Chủ Nhật, 7 tháng 6, 2015

TÂM ĐIỂM TIÊN TRI

Dừng Chân Lần Thứ 21
NHÌN LẠI
Sách Gióp giới thiệu cho chúng ta về QUYỀN CHỦ TỂ của Đức Chúa Trời, còn Thánh Thi thì giúp ta học biết THỜ PHƯỢNG Chúa.
Thánh Thi là sách dài nhất trong Kinh Thánh, và cần phải dành trọn một tháng thì ta mới có thể … bước qua đời ‘hắn’. He he. Thế nhưng, đừng để cho độ dài (hay dày) của ‘hắn’ làm nhụt chí anh hùng của bạn. Hãy xem ‘hắn’ như là bộ hợp tuyển “150 tình ca bất hủ”, mô tả những thuộc tính đa dạng của Đức Chúa Trời, do Đa-vít, A-sáp, Môi-se, Salomon và một số người khác phổ nhạc đang khi họ đồng đi với Chúa.
Ta có thể tìm thấy nơi Thánh Thi đủ loại tâm trạng: phấn khích và chán nãn; vui sướng và buồn khổ; hy vọng tràn lan và căm giận … trào dâng. Những trải nghiệm rất người ẩn sau những vần thơ đã làm cho từng lời của tác giả trở nên gần gũi, sống động với người đọc thuộc mọi thế hệ, mọi vùng miền.
(Đừng bỏ qua những chú thích lúc mở đầu của đại đa số các bài thơ. Những câu chú thích đó không phải là Lời Chúa, nhưng cung cấp cho người đọc những thông tin bổ ích về hoàn cảnh ra đời của Thánh Thi đó). Cũng có thể, bạn sẽ có ước muốn đọc lại những phần mà chúng ta đã đi qua trong sách 2 Samuen và 1 Sử ký, để hiểu thêm về bối cảnh lịch sử của những bài thơ mà Đa-vít đã viết cũng nên.
Thánh Thi còn hơn là một tuyển tập thơ ca. Hãy xem nó như là lá thơ tình của Chúa gởi cho bạn. Chúa muốn bạn học biết Ngài nhiều hơn, và một khi biết Ngài sẽ dẫn bạn đến chỗ yêu Ngài – Đấng chăn giữ, Đấng Hướng dẫn, Đấng Chu cấp, Đấng Bảo vệ và là Vua của chính bạn.
NHÌN LÊN
Thánh Thi còn hơn là một kho báu thi ca và những bài chúc tụng. Nó còn là nơi ẩn chứa của rất nhiều lời tiên tri về Đấng Cứu Thế (Mesia/Christ) trong kinh Cựu Ước.
Hàng trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế ra đời, Đức Chúa Trời đã dùng ngòi bút của những thi sĩ được chọn, báo trước cách chính xác những chi tiết liên quan đến sự giáng sinh, đến đời sống, chức vụ, sự chết và sự sống lại của Đức Giê-xu, người Na-xa-rét.
Khi tiếp tục đọc suốt kinh Cựu Ước, chúng ta sẽ thấy được những lời tiên tri liên quan đến Chúa Cứu Thế ngày càng rõ ràng hơn, cụ thể hơn.
Dưới đây là một phần những lời tiên báo đó, được tìm thấy trong các Thánh Thi mà chúng ta đã đọc xong và việc ứng nghiệm cũng đã được xác chứng trong những sách của kinh Tân Ước.
§  Muôn vật sẽ quy phục dưới chân Ngài                        (8: 6) – (Hê-bơ-rơ 2: 8)
§  Ngài sẽ sống lại từ trong kẻ chết                               (16: 10) – (Mac 16: 6-7)
§  Ngài sẽ bị Đức Chúa Trời lìa bỏ                                 (22: 1) – (Mathiơ 27: 46)
§  Ngài sẽ bị khinh bỉ và chế nhạo                                 (22: 7-8) – (Luca 23: 35)
§  Tay và chân Ngài sẽ bị đâm thủng                             (22: 16) – (Giăng 20: 25, 27)
§  Quân lính sẽ bốc thăm để chia áo choàng của Ngài      (22: 18) – (Mathiơ 27: 35-36)
§  Không một chiếc xương nào của Ngài sẽ bị gãy           (34: 20) – (Giăng 19: 32-36)
§  Ngài sẽ bị thù ghét cách vô cớ                                   (35: 19) – (Giăng 15: 25)
NHÌN TỚI
Hãy tưởng tượng rằng bạn được giao nhiệm vụ phải báo trước về việc ra đời của một em bé sau … 800 năm nữa! Bạn phải báo trước cách chính xác tên của bé, nơi sinh, thời gian sinh, bối cảnh ra đời, nó sẽ sống và phục vụ thế nào, rồi chết ra làm sao và những lời cuối cùng của nó trước lúc chết.
“Tại sao lại phải như thế? Không cách chi làm được!”
Chính xác. Hoàn toàn chính xác. Trừ khi được Đức Chúa Trời bày tỏ cách ‘hai năm rõ mười’, còn bằng không thì không một ai có thể làm được việc này.
Bạn có vui mừng vì được thờ phượng và phục vụ một Đức Chúa Trời, Đấng “đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên” không ? (Esai 46: 10).
Hãy cầu xin Đức Thánh Linh giúp đỡ bạn chia sẻ lại những gì mình đã đã học được từ những lời tiên tri về Chúa Cứu Thế trong sách Thánh Thi cho một người khác trong tuần này, và đem người ấy đến “điểm hẹn tình yêu” để gặp gỡ Ngài cách cá nhân, như bạn đã và đang vui hưởng.
Nào lên đường thôi!


Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

NHẠC KHÚC TUYÊN NGÔN

Thánh Thi 31-35
Năm chương Kinh Thánh hôm nay như một bản nhạc hiệu đầy cung bậc, từ rên rỉ ỉ ôi đến … thôi rồi sung sướng!
Hai Thánh Thi ngoài cùng (31, 35) là lời cầu nguyện tín thác nơi Đức Chúa Trời khi bị … ‘giặc ngoài’ vây phủ, còn hai chương liền kề (32, 34) là lời cầu nguyện xử lý … ‘thù trong’ (tội chưa xưng nhận và nỗi sợ hãi kín giấu) và cuối cùng, đỉnh cao cảm hứng là một thánh thi tuyệt đẹp ngợi khen Thiên Chúa, vì “Kế hoạch của Chúa được vững lập đời đời, Tư tưởng của lòng Ngài còn đời nầy sang đời kia.” (33: 11)
Nếu bạn đang ‘tứ bề thọ địch’ thì 2 bài cầu nguyện của Đa-vít trong Thánh Thi 31 và 35 là khuôn mẫu tuyệt vời để bạn cóp nguyên văn. Phần để … méc với Chúa (31: 1-18), phần để … ‘tăng lực’ cho chính mình (31: 19-24). Riêng Thánh thi 35 thì sẽ vô cùng hiệu quả trong trường hợp bạn bị (hoặc sắp bị) uýnh cách oan ức. Hãy học cách giao đứt đối thủ cho Chúa xử lý.
Muốn cự cãi, muốn uýnh nhau à? Cứ tự nhiên. Đây là vị đại diện toàn quyền của ngộ. Mấy ‘nị’ cứ tha hồ nhé. Chúa ơi, xin ‘chăm sóc’ chúng chu đáo giùm con nha.
Những câu từ trong Thánh Thi 35 mạnh mẽ và đầy tính chiến đấu hơn rất nhiều nếu so với Thánh Thi 31. Những lời cầu nguyện này giống như những cuộc gọi pháo binh yểm trợ trong chiến tranh vậy. MSB tui đã có vài lần phải sử dụng “cuộc gọi yểm trợ” TT35 này, kết hợp với sự kiêng ăn, và kết quả xảy ra cấp kỳ, vô cùng kinh khiếp. Mọi sự liền đổi chiều 180o: kẻ bị uýnh được thoát hiểm trong gang tấc, còn người ‘ra đòn’ thì bổng dưng … ‘đứt bóng’! Không đứt bóng thì cũng xuất huyết dạ dày hoặc bị đơ thần kinh. Thật đấy.
Như đã đề cập trong phần ‘nhạc dạo’ ở trên, thì hai Thánh Thi 32, 34 là kiểu cầu nguyện xưng tội. Điểm đặc biệt trong hai lời cầu nguyện này là nhấn mạnh đến lòng nhân từ của Chúa, Đấng sẵn lòng tha thứ cho những ai bằng lòng công khai xưng nhận sai phạm của mình hơn là nói về tội lỗi cụ thể nào đó.
Theo đánh giá của Chúa, thông qua môi miệng của Đa-vít, thì người mà “lỗi được tha, tội được xóa” bởi Chúa, mới chính là người có phước (32: 1-2). Đây là Cội Phước, hay là Phước của phước. Đây là khởi đầu của mọi mối phúc thật trong đời sống của một người. Chính vì biết rõ như thế nên Đa-vít đã mạnh dạn tuyên bố “Con đã thú tội cùng Chúa, Không giấu gian ác con; Con nói: 'Con sẽ xưng các sự vi phạm con với Đức Giê-hô-va, Và Chúa tha tội cho con.’”  (32: 5)
Trong Thánh Thi 32 còn có câu này cũng … ‘đụng chạm’ lắm nè: “Đừng như con ngựa và con la là vật vô tri. Phải dùng hàm khớp và dây cương mới giữ chúng được. Nếu không, chúng chẳng chịu đến gần con.”  (c. 9). Tự giác nha bà con, chịu khó … lớn giùm nghe. Nhớ rằng mình là chiên, chớ hổng phải ngựa hay la nhé. Đừng để Chúa phải dùng ‘biện pháp mạnh’ mới chịu đi à nha.
Hoặc là “nhiều nỗi đau đớn”, hoặc là “sự nhân từ” của Chúa bao phủ (32: 10), tùy nghi chọn lựa nhé.
Tuy cùng đề cập đến lòng nhân từ của Đức Chúa Trời như Thánh Thi 32, nhưng Thánh Thi 34 lại kêu gọi người ta đáp ứng cách tích cực đối với bản tính nhân từ của Chúa. Không phải vì biết Chúa nhân từ, đầy lòng thương xót, dồi dào sự tha thứ mà ta có thể tiếp tục sống một đời bất kính. Ngược lại, thái độ cần phải có của chúng ta đối với lòng nhân từ của Đức Chúa Trời là “kính sợ Chúa và lánh khỏi điều ác”, kể cả “lời ác” lẫn “việc ác” (34: 12-14)
Cuối cùng, Thánh Thi 33 là lời cầu nguyện thuộc thể loại cảm tạ và ngợi khen. Phần đông chúng ta thường hay hiểu rằng hễ cảm tạ hay cảm ơn thì phải có cụm từ “con tạ ơn Chúa” hay “con cảm ơn Chúa”, còn đụng đến ngợi khen có nghĩa là … hát. Vâng, đúng là có mấy ‘món’ này trong lời cảm tạ và ngợi khen. Tuy nhiên, cảm tạ và ngợi khen Chúa còn nhiều hơn là như thế.
Đầy đủ phải là ri nè: cảm tạ và ngợi khen là HAI trong ba phương cách tiếp cận Đức Chúa Trời của tâm linh con người (cách thứ ba là thờ phượng). Cảm tạ và ngợi khen đem lại cho chúng ta khả năng kết nối với hai phương diện khác nhau của bản tánh Chúa.
Bằng việc cảm tạ tất cả những gì thiện lành và tốt đẹp mà Chúa làm cho mình, chúng ta xưng nhận sự nhân từ của Ngài. Bằng việc ngợi khen, tức là thái độ đáp ứng đúng đắn trước ân sủng lớn lao của Chúa, chúng ta nhận biết sự vĩ đại của Ngài.
Hãy ghi nhớ định nghĩa này và đọc lại một lần nữa Thánh Thi 34 cách chậm rãi để ‘ngấm’ được hết những gì mà Đa-vít đã tuyên rao. Nếu bạn có khả năng hãy phổ nhạc Thánh Thi này, còn nếu không thì hãy dùng nó để ngâm, để ca, để xướng, để họa … tùy thích. Miễn là bạn đừng quên rằng mình đang ‘mượn’ nó để bày tỏ lòng mình trước lòng nhân từ và sự vĩ đại của Chúa Toàn Năng.
“Hỡi những người trung tín, hãy reo mừng trong CHÚA.
Ca ngợi Ngài là điều thích đáng cho người ngay thẳng.
Hãy dùng đàn hạc ca ngợi CHÚA,
Hãy ca tụng Ngài với đàn lia mười dây.
Hãy hát cho Ngài một bài ca mới.
Hãy gẩy đàn dây thật hay với tiếng reo vang (33: 1-3)


Thứ Sáu, 5 tháng 6, 2015

NGỢI KHEN & CẢM TẠ

Thánh Thi 25-30
Việc gia tăng mối quan hệ với Đức Chúa Trời bao gồm cả việc tăng trưởng trong sự hiểu biết về những gì mà Chúa sẽ làm thành trong đời sống của chúng ta một khi ta tin cậy nơi Ngài. Chúa sẽ dẫn dắt ta trên đường lối của Ngài (TT 25), bênh vực ta khi ta bị chèn ép, khi ta bị đối xử cách bất công (TT 26) và bảo vệ chúng ta khi ta trong cơn nguy hiểm (TT 27-28).
Phản ứng của Đa-vít – và cũng chính là phản ứng mà Đức Chúa Trời muốn nhìn thấy nơi mỗi một tín hữu thật – là tuôn đổ lòng mình ra trong sự ngợi khen (TT 29) và cảm tạ (TT 30).
Ngợi khen và cảm tạ là hai thuật ngữ giống nhau hay khác nhau? Thánh Thi 29 và 30 cung cấp cho chúng ta một minh họa hữu ích về sự khác biệt.
Thánh Thi 29 là một bài tụng ca, tập chú vào sự vinh hiển của Đức Chúa Trời, là sự vinh hiển được bày tỏ qua cơn bão tố sấm động rền vang đất trời. Còn Thánh Thi 30 là lời cảm tạ, tập trung nơi kinh nghiệm của Đa-vít về sự giải cứu thiên thượng, cùng lòng biết ơn của ông đối với Đức Chúa Trời.
Thánh Thi 29 minh họa cho sự ngợi khen với Đức Chúa Trời là trung tâm, tập chú nơi vinh quang được bày tỏ của Chúa qua những thuộc tính và công việc đầy quyền uy của Ngài. Còn Thánh Thi 30 minh họa cho sự cảm tạ với việc tập trung nơi con người nhiều hơn, và nhấn mạnh đến thái độ của Đa-vít đối với việc can dự của Đức Chúa Trời trong đời sống của ông.
Việc hiểu được sự khác biệt giữa hai phạm trù này có thể mở ra một chiều kích mới trong đời sống cầu nguyện của chúng ta!
Rất dễ dàng để phát triển thói quen cầu nguyện lấy mình là trung tâm, hay huỵch toẹt là lối cầu nguyện ích kỷ theo mô hình … 3 ngôi: Tôi – của tôi và … cho tôi. Trong đó nan đề CỦA TÔI luôn được nhấn mạnh hết công suất. (Đúng dzậy không hỡ bà con cô bác?)
Dù rằng cầu xin là một phần quan trọng của sự cầu nguyện (Mathiơ 7: 7-8) nhưng nó không phải là phần duy nhất đâu nha.
Khi bạn dành thời giờ cầu nguyện hôm nay, hãy bắt đầu với việc tôn vinh Danh Chúa và những thuộc tính của Ngài thay vì … ‘con đường xưa em đi’ là đề cao nan đề, nhu cầu của chính mình. Nếu khuôn mẫu cầu nguyện của bạn là đề cập đến sự vĩ đại của Chúa trước khi đề cập đến những việc riêng của mình, thì giống như tác giả Thánh thi, bạn sẽ kinh nghiệm được cả hai, vừa ngợi khen vừa cảm tạ Đức Chúa Trời.
Giờ thì chúng ta cùng quay trở lại với Thánh Thi 27: 13 và ghi khắc lời công bố đầy xác quyết của Đa-vít trong giờ thử thách.
Ôi! Nếu tôi không tin chắc rằng sẽ thấy ơn của Đức Giê-hô-va tại đất kẻ sống, thì tôi hẳn đã ngã lòng rồi! … 
Bạn có tin chắc rằng Chúa sẽ đáp lời bạn, làm ơn cho bạn ngay trong đời này không?


Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015

CHÚNG TÔI TIN CẬY NƠI ĐỨC CHÚA TRỜI

Thánh Thi 19-24
Sự liên quan hay dính dáng của Đức Chúa Trời trong đời sống của dân sự Ngài là đề tài bao quát cho 6 chương Thánh Thi mà ta đọc hôm nay.
Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài trong cõi trời và trong cõi … Lời (TT 19); Chúa ban năng lực và chiến thắng cho những ai đang chiến đấu vì cớ Danh Ngài (TT 20-21); Chúa sai Đấng Mê-sia (Cứu Thế) của Ngài đến để chịu khổ nạn trên thập giá (TT 22), để chăn dắt dân Ngài (TT 23) và để thiết lập quyền cai trị của Ngài trên khắp đất (TT 24). Quả thật, Đức Chúa Trời xứng đáng được tin cậy!
Hỏi: Điểm giống nhau giữa … sổ hưu (của đại tá Thanh), bằng tốt nghiệp đại học và … tàu ngầm hạt nhân (hoặc tàu ngầm lớp kilo mới mua của Nga-xô) … là gì?
Trả lời: Tất cả chúng đều được thiết kế để cho người ta cảm giác được an toàn. Tương lai được bảo đảm, công ăn việc làm được bảo đảm và chủ quyền quốc gia được bảo đảm. Thế nhưng, chúng có bảo đảm không?
Bảo vệ, bảo đảm hay bảo đảm an ninh hoặc gọn một từ thành “bảo an” đã trở thành những món hàng được ưa thích, được săn đón trong một thế giới ngày càng biến động như hiện nay.
Gần 3,000 năm trước, khí tài chủ yếu của một đội quân chỉ là ngựa và … xe ngựa, tương tự như ngày nay là vũ khí … ‘hột nhưn’, là tên lửa, là máy bay, là tàu ngầm, tàu sân bay và kể cả … dàn khoan nước sâu kiểu HD-981!
Ngày xưa, nước nào mà mạnh về kỵ binh và chiến xa … ngựa là coi như bất khả chiến bại. Thế nhưng, đối với Y-sơ-ra-ên thì không như thế. Luật pháp Chúa nghiêm cấm vua tậu nhiều ngựa (Phục Truyền 17: 16).
Thay vì đặt lòng tin cậy của mình nơi sức mạnh chiến lược của thời bấy giờ là sức ngựa và sức người (cỡi ngựa) thì Y-sơ-ra-ên đã dựa nương nơi nguồn sức thiêng thượng vĩnh hằng là chính Chúa. Bởi cớ, Chúa đã hứa là sẽ đánh trận vì cớ dân Ngài. Đó là lý do mà lời xưng nhận của Đa-vít về việc tin cậy nơi sự giải cứu của Đức Chúa Trời là hoàn toàn xác đáng.
“Kẻ nầy nhờ cậy xe cộ, kẻ khác nhờ cậy ngựa,
Nhưng chúng tôi nhờ cậy danh Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời chúng tôi” (20: 7)
Đây chính là câu trả lời cho vấn đề an ninh quốc gia, cả trong thời của Đa-vít, đối với nước Y-sơ-ra-ên, và cả trong thời hiện nay, đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung, và Việt Nam chúng ta nói riêng.
Giờ ta hãy cùng thực hành một bài tập nho nhỏ thế này nhé. Lấy một tờ giấy rồi dùng bút chì viết ra 5 điều mà người đời cho rằng sẽ đem lại sự an ninh cho chúng ta. Sau đó, dùng bút mực chép lại Thánh Thi 20: 7 đè lên trên rằng, “Chúng tôi tin cậy nơi Danh của Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của chúng tôi”. Hãy để ‘tác phẩm’ thủ công của mình nơi nào mà bạn có thể dễ dàng nhìn thấy mỗi ngày.
Bạn biết không, trên tờ giấy bạc đô-la của Mỹ có in dòng chữ: “In God We Trust” (Chúng Tôi Tin Cậy Nơi Đức Chúa Trời). Thế còn nơi lòng của bạn thì có dòng chữ nào thể hiện niềm tin của bạn được ghi khắc trên đó không? 


Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

CHẲNG DẠI

Thánh Thi 13-18
Giống như trong thời Đa-vít, đức tin của người tin Chúa hôm nay cũng luôn đối diện với những thách thức. Thách thức từ chính tấm lòng lo sợ của mình (TT 13) và từ những con người phủ nhận sự hiện hữu của Đức Chúa Trời cách dại dột (TT 14).
Đâu là giải pháp cho vấn nạn này?
Bước đi trong mối thông công với Đức Chúa Trời (TT 15), nương cậy nơi những lời hứa của Chúa (TT 16) và kết nối với nguồn sức lực không hề cạn tắt của Ngài (TT 17-18).
Khi đọc Thánh Thi hay Thi Thiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng sách này thuộc thể loại thơ ca. Mà ngôn ngữ của thơ ca không giống như văn kể chuyện. Từ ngữ, hình ảnh, … mà nhà thơ sử dụng thấy dzậy mà chưa chắc phải dzậy đâu nha. Ta không thể hiểu tất tần tật theo nghĩa đen … thùi lùi đâu nhé.
Thế cho nên, đọc thơ nói chung và sách Thánh thi này nói riêng thì không có gì khó khăn cả. Nhưng để hiểu đúng, hiểu … đủ, để thấm được, để cảm được … thơ thì không hề … đang giỡn được. He he.
Chẳng hạn, trong 13: 3 Đa-vít ngâm ri nè: Xin cho mắt con được sáng, kẻo con phải ngủ trong sự chết chăng! Thoạt nghe, cứ như anh í đang bị … đục thủy tinh thể hay là một biến chứng về mắt rất chi là nghiêm trọng, mà nếu Chúa không ra tay ngay là ảnh … ‘đai’ liền chớ chẳng chơi.
Thế nhưng ở đây không có bịnh tật gì ráo trọi. Đa-vít bị kẻ thù … ‘đì’ tới bến. Anh í kêu Chúa tha thiết luôn, nhưng chẳng thấy Chúa động tịnh chi cả. Đang chờ mà, cảm thấy lâu, thấy chậm là chuyện thường. Khi nhận thấy việc gào thảm thiết rằng, “răng Chúa quên con và tránh mặt con cho đến chừng nào” coi bộ không ép-phê, Đa-vít bèn chuyển tông sang “xin Chúa tỏ cho con biết điều Chúa muốn dạy con qua chuyện này”. Rứa thôi.
‘Mắt’ ở đây là ‘con mắt lòng’, như Phao-lô về sau có nói trong Ê-phê-sô 1: 18, chớ không phải mắt thịt hoặc bị biến chửng tiểu đường hay bị giằm xóc vào đâu nha.
Thế thì 13: 3 nên được hiểu thế này: Chúa ơi đừng để con phải chết mà không hiểu được … vì sao con chết nha Chúa. Và đây cũng là một cách nói khác để giục Chúa trả lời, rứa thôi. He he.
Một điểm khác cần lưu ý trong xì-tai cầu nguyện của Đa-vít là luôn có những lời công bố đầy tin quyết về kết cuộc tốt đẹp của mình. Dù trước đó, ngôn từ của ông có thể nãn, có thể buồn … chảy nước luôn, nhưng kiểu gì thì cuối cùng Đa-vít vẫn thốt ra được những lời rất tích cực. Ấy chẳng phải là Đa-vít tự an ủi hay tự động viên mình theo kiểu ‘hết cơn bĩ cực, tới hồi thới lai’ hay ‘ngày mai trời lại sáng’, mà là kết quả của thời giờ riêng tư, đổ lòng mình ra trong sự hiện của Chúa.
Nếu chúng ta đến với Chúa, mang cả những gánh nặng, nan đề, buồn vui của mình trải ra trước mặt Ngài và rồi tập chú nơi chính Chúa, nơi những thuộc tính của Ngài thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ kết thúc lời cầu nguyện của mình với sự tin quyết tương tự như thế.
Một điểm khác nữa, cần ghi nhớ là cách Đa-vít luôn cầu Chúa xử thẳng tay đối với kẻ thù. Đa-vít sống dưới thời Luật Pháp Môi-se, là thời kỳ “mắt đền mắt, răng đền răng” nên lời cầu nguyện như thế là không có gì … trái luật! Còn chúng ta ngày nay thì được dạy là “Hãy thương yêu kẻ thù nghịch và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các con để các con được trở nên con của Cha các con ở trên trời, vì Ngài khiến mặt trời mọc lên chiếu sáng kẻ gian ác lẫn người lương thiện, ban mưa cho người công chính lẫn người bất chính.” (Mathiơ 5: 44-45). Thế cho nên, Chúa đòi hỏi tín hữu thời nay cao hơn rất nhiều so với thời xưa chớ không phải thấp hơn như nhiều người từng hiểu sai đâu nha.
Thánh Thi 14 điểm mặt những người NGU chính hiệu. Đây không phải là mấy anh đoảng cỡ Mit-tơ Bin hay hậu đậu như Nô-bi-ta hoặc ở xứ ta thì có … ‘vợ thằng Đậu’. Ngu được thiên đàng cấp chứng chỉ ở đây không phải là những người ít học, hay … ‘thiếu muối i-ốt’ mà là những người phủ nhấn sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Thế nhưng, tại sao ‘chúng’ từ chối tin nhận Chúa? – Đơn giản là kiêu. Đơn giản là không muốn thừa nhận tội lỗi của mình trước một Đức Chúa Trời thánh khiết.
Nếu ‘chúng’ thừa nhận rằng, Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa, là Cha của muôn loài, trong đó có ‘chúng’ thì sẽ ‘lòi’ ra cái tội … bất hiếu của ‘chúng’ ngay. Thế là, cố sống cố chết mà chối bay chối biến rằng thì là … nỏ có Chúa. Thế nhưng, dù có thừa nhận hay không thừa nhận thì Đức Chúa Trời vẫn hiện hữu, và chính Ngài sẽ xét xử mọi người trên đất tùy theo những việc mà họ đã làm “khi còn trong xác thịt”. Ngày đó chắc chắn đến.
Ác nỗi có ai ngu mà biết được mình ngu đâu, nên cần lắm thay một lời cầu thay của con dân Đức Chúa Trời cho những kẻ tưởng mình khôn nhưng thực sự là quá ngu. Ngu vì không nhận biết Đức Chúa Trời và không thờ phượng Con Ngài là Đức Chúa Giê-xu.
Cuối cùng, hãy đọc lại một lần nữa 5 câu Kinh Thánh trong chương 15 và đặt mình vào đấy để tự đánh giá xem: mình đã đạt chuẩn để ở trong sự hiện diện của Chúa (được nói cách đầy hình tượng ở đây là đền tạm, là núi thánh) chưa?


Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015

NÀO CÙNG NGỢI KHEN CHÚA

Thánh Thi 7-12
Kẻ thù của dân sự Chúa cũng là kẻ thù của chính Chúa. Trong 6 chương Kinh Thánh hôm nay chúng ta đọc thấy gánh nặng của Đa-vít trong việc đáp trả lại những kẻ thù của mình.
Đối diện với hiểm họa từ những kẻ chống đối, Đa-vít tìm kiếm công lý của Đức Chúa Trời (TT 7), sự bảo vệ (TT 9-10) và sự giải cứu (TT 11-12).
Thêm vào đó, qua chương 8, chúng ta cũng sẽ được biết rằng, Đức Chúa Trời – Đấng tạo nên con người để cai quản cõi tạo vật của Ngài, cũng chính là Đấng sẽ khuất phục kẻ thù của Ngài và buộc chúng phải câm miệng.
Có một bài học rất quan trọng về sự ngợi khen được nói đến trong Thánh Thi 8:3 của ngày hôm nay. Ri nè: sự ngợi khen là vũ khí thuộc linh.
Đa-vít nói cùng Đức Chúa Trời: “Từ môi miệng trẻ thơ và trẻ con đương bú, mà lập nên năng lực Ngài. Vì cớ kẻ thù mình, Ngài làm cho kẻ thù nghịch và người báo thù phải im lặng”.
Thế nhưng, trong Tân Ước, ở Phúc Âm Mathiơ 21: 15-16, Chúa Giê-xu đã trích dẫn địa chỉ Kinh Cựu Ước này trong ý nghĩa mới: “các thầy tế lễ cả và các thầy thông giáo thấy sự lạ Ngài đã làm, và nghe con trẻ reo lên trong đền thờ rằng: Hô-sa-na con vua Đa-vít! Thì họ tức giận, và nói với Ngài rằng: Thầy có nghe điều những đứa trẻ nầy nói không? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Có. Vậy chớ các ngươi chưa hề đọc lời nầy: Chúa đã được ngợi khen bởi miệng con trẻ và con đương bú, hay sao?”.
Như vậy, chỗ mà tác giả Thánh Thi nói: “Ngài lập nên năng lực” thì Chúa Giê-xu đọc thành “Ngài lập nên sự ca ngợi”.
Điều đó cho chúng ta thấy rằng, quyền năng của con dân Đức Chúa Trời ở trong sự ngợi khen trọn vẹn. Không quan trọng là chúng ta yếu cỡ nào thì vũ khí thuộc linh ấy vẫn là không gì phá vỡ nỗi.
Tác giả Thánh Thi chọn hai đối tượng yếu ớt nhất: trẻ thơ và trẻ con còn bú mẹ. Thậm chí chúng cũng trở thành vũ khí của quyền năng Đức Chúa Trời một khi chúng ngợi khen Ngài và bởi chính điều đó mà kẻ thù bị buộc phải im tiếng.
Đừng bao giờ quên rằng, có những kẻ thù của Đức Chúa Trời và đặc biệt là có một kẻ được gọi là “kẻ thù nghịch và là kẻ báo thù” – đó chính là Sa-tan.
Chúa buộc Sa-tan và những kẻ thù khác im lặng khi nào? Khi chúng ta ngợi khen Ngài.
Tại sao chúng ta cần ma quỷ phải im tiếng? Bởi vì nó kiện cáo chúng ta cả ngày lẫn đêm.
Có thể, bạn sẽ hỏi Chúa: “Tại sao chính Chúa không bịt mồm ma quỷ lại?” thì Ngài sẽ trả lời: “Bởi vì ta đã ban cho con vũ khí để con có thể làm việc đó rồi”.
Nhớ nha, chúng ta có thể buộc cho ma quỷ phải câm miệng đấy. Quá đã, đúng không? 


Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015

NGUYỆN CẦU BÊN CHA

Thánh Thi 1-6
Được chấp bút bởi ít nhất là 7 thi sĩ, mà Đa-vít là người viết nhiều hơn hết, sách Thi Thiên hay Thánh Thi trải dài suốt 1000 năm lịch sử phong phú của Israen – từ thời Môi-se cho đến tận lúc hồi hương sau 70 năm lưu đày tại Babilon.
Được sử dụng như một quyển thánh ca trong Đền Thờ, các Thánh Thi bày tỏ đủ mọi cung bậc cảm xúc con người, đối với Trời cũng như đối với Đời, lúc thuận thời hay khi nghịch cảnh.
Trấn giữ nơi lối vào của sách Thánh Thi là 2 tuyên bố chủ đạo liên quan đến mặc khải của Đức Chúa Trời về chính Ngài: Có thể nhận biết Chúa qua Lời của Ngài, là Lời đem lại phước hạnh (TT 1), và có thể nhận biết Chúa qua thân vị của Con Ngài, Đấng cai trị trên toàn cõi tạo vật (TT 2).
Tiếp theo, các Thánh Thi còn lại trong phần Kinh Thánh hôm nay đều tập trung vào sự bảo vệ của Đức Chúa Trời đối với tôi tớ Ngài nói riêng, cũng như đối với tất cả những ai đặt lòng tin cậy nơi Ngài nói chung. Họ được Chúa bảo vệ khỏi kẻ thù (TT 3), khỏi sự thất bại (TT 4), khỏi thất vọng (TT 5), khỏi đau đớn (TT 6). Nói cách khác, không một thế lực nào, một hoàn cảnh nào hay điều chi có thể chiếm hay thay đổi quyền kiểm soát của Chúa trên đời sống của con dân Ngài.
Thánh Thi thứ nhất chứa trong nó bí quyết của một đời sống phước hạnh. Chân lý này đã từng được tỏ bày trong Giô-suê 1: 8 Quyển sách luật pháp nầy chớ xa miệng con, hãy suy ngẫm ngày và đêm, để cẩn thận làm theo mọi điều đã chép trong đó. Vì như thế, con mới được thịnh vượng trong con đường mình và mới thành công. Tuy nhiên, ở đây nó được giải thích chi tiết hơn qua việc sử dụng 2 hình ảnh tương phản: người lành, kẻ ác. “Kẻ ác – tội nhân – kẻ nhạo báng” tuy ba nhưng chỉ là một mà thôi. Đó là những nicknames mà Kinh Thánh dùng để gọi những người không tin thờ Chúa, tức dân ngoại đấy nha.
Theo đó, một người muốn được phước đúng nghĩa thì trước hết là phải “không đi, không đứng, không ngồi”, tức không hành xử theo xì-tai (style) của người đời. Nôm na là không sống theo kiểu của Đời. Nhưng chỉ chừng đó thôi thì chưa có phước mô. (Không ít những vị chân tu của các tôn giáo khác cũng có đời sống rất đạo hạnh đấy thôi). Muốn hưởng phước thật thì ngoài việc từ khước xì-tai của Đời, người ấy cần phải thuận theo xì-tai của Trời nữa kia.
Mà làm sao biết được xì-tai của Trời? – Mở Kinh Thánh ra. Có đủ trong ấy đấy.
Để có thể thuận theo xì-tai của Trời thì phải nghiền ngẫm Lời Chúa mới được. Mà để nghiền ngẫm hay suy gẫm hoặc nói cách đầy hình ảnh là tơ tưởng được Lời Chúa thì phải thích thú, phải ham muốn Lời Chúa. Mà để vui thích, ham mến Lời Chúa thì cần phải loại bỏ khỏi đời sống mình xì-tai của Đời hay nói như sứ đồ Phê-rơ là mọi điều độc ác, mọi điều gian giảo, mọi thứ giả trá, lòng ghen ghét và sự nói hành  (1 Phê-rơ 2: 1)
Nếu tuân thủ đúng quy trình như thế thì kết quả sẽ là: Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước, Sinh bông trái đúng mùa đúng tiết, Lá nó cũng chẳng tàn héo. Mọi việc người làm đều sẽ thịnh vượng (1: 3).
Trong chương 2 có đề cập đến chuyện Đức Chúa Trời cười. Không phải cười vui mà là cười nhạo mấy tay lãnh đạo thế gian đang hiệp nhau chống Chúa.
Cười được gọi là một cảm giác rất chi là sảng khoái đối với tất cả mọi người trong chúng ta, ngoại trừ trường hợp ta bị người ta cười chê. Loại cười này thường mang lại đau hơn là … sướng; nhức hơn là … phê. Trước cảnh một liên minh quốc tế bao gồm lãnh đạo nhiều nước đang phùng mang, trợn má, hùng hổ giơ nắm đấm lên trước mặt Chúa; to mồm đòi lật đổ quyền tể trị của Chúa theo kiểu “không có chúa chiếc gì ráo trọi. Tao là Chúa nè” thì Đức Chúa Trời phản ứng làm răng? – Chúa cười ha hả, cười rúng động trời đất luôn.
Không cười sao được khi những con người bằng xương bằng thịt lại hùng hổ hiệp nhau đi phủ nhận quyền chủ tể của Đấng tạo nên mình. Điều này cũng tương tự như một người cứ khăng khăng rằng mình tự nhiên từ dưới lỗ nẻ chui ra chớ chẳng do cha do mẹ nào sinh ra cả. Đúng là dại dột và bất hiếu thôi rồi. Trong cái nhìn của Chúa thì một người không hạ mình nhận biết sự vĩ đại của Ngài, tức là không thờ phượng Ngài thì không còn cái dại nào hơn.
Hãy nhìn vào trong lịch sử nhân loại để kiểm chứng xem có cá nhân nào, gia đình nào, dòng họ nào, tập thể nào, dân tộc nào, thể chế nào chống lại Chúa hay phủ nhận sự hiện diện và quyền tể trị của Đức Chúa Trời mà có kết cuộc tươi sáng không? Rồi hãy xét xem có cá nhân nào, gia đình nào, dòng họ nào, tập thể nào, dân tộc nào, thể chế nào yêu kính Chúa và đầu phục quyền tể trị của Đức Chúa Trời mà có kết cuộc đen tối không? Không phải ngẫu nhiên mà trong 7 nước công nghiệp hàng đầu (Group of Seven) – Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Canada, Ý và Nhật – hay còn gọi nôm na là 7 nước giàu nhất thế giới, thì có đến 6 nước thuộc Đạo Chúa rồi.
“Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”, tức là thuận với Chúa thì còn mà nghịch lại với Chúa thì … tiêu. Người xưa đã phát biểu rứa đo. Tiếc thay, bao nhiêu người ngày nay vẫn cứ hoặc công khai hoặc âm thầm từ chối quyền chủ tể của Đức Chúa Trời trên đời sống của mình. Dù họ là vua, là quan trên ngôi chín bệ hay là dân đen cùng khổ thì Chúa cũng đang cười vào sự ngu dại của họ. Và án phạt đã sẵn dành cho họ rồi. Đó là sẽ bị Chúa quở trách, cùng hứng chịu cơn thịnh nộ của Ngài và sẽ bị hủy diệt cách … nát bét như một chiếc bình gốm vỡ (2: 5, 9, 12).
Điều cuối cùng trong phần bình lựng của ngày hôm nay là các Thánh Thi không chỉ dùng để … hát, mà còn được sử dụng để … khóc. Thật đấy. Khóc có bài bản nha. Khóc với Chúa chớ không phải với con người đâu. Nếu anh chị em thuộc típ Cơ-đốc nhân “chưa biết nói gì với Chúa khi cầu nguyện” thì phần lớn các Thánh Thi sẽ là những bài … “cầu nguyện mẫu” tuyệt vời đấy.
Khi đọc Thánh Thi hãy lưu ý đến những câu nói về Chúa là ai, Ngài là Đấng như thế nào và đâu là những việc mà Chúa làm. Chẳng hạn: Ngài là cái khiên chở che con; Ngài là vinh quang của con và là Đấng làm cho con ngẩng đầu lên. (3: 3); tôi sẽ nằm và ngủ bình an; Vì chỉ một mình Ngài làm cho tôi được ở yên ổn (4: 8); Ngài sẽ ban phước cho người công chính (5: 12); …
Nếu chịu khó ghi chép lại những điều này vào một cuốn sổ và thường xuyên sử dụng mỗi khi cầu nguyện thì chẳng mấy chốc vốn từ cầu nguyện của bạn sẽ hơi bị dư dật đấy.
Chần chờ gì nữa, mần ngay đi thôi!