Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

NẾU PHẢI CHẾT THÌ CON CHẾT

Ê-xơ-tê 3-4 
Bốn năm sau ngày Ê-xơ-tê lên ngôi hoàng hậu, tại kinh thành Su-sơ có một vụ phong chức nữa xảy ra. Lần này cũng lại là một người ngoại quốc, nhưng là một nam nhân, cũng dòng vương tôn công tử, là hậu duệ không biết bao nhiêu đời của Aga, vị vua Amalec đã bị tiên tri Samuen chém đầu, dù vua Sau-lơ đã có ý tha mạng (1 Samuen 15: 23).
Kinh Thánh không cho chúng ta biết, Haman có công trạng gì mà được thăng tiến ‘phát một’ lên tới chót vót, trên muôn người dưới một người như thế. Chỉ biết rằng, từ lúc ông xuất hiện thì họa diệt chủng đối với dân sót của Chúa cũng đã cận kề.
Kinh Thánh cũng không cho chúng ta biết tại sao mà Mạc-đô-chê lại dám kháng lịnh vua trong việc tôn trọng Haman như bao nhiêu người khác. Chỉ có một chi tiết nho nhỏ được hé lộ: Mạc-đô-chê cứ bảo “rằng ông là người Do Thái”. Nhưng Kinh Thánh cũng đâu có chống đối việc dân sự Chúa tỏ lòng tôn kính những người lãnh đạo chính trị (địa phương hay quốc gia) qua cử chỉ cúi chào hay thậm chí là quỳ gối. (Sáng Thế 18: 2; 23: 7; 43: 26; Xuất hành 18: 7; 2 Samuen 16: 4). Thế thì, việc Mạc-đô-chê … ‘cương’ như thế có lẽ nằm sâu trong huyết quản của một người đối với ‘kẻ thù truyền kiếp’ rồi.
Dù đúng, dù sai thì hành động của Mạc-đô-chê cũng là duyên cớ để đẩy ông và tuyển dân của Chúa đến trước họa diệt vong. Câu chuyện đã vào hồi gay cấn.
Đến lúc này đây thì anh em hay bố con Mạc-đô-chê và cả chúng ta nữa mới nhận ra được lý do tại sao Ê-xơ-tê phải bị bắt vào cung, và phải ngồi trên ngôi hoàng hậu. Mọi sự đâu phải tình cờ, đúng không? Câu nói của Mạc-đô-chê với Ê-xơ-tê rất đang được suy gẫm và ghi nhớ đối với mỗi một chúng ta. “Biết đâu con được chức hoàng hậu là vì cớ thời điểm như thế này!”
Mỗi một vị trí của chúng ta trong gia đình hay ngoài xã hội, dù chúng ta có thích hay không, cũng đều là một “vị trí chiến lược” cả đấy. Chúa đặt ta lên đấy hay đưa ta vào đấy là có ‘ý đồ’ cả đấy. Vị trí đó không phải để cho ta than thân trách phận hay để cho ta ngoác mồm phè phởn, mà là để cho ta cơ hội làm một sự kiện để đời hay hoàn thành một bản hùng ca ‘đi cùng năm tháng’.
Nhớ nhé. Mỗi một chúng ta đều có một vị trí vô cùng quan trọng trong kế hoạch của Đức Chúa Trời đối với dân tộc của mình. Và có MỘT thời điểm cụ thể dành cho mỗi chúng ta để hoàn thành thiên mệnh đó. Ê-xơ-tê và Mạc-đô-chê xuất hiện, một chính một phụ, chỉ để tham gia vào một ‘sự kiện’ duy nhất này mà thôi và cả hai … ‘bổng chốc hóa anh hùng’!
Thế thì, khá sớm nhận biết lý do mà Chúa đặt bạn vào vị trí hiện tại, và hãy sẵn sàng để thưa với Chúa rằng “có con đây” khi thời điểm dành cho mình đang đến. Hãy can đảm và khôn ngoan trong việc sử dụng vị thế của mình vì lợi ích “cho mọi người, nhất là cho những anh chị em trong gia đình đức tin” (Galati 6: 10)
Một bài học khác mà chúng ta có thể thấy trong hai chương Kinh Thánh hôm nay liên quan đến hiệu quả lớn lao của việc kiêng ăn, và trong trường hợp này là kiêng ăn tập thể.
Toàn dân Do Thái lưu đày tại kinh đô Su-sơ theo lời kêu gọi của hoàng hậu Ê-xơ-tê đã tiến hành ba ngày kiêng ăn, kiêng uống, tức kiêng ăn toàn phần, và cầu nguyện suốt 3 ngày. Tuy Chúa không hề được đề cập đến, nhưng rõ ràng là Ê-xơ-tê và toàn dân Giu-đa tại kinh đô đã cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình để xin sự giải cứu.
“Nếu phải chết thì con chết” là một cam kết hết sức dứt khoát của Ê-xơ-tê trước vận mạng của dân tộc mình. Nhưng vị hoàng hậu người Do Thái này chỉ xả thân vì đại nghĩa KHI và CHỈ KHI toàn dân chịu hiệp lòng kiêng ăn cầu nguyện cho nàng suốt 3 ngày!
Kiêng ăn cầu nguyện là giải pháp duy nhất đúng trong những tình huống vô cùng khủng hoảng như vậy. Giô-sa-phát và dân Giu-đa từng kinh nghiệm sự giải cứu như thế trước họa xâm lăng (2 Sử ký 20), và biết bao lời chứng về sự giải cứu của Chúa trong suốt chiều dài lịch sử, khi dân sự Chúa hạ lòng kiêng ăn nài xin sự can thiệp của Ngài.
Bài học này vẫn còn nguyên giá trị. Và tình hình đất nước hiện nay là cơ hội chưa từng có để con dân Chúa người Việt Nam khắp mọi nơi noi gương người xưa, cùng nhau hạ lòng kiêng ăn kêu xin sự thương xót của Đức Chúa Trời trên dân tộc của chúng ta. Giờ đã điểm.
Biết đâu đây là thời khắc ‘chuyển họa, thành phúc’ của dân tộc ta thì sao?


Thứ Hai, 11 tháng 5, 2015

LỌ LEM THỜI … CỔ ĐẠI

Ê-xơ-tê 1-2 
Sách Ê-xơ-tê thuật lại một câu chuyện đầy kịch tính đã xảy ra với dân Do Thái trong khi bị lưu đày tại Babilon. Án tử hình ngay sát giờ thực thi đã đột ngột thay đổi 180o. Cả dân tộc được cứu thoát một cách kỳ diệu.
Không một chỗ nào trong sách này nhắc đến danh Đức Giê-hô-va hay ám chỉ đến Đức Chúa Trời nhưng rõ ràng là Chúa đứng sau tất cả những tình tiết trong câu chuyện này. Vâng, sự tể trị của Chúa phủ trùm lên toàn bộ câu chuyện.
Ê-xơ-tê một cô gái Do Thái mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống với người anh họ tại một quốc gia thù địch, trong thân phận lưu đày. Cô bị bắt vào cung. Bị bắt, bị cưỡng bức chớ không phải được tuyển hay đi dự thi hoa hậu đâu nhé.
Bất kỳ cô gái nào bị bắt vào cung, cũng phải vào ngủ với vua một đêm, rồi sau đó phải sống hết cuộc đời trong cung với danh phận tì thiếp của vua nhưng không bao giờ được vua đoái đến, trừ khi cô ấy được chọn làm hoàng hậu. Do đó, một trinh nữ khi bị nhập cung thì có khác chi là bị … đi tù.
Ê-xơ-tê vốn là một thiếu nữ đang chịu cảnh lưu đày. Giờ đây, cô còn bị nhập cung thì đúng là “một cổ hai tròng”. Thế nhưng, chính người nữ đang “một cổ hai tròng” này lại là người sẽ cứu dân tộc mình thoát khỏi họa diệt chủng.
Không phải Đức Chúa Trời xúi cho Đại đế Xét-xe hay còn gọi là A-suê-ru say rượu, rồi cao hứng ra sắc lịnh lung tung, dẫn tới việc đệ nhất phu nhân bị phế truất ngay lập tức; Cũng không phải Chúa khiến cho hoàng hậu Vả-thi … ‘cương’ không đúng lúc. Thế nhưng, qua mọi việc này, ta nhận thấy, Đức Chúa Trời có thể sử dụng ngay cả những kẻ ác hay những hành động gian ác của con người để làm thành mục đích của Chúa đối cùng dân sự Ngài.
Việc này khiến ta nhớ lại câu chuyện Giô-sép bị bán sang Ai-cập bởi các anh ruột của mình. Cũng giống như Giô-sép, Ê-xơ-tê bị bắt vào cung. Lý do: Quá đẹp.
Vua bắt Ê-xơ-tê vào cung hay Đức Chúa Trời đưa Ê-xơ-tê vào cung? Xét-xe đội vương miện hoàng hậu lên đầu Ê-xơ-tê hay Đức Chúa Trời đưa Ê-xơ-tê lên ngôi hoàng hậu của vương quốc Ba-tư?
Nếu chỉ đọc 2 chương Kinh Thánh hôm nay thì không một ai trong chúng ta có thể thấy được bàn tay của Đức Chúa Trời đang điều khiển trong sự kiện này cả. Nếu chỉ đọc 2 chương Kinh Thánh hôm nay thì chúng ta chỉ có thể nói rằng, Ê-xơ-tê gặp may mà thôi.
Mà cô ấy may mắn thật. Bị bắt vào cung vua cùng với hàng ngàn mỹ nữ khắp 120 bang trong toàn đế quốc thời bấy giờ, thế mà cô được chọn. Trong hàng ngàn cô gái đẹp như thế mà chỉ mỗi mình cô chiếm được cảm tình của tổng quản Hagai. Lạ, đúng không?
Bạn thân mến, dù bạn là ai, dù bạn đang bất kỳ nơi nào, trong bất cứ thân phận nào, thì bạn cũng có một chỗ đứng vô cùng quan trọng trong chương trình của Đức Chúa Trời. Chúa đã chuẩn bị Ê-xơ-tê để thực hiện kế hoạch của Ngài trong việc cứu dân Do Thái thời lưu đày, khỏi họa diệt chủng thế nào, thì ngày nay, Chúa đang chuẩn bị bạn để làm thành ý muốn của Ngài thể ấy.
Đức Chúa Trời có thể đưa Ê-xơ-tê, một cô gái mồ côi thuộc dân tị nạn, lên làm hoàng hậu của một quốc gia đang cai trị gần như toàn thế giới thời bấy giờ, thì Ngài cũng có thể nâng bạn lên đúng địa vị mà Chúa muốn, đúng thời điểm mà Chúa muốn. Đức Chúa Trời có toàn quyền làm việc đó,“Vì chẳng ai từ phương đông, phương tây hay là từ phương nam có thể tôn cao người nào. Nhưng chính Đức Chúa Trời thi hành sự phán xét: Ngài hạ kẻ nầy xuống, nhấc người kia lên.” (Thi thiên 75: 6-7)
Hoàn cảnh của bạn dù bi đát thể nào, nguy hiểm ra sao đi nữa, nhưng một khi đã là dân sự của Chúa thì chắc chắn là Chúa sẽ biến ‘giờ hoạn nạn’ của bạn thành ra nguồn phước cho muôn người. Đức Chúa Trời mà chúng ta đặt lòng tin cậy, luôn thừa khả năng để biến họa thành phước. Hãy vững tin nơi Chúa.
Đức Chúa Trời có mục đích cụ thể cho cuộc đời của mỗi chúng ta. Chúa có mục đích cho Mạt-đô-chê; Chúa có mục đích cho Ê-xơ-tê và Chúa có mục đích cho cuộc đời của bạn. Hãy nghe lời Chúa phán: “Vì Ta biết chương trình Ta hoạch định cho các ngươi là chương trình hòa bình thịnh vượng, không phải là tai họa diệt vong. Ta kiến tạo cho các ngươi một tương lai sáng sủa, một niềm hy vọng vững vàng” (Giê-rê-mi 29: 11)


Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2015

TÁI THIẾT DÂN THÁNH

Nehemi 11-13
Ba chương Kinh Thánh cuối cùng của sách Nê-hê-mi hôm nay thuộc dạng ‘hai xương, một … nạc’. Những ai mà không rành ‘ngoại ngữ’ thì chắc là đánh vần chật vật lắm đây, vì toàn là tên nước ngoài không hà. Nói vậy chớ phần đông anh chị em chúng ta đã quen ‘ăn xương’ rồi, nên có khi thấy ‘xương’ lại càng háo hức ấy chứ.
Nào, lên đường thôi.
“Các thủ lĩnh của dân Chúa đều ở tại Giê-ru-sa-lem và dân chúng còn lại bắt thăm để cứ mười người thì có một người đến ở tại Giê-ru-sa-lem là thành thánh, còn chín người kia thì ở trong các thành khác. Dân chúng chúc phước cho những người nam nào tình nguyện ở tại Giê-ru-sa-lem.” (11: 1-2)
Bản Dịch Mới dịch câu 2 thế này “Dân chúng đặc biệt biết ơn những người nào tình nguyện vào sống trong thành Giê-ru-sa-lem.”
‘Cán bộ’ ở thủ đô thì chẳng có gì phải bàn. ‘Số’ họ nó thế. Việc bốc thăm để được vào sống trong thủ đô thì cũng đúng thôi. Thế nhưng, dân tình “chúc phước” hay bày tỏ lòng biết ơn đặc biệt đối với những người tình nguyện vào Giê-ru-sa-lem để sống thì đúng là khó hiểu à nha. Răng lọa rứa hì?
Để hiểu được tình trạng trái khoáy này chúng ta cần phải trở lại với đoạn 7: 1-4: “Khi vách thành đã xây xong, và tôi đã tra các cánh cửa, lập những người giữ cửa, kẻ ca hát, và người Lê-vi trong chức việc của họ, thì tôi giao phó việc cai trị Giê-ru-sa-lem cho Ha-na-ni, em tôi, và cho Ha-na-nia, quan tể cung; … lại phải đặt người trong dân Giê-ru-sa-lem thay phiên mà canh giữ, mỗi người đứng canh nơi đối ngang nhà mình. Vả, thành thì rộng rãi lớn lao, còn dân sự ở trong nó lại ít, và nhà mới thì chưa có cất.”
Trong khoảng 160 năm, kể từ ngày bị quân Ba-bi-lôn hủy phá, Giê-ru-sa-lem đã trở nên hoang phế hoàn toàn. Do đó, khi hồi hương người Do Thái đã chọn sống ngoài vùng quê. Thanh bình hơn, an toàn hơn và dễ sống hơn.
Thế cho nên, khi Đền Thờ đã được tái lập, tường thành đã hoàn tất việc tu bổ nhưng thành phố vẫn vắng vẽ. Dân ít, nhà ít. Không mấy ai muốn từ bỏ nhà cửa, đất đai vườn tược, công ăn việc làm ổn định để lên phố cả. Đó là lý do dẫn tới việc bốc thăm, là lý do mà dân chúng vô cùng biết ơn những gia đình nào tình nguyện … nhận ‘hộ khẩu thủ đô’.
Vào sống trong Giê-ru-sa-lem, thành phố của Đức Chúa Trời, đòi hỏi một sự hy sinh rất lớn. Dù phải từ bỏ rất nhiều, nhưng nhiều người đã vì Chúa mà đến sống tại Giê-ru-sa-lem, một nơi mà đa số người ta thời bấy giờ không muốn chọn. Trong ngày sau rốt, cũng sẽ có nhiều người vì không thể bỏ được nơi ở quen thuộc, lối sống quen thuộc nên đã từ chối cơ hội vào sống trong Giê-ru-sa-lem mới từ trời giáng xuống (Khải huyền 21: 10).
Nếu hôm nay, Chúa muốn những con dân của Chúa đến sống tại một “Giê-ru-sa-lem” nào đấy, thì bao nhiêu người trong chúng ta sẽ sẵn sàng tình nguyện ra đi và bao nhiêu người trong chúng ta sẽ ra đi nếu thăm trúng nhằm mình? Được đi hay bị đi thì cũng là đi, nhưng được đi thì … có phước lủ khủ luôn.
Dù Kinh Thánh không nêu tên những người tình nguyện, nhưng việc làm của họ thì không bao giờ bị lãng quên. Chúa không bao giờ quên cả nghìn con người vô danh, ngày đêm trung tín làm tròn chức phận của họ, dù là công việc trong hay bên ngoài đền thờ, dù là gác cổng hay hướng dẫn ca đoàn (11: 12, 16, 17, 19). Bạn hiện có đang góp phần làm một công việc gì đó trong hội thánh của Chúa không? Chớ nãn lòng, có thể không ai quan tâm đến việc bạn làm, nhưng Chúa thì luôn để mắt đến bạn đấy. Bạn sẽ không mất phần thưởng đâu.
Chương 12, một lần nữa ‘ngược thời gian’ về với lễ cung hiến tường thành vô cùng hoành tráng. Nhạc đàn, kèn trống tưng bừng. Già trẻ lớn bé “cùng vui mừng hớn hở. Tiếng reo vui từ Giê-ru-sa-lem vang ra đến tận nơi xa.” (12: 43).
Vâng. Họ đã kinh nghiệm được sự vui mừng thật. Và sự vui mừng thật bao giờ cũng đi sau sự thanh tẩy hay thánh hiến (12: 30; 43). Nhớ nha: không có sự thanh tẩy hay thánh hiến thì sẽ không bao giờ có sự vui mừng thật, không bao giờ có hạnh phúc thật sự đâu.
Tội lỗi có đem lại cho người ta tiếng cười không, có khiến người ta vui không? – Có đấy. Nhưng có sự khác nhau một trời một vực giữa niềm vui bởi Đời và niềm vui bởi Trời; giữa niềm vui từ bên ngoài vào và niềm vui từ trong lòng mà ra đấy.
Bạn đã từng nếm trãi được niềm vui từ trong lòng, bởi Chúa, mà ra chưa?
Cuối cùng, chúng ta sẽ cùng học theo gương của Nê-hê-mi trong cách xử lý dứt khoát với tội lỗi trong chương 13. Chúng ta đã biết Nê-hê-mi không hề khoan nhượng hay thỏa hiệp đối với kẻ thù, giờ đây chúng ta lại thấy ông không hề nương tay đối với tội lỗi.
Trong thời gian Nê-hê-mi đi vắng, khi quyền tổng trấn được giao cho Ha-na-ni, em của ông (7:2) thì thượng tế Ê-li-a-síp lại đem lão Tô-bi-a, kẻ đã quậy phá Nê-hê-mi và dân Do Thái đủ trò suốt thời gian họ tu bổ tường thành, vào trong Đền Thờ Chúa để cư trú! Đúng là ‘nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà’ rồi còn gì. Đây là hình ảnh của việc người tin Chúa chứa chấp tội lỗi trong đời sống của mình.
Tô-bi-a là kẻ thù. Vâng, Ê-li-a-síp thừa biết chớ. Biết sao còn chứa, dù điều đó là phạm luật? – Vì cớ Tô là bà con với Ê. Rứa đó. Có nhiều thói hư tật xấu, mà thật sự là tội lỗi, đang còn ung dung tự tại trong đời sống ta, nhưng ta không nỡ giết. Ấy là vì chúng quen thuộc với chúng ta, gần gũi với chúng ta, thân thiết với chúng ta quá lâu rồi. Thế cho nên, làm sao tôi nỡ …. giết người tôi yêu!
Ê-li-a-síp thì chứa chấp, nhưng Nê-hê-mi thì không. Vừa khi phát hiện sự việc, ông tống khứ Tô-bi-gia và toàn bộ đồ đạc của hắn khỏi Đền Thờ Chúa ngay lập tức, rồi cho người tẩy uế phòng đó. Ông không quan tâm đến phản ứng của thượng tế Ê-li-a-síp, cũng chẳng để ý đến chuyện dân chúng sẽ bình phẩm ra sao về hành động của ông. Nê-hê-mi chỉ quan tâm đến một điều: đẹp lòng Chúa.
Anh chị em là ai trong thái độ đối với tội lỗi: chứa chấp như Ê-li-a-sip hay ‘đuổi thẳng cổ’ như Nê-hê-mi?
Đối với tội lỗi, Nê-hê-mi rất dứt khoát. Dù là tội lỗi của thầy thượng tế Ê-li-a-síp hay của dân sự (không nộp phần mười khiến người hầu việc Chúa phải bỏ việc hay tái phạm việc cưới gả với người ngoại thờ lạy hình tượng hoặc vi phạm giao ước: không nghỉ vào ngày Sa-bát) thì Nê-hê-mi cũng quyết liệt như nhau. Nhất định không khoan nhượng với tội lỗi. Đã là tội lỗi thì cứ phải đuổi thẳng cổ. Tái xây dựng một dân tộc thánh cho Đức Chúa Trời thì phải rứa thôi.
Tội lỗi không khác chi rắn độc. Nếu bị một con rắn độc quấn quanh tay mình hay rơi nhằm trúng mình thì bạn sẽ làm gì: cầu hỏi rồi chờ đợi ý Chúa, xin lời khuyên của bạn bè xung quanh hay càng nhanh càng tốt vứt nó ra xa thật xa? 


Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

TÁI THIẾT NHÂN TÂM

Nehemi 8-10 
Sách Nê-hê-mi được chia đều làm 2 phần, mỗi phần 6 chương. Còn chương 7 có chức năng giống như một gáy lò xo của quyển sách. Tự kiểm tra lại đi nhé.
Sáu chương đầu, nói về công việc tái thiết hay tu bổ tường thành, còn 6 chương cuối nói về việc tái xây dựng hay làm mới dân sự cho việc thờ phượng Đức Chúa Trời.
Đến lúc này, tường thành đã xong. An ninh đã được bảo đảm. Nê-hê-mi liền đứng sang một bên nhường chỗ cho thầy tế lễ Ê-xơ-ra thi hành chức vụ. Việc hai vị lãnh đạo này hành động thật là nhịp nhàng, ăn ý, tiến lùi đúng lúc cũng là một bài học hay nhưng cũng … khó thuộc đối với nhiều người lãnh đạo. Sẵn tiến thì ai cũng có thể, song sẵn thoái (lùi) thì không phải ai cũng ô-kơ.
Ba chương Kinh Thánh hôm nay mô tả sự thăm viếng của Chúa trên dân sự Ngài, khi họ quyết định trở lại với Lời của Chúa.
Bấy giờ, dân sự đều nhóm hiệp như thể một người, tại phố ở trước cửa Nước. Chúng nói với E-xơ-ra là thầy thông giáo, xin người đem quyển sách luật pháp của Môi-se mà Đức Giê-hô-va đã truyền dạy cho Y-sơ-ra-ên. Ngày mồng một tháng bảy, thầy tế lễ E-xơ-ra đem luật pháp đến trước mặt hội chúng, người nam và nữ, cùng những người có thông sáng nghe hiểu được.  (8: 1-2)
Toàn dân hiệp lại “như thể một người”, rồi xin được nghe Lời Chúa. Rõ ràng, đây là công việc của Đức Thánh Linh. Ngài khuấy động lòng dân sự và ban cho họ một sự đói khát Lời Chúa cách lạ lùng. Họ đến với Ê-xơ-ra và gào lên: “Thầy ơi, xin đem Kinh Thánh ra đây!”
Đã có khi nào bạn đói Lời Chúa đến như vậy chưa? Đã có khi nào bạn chạy đến với những người lãnh đạo thuộc linh của mình mà xin được nghe Lời Chúa chưa? (Nếu có, thì lần cuối cùng bạn làm điều đó, cách đây bao lâu rồi?)
Đó là dân. Còn nếu bạn là thầy tế lễ như Ê-xơ-ra thì bạn có sẵn sàng đem sách luật pháp của Chúa, tức Kinh Thánh ra dạy cho những người đang đói khát này không? (Này bạn, khá nhớ nguyên tắc này: “ta không thể cho người khác điều mà mình không có”. Thế thì, trước khi bước ra để đáp ứng nhu cầu, cần hãy thành thật kiểm tra xem mình thật sự có điều họ cần không nhé).
Những cuộc phấn hưng được ký thuật lại trong Kinh Thánh hay trong lịch sử hội thánh đều bắt đầu bằng việc Lời Chúa được rao giảng cách chân thật. Bởi vì nơi đâu Lời Chúa thật sự được rao giảng thì nơi đó người ta được tự do, nơi đó có phép lạ xảy ra, nơi đó người ta nhận thấy sự hiện diện của Chúa.
Hãy lấy lòng đơn sơ, khiêm nhường thật sự trở lại với Lời của Chúa. Hãy đọc Lời Chúa với tấm lòng mở ra, đọc với tấm lòng lắng nghe, đọc trong sự bền đỗ và trong tinh thần kết ước. Sự thăm viếng của Chúa chắc chắn sẽ đến. Không chậm trễ đâu.
Hãy bắt đầu từ chính đời sống cá nhân, rồi nhân rộng ra trong gia đình mình và sau đó là ra hội thánh.
Một khi Lời Chúa được ĐỌC, được GIẢI NGHĨA hay giảng giải, tức làm cho người nghe hiểu được ý nghĩa, thì người ta sẽ có sự đáp ứng đối với Lời Chúa. Có thể đó là sự ăn năn (9: 1-38), có thể đó là việc phục hồi lại những gì … quên vâng giữ (8: 14-17), hoặc có thể đó là sự cam kết hay tái kết ước với Chúa trong những ngày còn lại của cuộc đời (10: 1-39).
Chỉ có Đền Thờ được xây dựng, tường thành được tu bổ thì chưa đủ, nếu không có những người thờ phượng … đủ chuẩn. Một nhà thờ rộng lớn, một nhà nguyện đủ tiện nghi, và đời sống tài chánh, vật chất của dân sự ngày càng dư dật cũng chẳng có ý nghĩa gì nếu như con dân Chúa không còn đói khát Chúa, không còn tìm kiếm Lời của Chúa.
Hội thánh Chúa ngày nay nói chung, và hội thánh nơi bạn sinh hoạt nói riêng hiện đang thật sự thiếu điều gì: Lời Chúa không được giảng dạy như đáng phải có hay có quá ít người khao khát học Lời Chúa? Và bạn đã làm gì để góp phần thay đổi tình trạng đó chưa?


Thứ Sáu, 8 tháng 5, 2015

NẢN CHẲNG TỪ NAN

Nehemi 5-7
Ba chương Kinh Thánh hôm nay có lẽ là sự hồi tưởng của Nê-hê-mi về chiến dịch “52 ngày đêm gian khó xây thành” chớ không phải là bản “tường thuật trực tiếp”. Bằng chứng rõ nhất nằm ở những lời cầu nguyện của ông trong hai chương 5 và 6 (5:19; 6:14).
Đúng là ‘thù trong, giặc ngoài’ hay tứ bề thọ địch. ‘Giặc ngoài’ thì xuất hiện từ khi dân sự Chúa bắt đầu khởi công. Còn ‘thù trong’ thì khi tường đã xây sắp xong rồi.
‘Thù trong’ hay quân nội gián này khởi nguồn từ thành phần quý-xờ-tộc. Anh chị em còn nhớ mấy ‘quý nhơn’ nầy không? Đây là những tay đã được điểm mặt trong chương 3: 5 là “không chịu ghé vai vào công việc của chủ mình” đấy. Và cũng chính mấy anh X này (Chúa còn thương nên tạm giấu tên) đã từng đi đêm qua lại với ‘kẻ thù trực tiếp’ của dân Chúa là lão Tô ... bi-gia (hay tô … gì thì tùy theo cách của bạn). Thấy chưa, sớm muộn gì bàn dân thiên hạ cũng biết thôi. Ở đó mà lén lút, giấu giếm.
Đã không tham gia làm công việc Chúa, những người quý tộc này còn gián tiếp làm ngưng trệ công việc xây thành. Mọi chuyện cũng chỉ bởi một chữ THAM. Một khi máu tham của các vị đã nổi lên thì bất chấp lề luật Chúa, bất chấp ‘quan hệ huyết thống’, bất chấp thân bằng quyến thuộc.
Họ dùng tiền để cho anh em vay. Người ta không trả nổi, xiết nhà. Không trả nổi nữa, xiết đất và nếu cần … bắt con người ta bán làm nô lệ luôn. Quý tộc Giu-đa đó nha, quan chức của Giu-đa đó nha. Và thế là ‘nhân dân’, những người đang tình nguyện xây thành chịu hết nỗi. Lãn công hoặc làm cho có lệ mà thôi.
Nhớ nha: “Lòng tham tiền bạc là cội rễ của mọi điều ác” (1 Timothe 6: 10) và một trong những điều ác đó là khiến cho người khác xao lãng công việc Chúa đấy. Đặc biệt, nếu là một người lãnh đạo trong hội thánh thì tác hại từ lòng tham tiền của người đó lên hội chúng là lớn vô cùng.
Nê-hê-mi xử lý ‘thù trong’ như thế nào? Trước hết, ông triệu tập một đại hội. Ông phê bình công khai chuyện sai trái của hàng lãnh đạo (không xử lý nội bộ đâu nghe); yêu cầu họ chấm dứt việc làm đó, ngay lập tức ‘khắc phục hậu quả’ và sau đó là ký ‘cam kết’. Xong. Yên dân ngay.
Thế nhưng, để có quyết định sáng suốt như thế thì Nê-hê-mi đã có một thời gian “suy tính trong lòng” hay “suy tính kỷ càng” (5:7). Hơn nữa, ông đã thuyết phục được cả hai thành phần quý tộc và thường dân bằng chính đời sống gương mẫu, kính sợ Chúa của mình.
‘Thù trong’ vừa dẹp yên thì ‘giặc ngoài’ liền tràn đến. Chúng tràn đến khi mọi sự sắp đến lúc hoàn thành. Đây là thời điểm mà chúng ta thường lơi lõng sự thức canh. Ôi dào, vẽ chuyện. Đã sắp ra mâm ra bát rồi còn gì. Nhiều người bị kẻ thù đánh bại không phải lúc khởi công mà là ngay lúc cắt băng khánh thành đấy ạ. Ma quỷ không hề ngủ và cũng không hề … ngu. Nhớ đấy.
Trong chương 4, ma quỷ dùng hai chiêu để ngăn cản công việc Chúa: nhạo báng và phá tán. Nê-hê-mi chỉ mỗi việc tin cậy Chúa trong sự cầu nguyện. Còn trong chương 6 này, chúng sử dụng phương án: thỏa hiệp, vu khống và đe dọa mạng sống.
Rất lịch nhé. Cho người trao thư mời tận tay. Và cũng rất kiên nhẫn. Phương án một, mời ra ngoại thành uống cà-phê nói chuyện. Phương án hai, gặp nhau để xác minh về đơn tố cáo của nhóm ‘quần chúng bức xúc’. Phương án ba, dọa giết để khiến người của Chúa phạm luật (dẫn một anh què ngoại quốc Semagia hay Sê ma giáo nào đấy vào trong Đền Thờ) và sau đó là hạ uy tín.
Tất cả đều bị thất bại. Người của Chúa không bị sập bẫy.
Răng mà ông khôn sáng rứa hè? Ấy là vì ông biết Lời Chúa. Thêm nữa, Nê-hê-mi là người biết Chúa. Ông biết Chúa mà ông tin thờ. Lòng tin của ông đặt nền tảng trên hai thực thể không hề thay đổi đó. Vâng, Lời Chúa và chính Chúa là nền tảng không hề thay đổi cho một đức tin thật.
Ngoài ra, Nê-hê-mi còn biết rõ sự kêu gọi mà Chúa dành cho mình. Ông cũng là một người có đời sống cầu nguyện.
Vì tất cả lý do đó mà Nê-hê-mi có được một sự sáng suốt lạ lùng để thẩm định sự việc. Sự sáng suốt lạ lùng hay nói theo ngôn ngữ của Tân Ước là ân tứ “phân biệt các linh” này, là điều thật sự cần thiết cho mỗi một chúng ta, đặc biệt là cho những người lãnh đạo hội thánh, đang khi sống và phục vụ giữa một thế giới đầy dẫy sự dối trá, gian ác như hiện nay.
Chỉ mất vỏn vẹn 52 ngày để tái thiết xong toàn bộ tường thành Giê-ru-sa-lem cũng như sửa chữa các cổng thành. Thế mà suốt 100 năm, kể từ đợt hồi hương lần thứ nhất dưới sự lãnh đạo của Xô-rô-ba-bên, người Do Thái vẫn không thể thực hiện được. Vì đâu nên nỗi?
Phải chăng đó là vì … “chưa đến thời điểm của Chúa” hay là vì thiếu một người lãnh đạo ‘vừa có tâm, vừa có tầm’ giống như tổng trấn Nê-hê-mi?


Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015

SỨC THIÊNG CỦA CHÚA

Dừng Chân Lần Thứ 16
NHÌN LẠI
Ê-xê-chia và Ê-xơ-ra. Tên của họ nghe giống nhau và có nghĩa gần gần nhau. Ê-xơ-ra nghĩa là “giúp đỡ” hay “sự giúp đỡ”, còn Ê-xê-chia là “Đức Chúa Trời giúp sức hay làm cho mạnh mẽ”. Nhưng sự giống nhau của họ đến đấy là … hết.
Ê-xê-chia là vua, còn Ê-xơ-ra là thầy tế lễ. Họ chưa từng gặp nhau vì sống cách nhau hàng trăm năm tại hai phương trời cách biệt: một ở Giê-ru-sa-lem, còn một tận xứ Ba-tư. Ê-xê-chia nổ lực bảo vệ dân tộc mình khỏi sự tấn công của kẻ thù, còn Ê-xơ-ra thì tập chú vào việc tái thiết dân tộc sau 70 năm lưu đày.
Vâng, hai vị anh hùng Cựu ước này đã thực hiện được những việc lớn lao cho Đức Chúa Trời vì cớ họ cùng chia sẻ đam mê đọc, học và vâng giữ lề luật của Chúa. Họ có thể giúp đỡ và làm mạnh mẽ người khác vì cớ cuộc đời họ được neo đậu nơi nền tảng không hề thay đổi là Lời của Đức Chúa Trời.
Ê-xê-chia và Ê-xơ-ra, Ru-tơ và Ê-xơ-tê – thật là một di sản đồ sộ gồm những anh hùng mà ta có thể gặp trong từng trang Cựu Ước. Những người nam, người nữ - những người đã từng đồng hành với Chúa trong những tháng ngày biến động – đã có những quyết định cứng rắn, đã đối mặt với những kẻ thù khủng khiếp, đã cầu nguyện bằng những lời cầu nguyện đầy quyền năng và đã thực hiện những chiến công vĩ đại trong sức thiêng của Đức Chúa Trời.
NHÌN LÊN
Ê-xơ-ra đã trực tiếp học biết về tay của Đức Chúa Trời của ông (Ê-xơ-ra 7: 6, 9; 8: 18, 22). Một khi mà thuộc tính của Đức Chúa Trời được mô tả trong thuật ngữ của con người thì ta gọi đấy là phép nhân hình hóa. Dười đây chỉ là một vài điển hình trong nhiều cách thức mà Đức Chúa Trời được mô tả trong thuật ngữ của con người. Bạn có thể giải thích ý nghĩa của những ‘chi thể’ được nói đến dưới đây không?
“Bàn tay” của CHÚA (Giô-suê 4: 24) giúp chúng ta đến để nắm lấy ………………… của Ngài.
“Tiếng phán” của CHÚA (1 Samuen 15: 22) nói đến ……………………………......... của Ngài.
“Mắt” CHÚA (2 Sử Ký 16: 9) khiến chúng ta nghĩ về …………………………….......... của Ngài.
“Cánh tay” CHÚA (Esai 51: 9) ám chỉ đến …………………………………………........... của Ngài.
Khi ra đòn, mục đích của võ sĩ quyền anh là hạ gục đối thủ bằng sức mạnh của đôi tay mình. Toàn bộ sức mạnh của người võ sĩ  đều được dồn hết vào đôi tay. Cũng một thể ấy, Đức Chúa Trời mong ước dồn quyền năng của Ngài vào đời sống của người tin thờ Chúa. Đời sống của Ê-xơ-ra luôn đầy dẫy quyền năng của Đức Chúa Trời vì cớ tấm lòng ông, tâm trí ông luôn đầy dẫy Lời của Ngài.
NHÌN TỚI
Những ngày gần đây, nếu đang trải qua thời kỳ yếu đuối hay không kết quả trong đời sống thuộc linh của mình, thì có lẽ, anh chị em nên kiểm tra lại bộ phận “tiếp điện” của mình. Một cành nho héo úa và không cho quả thì rõ ràng là đã … ‘hội đủ điều kiện’ để bị cắt bỏ khỏi gốc nho, tức là nguồn sức và nguồn sống của nó (Giăng 15: 1-8)
Hạnh phúc, kết nhiều quả, thịnh vượng – mỗi một ‘món’ này là di sản hay tài sản thừa kế dành cho bất kỳ ai “vui thích và suy gẫm luật pháp của CHÚA ngày và đêm” (Thánh Thi 1: 1-3). Đây là chân lý mà Ê-xơ-ra đã học biết được, và bạn cũng có thể như thế.
Suy gẫm (nghĩa đen là “nhai đi nhai lại”) có nghĩa là nghiền ngẫm, ngẫm nghĩ, là rút ra những chất bổ dưỡng từ những chân lý sống động của Kinh Thánh. Việc này tương tự như con bò lấy dưỡng chất từ cỏ xanh vậy đó. Và như thế, nếu chỉ ‘nhai’ một trường hợp điển hình thì không bao giờ đủ được. Có muôn vàn lý do để cứ “suy đi, ngẫm lại” cùng một phần Kinh Thánh nào đó. Khá nhớ rằng, Đức Chúa Trời luôn thích thú soi sáng Lời của Ngài bằng những góc nhìn tươi mới, đặc biệt là cho những phần Kinh Thánh mà ta đã từng đọc, từng học qua!
Hãy lật lại những phần Kinh Thánh mà ta đã đi qua từ đầu năm đến giờ và tìm những đoạn mà bạn yêu thích. Hãy đọc lại cách chậm rãi và ‘nhai’ cho thật kỹ. Chắc chắn, bạn sẽ nhận được một sự dạy dỗ tươi mới nào đấy từ nơi Đức Thánh Linh. Vâng, một sự dạy dỗ hay soi dẫn tươi mới từ một đoạn Kinh Thánh cũ, từ một phần Kinh Thánh quen thuộc.
Lời Chúa thì cũ, vì đã có từ hàng ngàn năm rồi nhưng không bao giờ lỗi thời, cũng như mặt trời thì đúng là xưa thật là xưa nhưng sức nóng của nó, ánh sáng của nó hay nói chung là giá trị của nó, đối với đời sống con người thì vẫn y nguyên từ buổi sáng thế cho đến tận hôm nay.
Bạn có phải là người luôn “vui thích về luật pháp của Đức Giê-hô-va, và suy ngẫm luật pháp ấy ngày và đêm” không?


Thứ Tư, 6 tháng 5, 2015

VAI ANH VÁC ĐÁ, TAY EM CẦM GIÁO

Nehemi 3-4
“Vai anh vác đá, tay em cầm giáo” nghe cứ như “Gởi Người Đi Xây Hồ Kẻ Gỗ” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý ấy nhỉ. Vâng, âm hưởng thì có giống chút chút, còn ‘nội hàm’ thì … xa tít tắp mù khơi luôn. “Vác đá, cầm súng” là mô tả cảnh dân Do Thái hồi hương đang xây lại tường thành, trước mưu đồ tấn công phá hoại của kẻ thù. Giống như câu: “Tay cày, tay súng” ở ta trước đây vậy đấy.
Hôm nay ta Bộ hành chỉ có 2 chương, song chương 3 đúng là khô như … đá. Xây tường mà lị. Thế nhưng, trong ‘đá’ này có ‘ngọc’ đó nghe. Hơi bị nhiều đấy. Cố mà đãi … đá để tìm nha.
Trước hết, ta xem cách Nê-hê-mi điều binh, khiển tướng trong việc “xây dựng lại nơi đổ nát của ngày xưa”. Trừ giới quý tộc ra, thì toàn dân toàn quan người Do Thái đều tham gia tái thiết tường thành, dựng lại cổng thành.
Nghệ thuật truyền cảm hứng hay ta còn gọi là “trao khải tượng” của Nê-hê-mi thật sự hiệu quả. Vì sau khi nghe Nê-hê-mi trình bày, thì các đại biểu nhất trí ngay: “Họ nói: ‘Nào, chúng ta hãy khởi công xây dựng lại ngay đi!’ Vậy họ mạnh dạn bắt tay vào công việc tốt đẹp nầy.” (2: 18).
Tuy tất cả đều nhiệt tình tham gia nhưng Nê-hê-mi không dồn họ vào một chỗ. Nguyên tắc chủ đạo: mỗi người xây sửa phần “đối ngang nhà mình”. Chiến thuật này vừa huy động được tối đa số người tham gia (thế mới có chuyện mấy cô con gái ‘chủ tịch’ quận cũng làm phụ hồ vô tư, hay mấy anh thợ vàng, thợ bạc và mấy anh chuyên sản xuất mỹ phẩm cũng không quản ngại dự phần), vừa bảo đảm ‘chất lượng công trình’. Tuy là tường chung, tuy là cổng chung nhưng ở trước nhà mình, nên có gì đó cũng là của riêng, là của mình. Mà hễ cái gì là của mình thì chuyện đầu tư, chăm chút hơn … của chung, cũng là chuyện tự nhiên thôi. Chung mà riêng, riêng mà chung là vậy.
Cum từ được sử dụng thường xuyên trong chương 3, sau từ “xây sửa lại” hay “tu bổ” là “KẾ người/chúng”. Người này kế tiếp người kia, mỗi người một phần việc, tuy giống nhau nhưng không hề giẫm chân nhau, ngăn cản nhau hay phê phán chỉ trích nhau. Chắc chắn là nhiều người trong số họ có cách trộn hồ, bê đá, trát vữa, … khác nhau; Chắc chắn là họ sử dụng những công cụ lao động khác nhau nhưng những điều đó không khiến cho họ bất đồng, tranh cãi. Đơn giản là họ tập chú vào mục tiêu. Họ có cùng mục tiêu: tái thiết tường thành, dựng lại cổng thành.
Khi không nhìn vào sự khác biệt của nhau mà chỉ tập chú vào những gì giống nhau giữa chúng ta thì việc hiệp một hay hòa thuận bao giờ cũng … nhỏ như con thỏ - dù là hiệp một trong hôn nhân giữa vợ và chồng, hiệp một trong gia đình, trong hội thánh hay trong bất kỳ tổ chức xã hội nào khác.
Nay quay sang ý nghĩa của từng chiếc cổng thành trong chương 3 nhé. Ngày xưa, mỗi một thành phố đều có một vòng tường bọc xung quanh, giống như tường rào của hầu hết những ngôi nhà ở miền Bắc Việt Nam vậy. Tường thành vốn có một chức năng căn bản: bảo vệ người sống trong thành phố khỏi sự tấn công của kẻ thù cũng như khỏi sự ô nhiễm về tôn giáo, văn hóa ngoại lai. Một thành phố ngày xưa mà không có vòng thành thì cũng giống như một căn nhà không có vách, không có tường, hay một mãnh vườn không có rào vậy. Mà như thế thì trộm cướp cứ vô tư vào ra, thú nhà, thú rừng cứ tha hồ lui tới. Đúng không?
Thế là cần phải xây tường. Nhưng nếu chỉ có tường mà không có cửa hay cổng thì cũng bằng nhau. Trộm vẫn cứ vào, thú vẫn cứ vô. Rồi, thì sửa cổng. Có mười cái cổng. Nhưng không phải cổng nào cũng “bị lửa thiêu đốt” đâu nhé. Và không phải cổng nào cũng cần phải “tra chốt và then cài” à nha.
Nào bây giờ ta cùng theo lịch trình tái thiết ‘ngược chiều kim đồng hồ’ trong chương 3 để học biết ý nghĩa cụ thể của từng chiếc cổng. Hãy lưu ý xem chiếc cổng nào trong đời sống của bạn, của hội thánh nơi bạn đang sinh hoạt bị thiêu hủy mà lo phục hồi nhé.
Cổng Chiên (3: 1-2) Đây là chiếc cổng mà người ta dẫn những con chiên (cừu) từ bên ngoài vào thành phố để làm sinh tế cho Đức Chúa Trời tại Đền Thờ. Mà Giê-xu người Nazaret được gọi là Chiên Con của Đức Chúa Trời hằng sống, Đấng đã đến để cất tội lỗi của thế gian. Nói cách khác, cổng Chiên là hình bóng của Thập Tự giá. Đây phải là khởi đầu công việc của Đức Chúa Trời trong đời sống một người. Đây phải là nơi khởi đầu của bất kỳ một cuộc tái thiết hay tu bổ nào dưới góc độ cá nhân hay tầm mức tập thể. Nhớ là cổng này không bao giờ chốt hay khóa nhé.
Cống Cá (3: 3-5): Đây là hình bóng cho công tác chứng đạo của người tin thờ Chúa. Hãy nhớ lại câu nói của Đức Chúa Giê-xu với Phê-rơ: “Đừng sợ! Từ nay trở đi, ngươi sẽ nên tay đánh lưới người” (Luca 5: 10). Chiếc cổng này của bạn, của hội thánh bạn có còn ô-kê không hay đã tàn lụi? Lần cuối cùng bạn nói về Đức Chúa Giê-xu cho người khác cách đây bao lâu rồi?
Cổng Cũ (3: 6-12): Chiếc cổng này tượng trưng cho lẽ thật, tức những chân lý đã được bày tỏ trong Kinh Thánh. Đối với không ít người tin thờ Chúa, thậm chí là người hầu việc Chúa, thì một số điều dạy dỗ trong Kinh Thánh hoặc đã lỗi thời hoặc không còn giá trị trong thời đại ngày nay. Cổng đã bị thiêu rụi từ lâu nhưng ‘chúng’ không hề biết mới đau chớ. Trộm đã vào khoén sạch sành sanh rồi mà vẫn cứ tỉnh bơ, mồm xoen xoét: “bà còn thức đây nghe bây”!
Những chân lý được bày tỏ trong Kinh Thánh đúng là xưa thật, nhưng đó là đồ cổ chớ hổng phải đồ cũ đâu nha cưng. Xem lại đi nhé.
Cổng Trũng (3: 13-14): Cổng này nói về sự khiêm nhường. Đây là nơi mà chúng ta hạ mình trước Chúa, đầu phục chính mình cho ý muốn của Ngài theo gương Chúa Giê-xu (Philip 2: 6-8). Khá nhớ rằng, Đức Chúa Trời luôn chống cự kẻ kiêu ngạo đấy. Mà kiêu ngạo là răng? – Đơn giản là điều gì ta thích thì ta làm. Thế cho nên, mỗi khi cái tôi của ta, sự kiêu ngạo của ta thắng thế trong đời ta thì cổng Trũng của ta đã bị “thiêu rụi” mất rồi.
Cổng Phân (3: 14): Hết tên hay sao mà lại lấy Phân đặt tên cho một cổng thành nhỉ. Nghe cái tên đã mất cảm tình. (Đối với người miền Nam thì gọi thế là … rất văn hóa, khoa học nữa là khác, song người miền Bắc mà nghe đến từ này thì dễ tiết nước bọt để … phun lắm à nha. He he). Người ta gọi như thế vì qua cổng này rác từ thành phố được đem ra bỏ ngoài trũng Hi-nôm đấy.
Cổng này mà bị hư thì rác làm sao ‘xuất’ ra được. Mà không ‘xuất’ rác ra được thì thành phố sẽ phải chịu cảnh “đêm đêm ngữi mùi hương”. Mà ngày và đêm cứ được khuyến mãi mùi hương của rác như thế thì không cần phải ‘thế lực thù địch’ nào tấn công cả, dân trong thành cũng lăn đùng ra chết … dịch thôi.
Cổng Phân tượng trưng cho sự ăn năn, tức xưng nhận tội lỗi của mình và lìa bỏ nó. “Hãy thanh tẩy chính mình cho sạch những điều ô uế về phần thân thể lẫn tâm linh, hãy hoàn thành sự thánh hóa trong niềm kính sợ Đức Chúa Trời” (2 Corinhto 7: 1). Và “nếu chúng ta xưng tội lỗi mình thì Ngài là Đấng thành tín và công chính sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta và thanh tẩy chúng ta sạch mọi điều bất chính” (1 Giăng 1: 9).
Viết đến đây, chợt nghĩ đến mấy thầy, mấy chú bên “duy ân điển”, những người đang nhiệt thành thực hành và cổ xúy cho lối sống mới: “không cần phải ăn năn lần nữa, nếu lỡ phạm tội”. Cổng Phân của mấy ‘ảnh’ đổ nát như rứa mà mấy ‘ảnh’ bảo không cần phục hồi. Rứa thì rác mấy ‘ảnh’ đổ đâu ta? Chẳng lẽ mấy ảnh hổng có rác. Hay vì ‘sống chung với … rác’ riết rồi quen nên hổng còn phân biệt được mùi … rác thối. Mà cũng có thể vì bệnh nặng quá rồi nên mất khứu giác, tức là khả năng … ngữi cũng nên. Nếu đúng như thế thì … thối thật.
Cổng Suối (3: 15): Chiếc cổng này tượng trưng cho Đức Thánh Linh. Lưu ý là cổng Suối đi liền sau cổng Phân đấy. Rác rưới, ô nhơ, bất khiết trong ta phải được dọn dẹp trước, sau đó mới nói đến việc khơi thông dòng chảy của “suối nước sự sống” trong ta. Sự thông công với Đức Thánh Linh cần phải được tái lập trở lại. Nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra SAU KHI ta ăn năn tội lỗi, tức là dọn dẹp sạch sẽ phố phường mà thôi. Nhớ nha.
Cổng Nước (3: 26): Nước luôn là hình bóng về Lời Đức Chúa Trời. Cần lưu ý là cổng Nước không cần phải xây sửa hay tu bổ nhé. Lời Chúa không bao giờ bị hư hỏng, cũng không cần thêm hay bớt gì cả. Chúng ta chỉ cần tiếp nhận và đi xuyên qua cổng này mà thôi.
Cổng Ngựa (3: 28): Chiếc cổng này là nơi ra, vào của những chiến binh mỗi khi lâm trận. Nó là hình bóng của trận chiến thuộc linh. Là những người lính của Đấng Christ (2 Timothe 2: 3-4), bạn có còn đang đứng trong trận chiến vì cớ Chúa ngày hôm nay không? Nếu câu trả lời của bạn là không, thì cổng Ngựa của bạn cần phải sửa hơi bị nhiều rồi đó.
Cổng Đông (3: 29): Chiếc cổng này nói về sự tái lâm của Đấng Christ (Mathiơ 24: 27). Cổng phía Đông cũng là nơi sự vinh hiển của Chúa đi vào (Ê-xê-chi-ên 43). Bạn có chờ đợi, có trông mong ngày Chúa Giê-xu trở lại không?
Cổng Đông trong lòng một người, một gia đình, một hội thánh bị đổ nát là khi lẽ thật về sự tái lâm của Chúa Giê-xu không thật sự có chỗ trong cá nhân đó, gia đình đó hay hội thánh đó. Biết về lẽ thật đó là một chuyện, còn có sống xứng đáng với việc Chúa Giê-xu sẽ trở lại trong nay mai lại là một chuyện khác. Mà có “chuyện khác” này thì mới thật sự là có cổng Đông đúng nghĩa. Cổng Đông của bạn ô key chớ?
Cổng Phán Xét hay còn gọi là cổng Duyệt Binh, nguyên văn là Mi-phơ-cát (3: 31): Đây là nơi các đạo binh tập họp trước khi vị chỉ huy đến duyệt binh, hoặc được dùng để xử án. Cổng này là hình bóng cho toà Đấng Christ, khi mọi Cơ-đốc nhân hàng ngũ chỉnh tề trong lễ “Tổng Kết Cuộc Chạy Marathon Đường … Đời”. Được thưởng hay chỉ được … cứu mà thôi chính là lúc này đây (1 Cô-rinh-tô 3: 13-15).
Dài quá rồi phải không. Mười cửa kia mà (còn cổng Epraim và cổng Ngục mà trong sách này không nói đến nữa đấy: Đủ số phải là 12 cơ!). Hãy nhanh chóng sửa lại những cổng thành nào bị đổ nát trong đời sống cá nhân của bạn và hãy cầu nguyện để đến lúc gia đình bạn, hội thánh của bạn cùng đứng lên tái thiết lại từng cổng thành như dân Do Thái đã làm dưới quyền lãnh đạo của Nê-hê-mi năm xưa.