vượng. Song nếu Salomon lạc lối đi thờ lạy hình tượng và làm những chuyện vô luân, thì Chúa cảnh báo sẽ hình phạt cả vua và dân sự của người.
Mầm mống của sự sa bại và bất phục này đã được gieo từ rất sớm trong đời sống của Salomon, giờ đây bắt đầu lộ diện.
“Ngoài con gái của Pha-ra-ôn, vua Sa-lô-môn còn yêu mến nhiều cô gái ngoại bang khác; đó là các cô gái người Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm, Si-đôn và Hê-tít. Họ thuộc các dân mà Đức Giê-hô-va đã truyền phán với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Các con chớ kết thông gia với chúng, vì chắc chắn chúng sẽ quyến rũ các con theo các thần của chúng.’ Tuy nhiên, Sa-lô-môn vẫn yêu say đắm các cô gái ấy. Vua có bảy trăm bà vợ và ba trăm cung phi; họ làm cho lòng vua lầm lạc.”  (11: 1-3)
Cũng chính là ‘thanh niên’ này đây, người đã viết trong sách Châm ngôn rằng, “Ai tìm được một người vợ là tìm được một điều tốt” (18: 22). Nhưng dường như, Salomon không biết được khi nào ông đã có quá nhiều điều tốt thì phải! 1 nghìn vợ có nghĩa là thừa đến 999 bà lận đó. Quá xá cỡ rồi. Thừa đến thế mà không chết mới là lạ.
Tại đây, chúng ta nhận thấy điểm yếu và sự thất bại của Salomon khi lòng của vua lìa khỏi Đức Chúa Trời. Sự sa sút của Salomon bắt đầu từ đâu? Nó bắt đầu với việc vua thỏa thích vui hưởng những thành tựu rực rỡ của triều đại mình.
Tất cả những sự nguy nga, tráng lệ, rực rỡ ấy là bằng chứng về phước lành của Chúa trên đời sống của vua, nhưng cũng chính tại nơi đó việc sa bại của Salomon bắt đầu. Sự sa bại bắt đầu khi lòng ông bị những điều Chúa cấm cầm giữ. Điều này minh họa cách sống động cho chân lý mà Đức Chúa Giê-xu đã từng nói trong Bài Giảng Trên Núi: “Của cải các ngươi ở đâu thì lòng của các người cũng sẽ ở đó” (Luca 12: 34)
Trong suốt chiều dài của lịch sử Hội Thánh, không ít những người hầu việc Chúa rất nổi tiếng, rất được ơn, bổng dưng … đứt bóng, đột ngột ngã đánh oạch vì … chỉ một chữ T (hoặc tiền hoặc tình). Bề ngoài, họ là những người hầu việc Chúa nhưng bề trong thì sự vô đạo đức và thỏa hiệp đã như chứng bệnh ung thư ăn dần, ăn mòn, rồi … ăn sạch trọn ‘bộ đồ lòng’ và cả cuộc đời của ‘mấy ảnh, mấy chỉ’. Kết cuộc, chức vụ của họ bị hủy diệt hoàn toàn.
Thật ra, tiến trình ‘đứt bóng’ này thường diễn ra rất nhiều năm. Chúa nhân từ luôn cảnh báo và cho họ cơ hội để ăn năn, làm lại cuộc đời. Song nếu anh í, chị í bất chấp cảnh bảo của Chúa, ăn quen nhịn hổng quen, đâm nghiện, rồi … ‘một liều ba bảy cũng liều’ thì chuyện ‘bổng dưng … chết đứng’ chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.
Ông í hay bà í chết thì không có gì phải ‘lăn tăn’ cả, vì gieo thì phải gặt thôi. Vấn đề là khi mấy ‘cây đa, cây đề’ này ngã thì khiến bao nhiêu cây bụi xung quanh cũng chết theo. Cây càng cao, khi ngã gây tác hại càng lớn. Salomon ngã chết, vương quốc liền bị xé làm đôi.
Bước đầu tiên trong tiến trình sa sút luôn bắt đầu từ cảm xúc và lòng ham muốn của chúng ta. Điều gì đang chiếm giữ vị trí số một trong tâm trí, trong ước muốn, trong cảm xúc của anh chị em? Nếu đó không phải là điều Chúa chấp thuận, nếu đó là điều Chúa không cho phép, thì anh chị em đang gieo mầm của sự hủy diệt trong đời sống của chính mình như Salomon đã từng.
Hãy xem những kết quả thảm hại trong những câu sau:
“Sa-lô-môn đã đi theo nữ thần Át-tạt-tê của người Si-đôn và thần Minh-côm, một thần đáng ghê tởm của người Am-môn. Như thế, Sa-lô-môn đã làm điều ác dưới mắt Đức Giê-hô-va, không hết lòng theo Đức Giê-hô-va như Đa-vít, cha vua.
Bấy giờ, Sa-lô-môn xây một nơi cao trên núi đối diện với Giê-ru-sa-lem cho thần Kê-mốt là thần đáng ghê tởm của người Mô-áp, và cho thần Mo-lóc là thần đáng ghê tởm của người Am-môn. Vua cũng làm như vậy cho tất cả các bà vợ ngoại bang của mình; họ xông hương và dâng sinh tế cho các thần của mình.
Đức Giê-hô-va nổi giận với Sa-lô-môn vì lòng vua lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã hai lần hiện ra với vua” (11: 5-9)
Không thể nào tưởng tượng được, chính Salomon lại đi xây những nơi thờ phượng cho những thần tượng ghê tởm của dân ngoại, trong đó có Kê-mốt, một tà thần chỉ đòi hỏi sinh tế là thiêu sống trẻ em trong lửa mà thôi.
Tuy những câu cuối cùng của chương này ghi rằng, Salomon “an giấc cùng các tổ phụ mình và được chôn trong thành Đa-vít”, nhưng cả vinh quang lẫn sự hùng mạnh của vương triều người liền bị chấm dứt cách đột ngột.
Một kết cuộc buồn cho một người được Chúa hết sức yêu thương.


Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015

XÂY ĐỀN CHO DANH CHÚA

1 Các Vua 5-8
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay miêu tả Đền Thờ vô cùng lộng lẫy mà vua Salomon đã xây cho Danh của Chúa. Đã hơn 480 năm, dân Y-sơ-ra-ên chỉ thờ phượng Chúa trong Lều Tạm. Giờ đây, Salomon đã làm thành ước mơ của cha mình là Đa-vít, ước mơ về một nơi chốn cố định và tốt đẹp để dân Y-sơ-ra-ên có thể thờ phượng Đức Chúa Trời của họ.
Đền Thờ được xây dựng bằng đá quý, gỗ bá hương Li-băng và bọc vàng toàn bộ phần bên trong từ sàn, tường cho đến trần. Tính theo thời giá ngày nay, thì không thể là hàng triệu đô-la Mỹ mà phải là hàng tỉ.
Tuy nhiên, bốn chương Kinh Thánh hôm nay không hề hấp dẫn, lôi cuốn người đọc gì cả. Trái lại, nếu không phải là dân xây dựng chuyên nghiệp thì người đọc khó mà hiểu tường tận những chi tiết được mô tả trong những chương này.
Thế nhưng, ẩn đằng sau những gỗ, đá, vàng ròng vô tri kia là những bài học luôn ‘nóng hổi tính thời sự’ cho chúng ta, là con dân Chúa thời nay, nếu ta xem Đền Thờ mà Salomon xây cho Danh của Chúa ngày xưa chỉ là cái bóng, còn hình thật thời nay là chính thân thể ta đây và cũng là hội thánh của Đức Chúa Trời.
Trước hết, nói về kích thước của Đền Thờ. Với kích thước 30m (dài) x 10m (rộng) x 15m (cao), một trệt hai lầu thì không thể nói là rộng lớn. Đúng không? (Một số bản dịch cũ dùng đơn vị ‘thước’, tức thước ta dài khoảng 0,5 mét). Thế nhưng, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được nổi tiếng KHÔNG BỞI KÍCH CỠ của nó hay những nguyên vật liệu quý giá xây nên nó mà là bởi vinh quang của Chúa, tức là sự hiện diện thánh khiết của Chúa đầy dẫy trong nó.
Một hội thánh thật sự được nổi tiếng không phải vì kích cỡ của hội chúng hay kích cỡ của nhà thờ; một Cơ-đốc nhân, một người hầu việc Chúa thật sự được nổi tiếng không bởi tài trí, khả năng hay những bằng cấp mà người ấy có được. Điều duy nhất khiến cho một người, một hội thật sự trở nên nổi tiếng chính là sự hiện diện đầy vinh hiển của Chúa. Đấy mới chính là điều mà trước hết mỗi một chúng ta, mỗi một hội thánh cần phải tìm kiếm. Nhớ nha.
Dù cho Đền Thờ Giê-ru-sa-lem không có kích cỡ rộng lớn như những đền thờ của các quốc gia lân bang thời bấy giờ hay những đại giáo đường hoặc siêu hội thánh (megachurch) thời nay, nhưng điều hết sức quan trọng là nó đã được “hoàn thành đúng theo mọi chi tiết về kiểu mẫu và kích thước” mà Chúa đã bày tỏ cho vua Đa-vít.
Tiếp theo, nói về những cây gỗ bá hương và gỗ tùng Li-băng được dùng để xây dựng Đền Thờ cho Danh Chúa. Gỗ này do vua Hi-ram của Ty-rơ, một quốc gia ngoại bang cung cấp. Điều gì sẽ xảy ra nếu Salomon không có mối quan hệ tốt với vị vua nước ngoài này? – Chắc chắn là không có gỗ xây Đền. Cũng một thể ấy, nếu ta không có mối quan hệ tốt với người ngoại thì sẽ lấy đâu ra ‘gỗ quý’, tức là nguồn thân hữu để xây nên hội thánh, tức là nhà của Đức Chúa Trời.
Điểm thứ ba, về các nguyên vật liệu xây dựng Đền Thờ. Tất cả đều là những nguyên liệu quý nhất thời bấy giờ. Vàng thì khỏi nói rồi, gỗ quý thì đã đề cập ở trên. Giờ tới lượt đá quý.
“Vua ra lệnh họ phải lấy những tảng đá lớn và quý mà đẽo để dùng làm nền của đền thờ. Những người thợ của Sa-lô-môn và của Hi-ram cùng với người Ghi-bê-lít đục đá. Họ chuẩn bị sẵn sàng gỗ và đá để xây dựng đền thờ” (5: 17-18)
“Vua dùng ván gỗ bá hương đóng vách phía trong đền thờ từ nền cho đến trần, và lót nền bằng ván gỗ tùng. … Phía trong đền thờ được lát bằng gỗ bá hương … nên không thấy đá.” (6: 15, 18)
Đá quý mà đem làm móng, làm nền, làm sàn đã là … ‘sốc hàng’ lắm rồi nha. Giờ lại còn đem gỗ ‘bịt’ kín mít luôn thì còn gì là quý nữa hả trời.
Thế nhưng, đó chính là phương cách mà chúng ta nên áp dụng khi làm công việc Chúa. Đừng làm công việc Chúa chỉ vì bề nổi nhưng hãy chú trọng đến những gì sâu nhiệm và kín giấu.
Đó cũng chính là cách mà Chúa làm công việc của Ngài trong chúng ta. Chúa làm những việc sâu kín trong khi những người khác chỉ quan tâm đến hình thức bề ngoài.
Ngoài ra, đấy cũng chính là cách mà Chúa xây dựng hội thánh của Ngài. Chúa luôn muốn thiết lập một nền nóng vững chắc, sâu nhiệm thay vì một cái móng tuy có rộng nhưng lại nông cạn.
Điều thứ tư, đó là việc lát nền, xây tường mà không hề có bất kỳ tiếng động nào của búa, của đục, của … tất cả những dụng cụ bằng sắt (6: 7). Điều này dạy gì cho chúng ta?
Trước hết, đó là cách mà Chúa muốn công việc của Ngài được thực hiện. Đền Thờ Chúa được xây dựng bởi sức lao động của con người, chớ không phải bởi một đội thiên sứ chuyên nghiệp. Tuy nhiên, Salomon không muốn công khó của con người lên tiếng trong Đền Thờ Chúa. Điều mà vua muốn truyền đạt thông qua quy định ‘giảm thanh’ này là Đền Thờ là của Chúa, chớ không phải của con người.
Tiếp theo, đó là cách mà Chúa làm việc giữa dân sự Ngài. Khá nhớ rằng, những công việc vĩ đại nhất trong vương quốc Đức Chúa Trời thường xảy ra cách thầm lặng! Vâng, việc xây dựng Đền Thờ diễn ra khá yên lặng vì cớ đã có rất nhiều công việc vất vã và ồn ào xảy ra tại hầm đá rồi.
Xen giữa việc xây dựng và cung hiến (khánh thành) Đền Thờ cho Danh Chúa là việc vua Salomon xây cung điện cho mình. Có điều Đền Thờ Chúa, dù hết sức lộng lẫy, thì vua chỉ xây mất 7 năm nhưng nhà riêng của mình thì Salomon xây đến 13 năm. Chỉ hai con số nhưng đã nói lên rất, rất nhiều điều trong việc xây dựng nhà ta và nhà … Cha!
Và điều cuối cùng, chúng ta cần phải ghi nhớ là đám mây vinh hiển của Chúa chỉ xuất hiện khi Hòm Giao Ước được rước vào đúng vị trí: nơi chí thánh. Mà điều này chỉ xảy ra khi Đền Thờ đã được hoàn thành và được cung hiến cho Chúa mà thôi.
Anh chị em không biết rằng anh chị em là đền thờ của Đức Chúa Trời, và Thánh Linh của Đức Chúa Trời ngự trong anh chị em sao?”  (1 Corinhto 3: 16)
“Theo ân điển của Đức Chúa Trời đã ban cho tôi, tôi đã đặt nền như một thợ lành nghề, còn người khác thì xây cất lên trên. Nhưng mỗi người phải thận trọng về cách mình xây trên nền … đã được đặt là Đức Chúa Jêsus Christ.” (1 Corinhto 3: 10-11)


Thứ Tư, 1 tháng 4, 2015

NHẬN NGÔI TỪ CHÚA

1 Các Vua 1-4
Sách Các Vua thứ 1 là một câu chuyện sống động về việc “Mất Nước Vì Đâu?” (Nhớ rằng, “nước” ở đây là vương quốc, là quốc gia chớ không phải nước sinh hoạt đang chuẩn bị vào mùa cắt cúp theo điệu xì-lau rốc đâu nha). Chúng ta có thể nhìn thấy chính mình trong những câu chuyện và những cuộc đời trong cuốn thánh sử này. Sách này cũng hàm chứa bí quyết để quản trị cách thành công, như một vị vua, trong đời sống cá nhân. Bí quyết đó là học biết đầu phục thẩm quyền của Chúa.
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay giới thiệu cho chúng ta người kế vị chính thức của vua Đa-vít. Salomon – người được Đức Chúa Trời chọn làm lãnh đạo dân Ngài trong giai đoạn mới, bất chấp hôn nhân của cha mẹ chàng (Đa-vít – Bát-sê-ba) không mấy đẹp lòng Chúa.
Trong cái nhìn của con người thì hoàng tử Adonigia hội đủ mọi điều kiện để lên ngôi kế vị vua cha. Là con trai lớn nhất của Đa-vít lúc bấy giờ (hai người anh là Amnon và Apsalom đã chết), đẹp (giống cha mà), được quân đội và lãnh đạo tinh thần ủng hộ, nên Adonigia không ngần ngại mà tuyên bố: “Ta sẽ làm vua” (1: 5).
Tuy nhiên, nếu so với ông anh trai Apsalom thì Anidogia đúng là … ‘anh ni đồ giả’. Không điểm nào có thể so với ông anh, ngoài cái việc chơi xe … ngựa phân khối lớn làm ồn ào quanh đường phố thủ đô, khè thiên hạ. Ông anh cao thủ là thế mà còn ‘đai’ thẳng cẳng, vậy mà ông em chẳng thèm thuộc bài mới đau. Đau hơn nữa là tướng Giô-áp, người từng diệt kẻ nghịch tử Apsalom xưa, giờ lại đi ủng hộ nghịch tử Anidogia.
Thế mới hay, dù hội đủ mọi tiêu chuẩn để làm vua, dù được mọi người ủng hộ để làm vua nhưng nếu Chúa không ủng hộ thì … có cũng như không.
Trong việc làm sai trật của Anidogia lúc bấy giờ cũng như Apsalom trước đó có phần đóng góp không nhỏ của vua Đa-vít. Ông không hề quở trách hay can gián con mình trong những việc làm sai trật (1: 6).
Đọc sách Các Vua ta sẽ được thấy cận cảnh những sinh hoạt của hoàng gia, những âm mưu, những toan tính kín giấu trong hoàng cung không khác chi những tình tiết trong các bộ phim kiếm hiệp, cổ trang Trung Quốc, Hàn Quốc cả. Rất dễ để chúng ta buông một câu cộc lốc: “vua mà, đâu chả thế”.
Thế nhưng, đừng bao giờ quên rằng đây là những vị vua của dân sự Chúa, tức là những người lãnh đạo của dân sự Đức Chúa Trời. Họ được đòi hỏi phải xử sự KHÁC ĐỜI, chớ không thể GIỐNG ĐỜI. Tiếc thay, khi đã được đứng vào đỉnh cao quyền lực thì xu hướng giống đời lại thắng thế trong phần lớn các vị vua của dân Y-sơ-ra-ên xưa, và không loại trừ trong hàng ngũ lãnh đạo hội thánh ngày nay.
Salomon kế vị ngôi báu trong một bối cảnh vô cùng khẩn cấp: đảo chính đang chực chờ. Thế nhưng, mọi sự đã được giải quyết cách êm thấm. Lần lượt, chàng giải quyết từng việc ‘tồn đọng’ một mà phụ vương để lại cách rất dứt khoát. Từng ‘em’ một trong bộ tham mưu toan đảo chánh bị loại trừ. Bắt đầu là Anidogia, Abitha, rồi Giô-áp và cuối cùng là lão Si-mê-i. (Đã si mê rồi thì i hay a gì cũng chết). Rõ khổ
Từ câu 16 của chương 3 cho đến hết chương 4 (câu 34) câu chuyện tập trung mô tả sự khôn ngoan của Salomon. Khôn ngoan trong việc xử án, khôn ngoan trong việc quản lý đất nước qua việc lập ‘nội các’, phân công ‘cán bộ’ đứng cánh các địa hạt để thu thuế. Salomon thật là một nhà kỹ trị đại tài.
Tuy nhiên, cũng ngay trong những chương này Kinh Thánh cũng đã bắt đầu hé lộ những ‘gót chân Asin’, tức những điểm yếu chết người của vị vua quá đỗi khôn ngoan này.
“Sa-lô-môn kết thân với Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, và cưới con gái của Pha-ra-ôn. ... Tuy nhiên, dân chúng vẫn còn dâng sinh tế trên các nơi cao, vì cho đến bấy giờ chưa có đền thờ nào được xây cất cho danh Đức Giê-hô-va. Sa-lô-môn kính yêu Đức Giê-hô-va nên bước đi theo các luật lệ của Đa-vít, cha mình. Tuy nhiên, vua vẫn còn dâng sinh tế và đốt hương trên các nơi cao” (3: 1-3)
Cưới vợ ngoại và thờ phượng Chúa sai địa điểm quy định, tức không phải tại Lều Tạm ở Giê-ru-sa-lem. Đúng là có khôn mà hổng có 'ngoan'.
Lý do tuyển thêm hoa hậu Ai-cập vào ‘bộ sưu tập’ vợ của Salomon là gì? – Vì yêu hay vì liên minh quân sự chính trị, tức là bảo đảm an ninh cho quốc gia. Dù gì thì cũng đã phạm luật rồi (Phục Truyền 17: 14-17) và như thế lòng người bắt đầu đi tìm sự bảo đảm nơi con người thay vì nơi Chúa.
Còn tại sao cứ phải lên Gabaon để thờ phượng Chúa? – Vì …, tại …, bởi … ‘người ta sao, mình vậy’. Thế thôi. Nhưng mà, chẳng phải tại Gabaon Chúa đã hiện ra với Salomon đó sao? Vâng, Chúa đã tỏ mình Ngài cho vua trong … chiêm bao. Nhớ nha. Trong chiêm bao, chớ không phải tại nơi thờ phượng.
Hãy chú ý cụm từ “tuy nhiên” trong 3 câu Kinh Thánh của chương 3 được trích dẫn ở trên. Những việc làm đi đằng sau “tuy nhiên” ấy không có hàm ý khen, hay đẹp lòng Chúa đâu nha.
Người khôn nhưng không phải chuyện gì cũng khôn. Ít nhất là trong trường hợp của Salomon. Ông rất giống bố mình trong ‘đường’ tình duyên, nhưng lại không hưởng được cái gen thờ phượng Chúa hết lòng như bố. Do đó, có người đã gọi Salomon là vị vua chỉ có nữa phần … lòng cho Chúa, trong khi vua cha Đa-vít thì có … trọn lòng và vua Sau-lơ thì nỏ có lòng.
Mỗi một chúng ta là một vị vua trong đời sống cá nhân của chính mình, và đối với một số người thì còn cả trong gia đình của họ nữa. Salomon đã cầu xin Chúa sự khôn ngoan để “điều hành việc nước” nhưng lại không tìm cầu sự khôn ngoan của Ngài để ‘điều hành việc nhà’ và ‘quản trị đời sống cá nhân’.
Phải chăng ngày nay chúng ta cũng đang lập lại đúng sai phạm này: chỉ cầu ‘khôn’ để lo chuyện ‘người’, chuyện đại sự quốc gia, còn chuyện riêng của mình, chuyện trong gia đình riêng của mình thì ‘lú’ thấy thương luôn?