Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015

NHÌN THẤU TƯƠNG LAI

Đanien 7-9
Trong ba chương Kinh Thánh hôm nay, Đa-ni-ên đã được tỏ cho biết lịch sử của loài người từ thời điểm ông đang sống, khi Nê-bu-cát-nết-xa đang cai trị, cho đến lúc chung kết đời, khi Vương quốc của Chúa được thiết lập trên đất.
Khác với giấc mơ về pho tượng người mà vua Nê-bu-cát-nết-xa đã thấy trong chương 2, các giấc mơ và sự hiện thấy của Đa-ni-ên trong phần Kinh Thánh hôm nay, toàn thú là thú, mà là quái thú mới kinh chớ. Thế nhưng, dù là thú hay người thì cũng cùng nói về 4 siêu cường lần lượt xuất hiện trên thế giới mà thôi.
Pho tượng là dáng vẻ bề ngoài, là cái nhìn của con người đối với những đế quốc này. Còn 4 quái thú là bản chất thật của 4 vương quốc, và cũng là cái nhìn của Chúa về những chính thể đó.
Thế cho nên, nếu có ai đó nghĩ rằng sẽ có một ngày, một chính thể nào đấy, sẽ ủng hộ đạo Chúa hết lòng thì người ấy thật chưa thấu được bản chất thật của các thể chế chính trị rồi.
Không riêng gì đạo Chúa, mà đạo nào cũng vậy, dù là Hồi, là Ấn, hay Phật giáo, thậm chí khi được xem là quốc giáo đi nữa thì anh nào cũng bị lợi dụng mà thôi. Rất nhiều anh bị lợi dụng tha thiết những lại tưởng rằng mình được trọng dụng, tưởng rằng mình được ủng hộ mới đau chớ.
Hãy nhìn vào những quái thú – bản chất của những thể chế chính trị – từ thời Đa-ni-ên cho đến kỳ chung kết đời mà tỉnh ngộ nha bà con.
Theo sự giải mật của Chúa thì 3 vương quốc đầu tiên lần lượt sẽ là Babilon, Mê-đô Ba-tư và Hy Lạp. Còn nếu căn cứ theo lịch sử thì quái thú thứ 4 chính là đế quốc La Mã.
Thế nhưng, cho đến tận bây giờ các nhà giải kinh vẫn còn rất … tù mù về hình ảnh: “mười sừng rụng ba, rồi từ ba ra một” của nó. Tù mù vì không biết được rằng, “mười sừng” là một liên minh gồm 10 quốc gia, kiểu liên minh châu Âu (EU) như hiện nay, hay từ trên ‘cái nền’ của đế quốc La Mã xưa sẽ lần lượt xuất hiện 10 cường quốc, và cường quốc sau cùng, tức “chiếc sừng nhỏ, có mắt, có miệng” sẽ là cường quốc do Anti-Christ, tức kẻ chống Chúa cai trị chăng. Chịu.
Khi Liên minh Châu Âu được thành lập vào năm 1951 với 6 thành viên, người ta đã vội cho rằng “phiên bản cuối cùng” của quái thú thứ 4 đã xuất hiện, nhất là vào năm 1981 khi số thành viên của EU đạt đến con số 10. Thế nhưng, từ đó đến nay, chẳng thấy ‘sừng’ nào rụng đã đành, lại còn thấy mọc thêm, không phải 1 mà là những đến … 18 em nữa, nâng tổng số ‘sừng’ thành 28! Đó là chưa kể còn hơn 10 em khác đang sắp hàng chờ dài cổ để được ‘mọc’ đấy. Thế là, hỏng bét, đành phải chờ đợi thêm ít lâu nữa thôi. He he.
Nếu biết rằng, từ thời Đa-ni-ên đến ngày chung kết đời chỉ có 4 siêu cường được hiện diện trên đất, thì mới hay bao nhiêu mưu mô, toan tính, tội ác để tranh ngôi bá chủ thế giới của bao lãnh tụ, bao quốc gia thật chỉ là công cốc, là dã tràng xe cát mà thôi.
Còn nữa, mọi cường quốc trên đất này cũng phải đến hồi kết thúc. Vương quốc của Đức Chúa Trời sẽ được thiết lập để thay thế cho tất cả các vương quốc ấy. Đó chính là “hòn đá chẳng phải bởi bàn tay loài người đục ra” đã được nói đến trong chương 2.
Khá nhớ rằng, khi Đa-ni-ên nhận được những mặc khải này thì hạn định 70 năm lưu đày của dân Giu-đa tại Babilon chưa mãn. Do đó, sứ điệp này trước hết là dành để yên ủi họ, những người Do Thái đang chịu hình khổ bởi con quái thú thứ 1: đế quốc Babilon.
Qua sứ điệp tiên tri này, Chúa muốn cho dân sót của Ngài biết được rằng, sự cuối cùng thuộc về Chúa. Chính Chúa, Đức Chúa Trời của tổ tiên họ, chớ không phải các vị vua ngoại quốc, mới là Đấng nắm giữ tương lai của họ. Chúa không chỉ nắm giữ tương lai của họ, mà còn nắm giữ tương lai của mọi vương triều, mọi thể chế của mọi quốc gia thuộc mọi thời đại.
Trong chương 9, vì thời lượng và mục tiêu của Bộ Hành Xuyên Kinh Thánh … không cho phép, nên việc đi sâu vào giải luận lời tiên tri nổi tiếng về 70 tuần lễ, liên quan đến chức vụ của Chúa Cứu Thế và kỳ sau rốt (9: 24-27) là không thể. Do đó, anh chị em nào muốn học biết sâu hơn nên tìm đọc thêm các tư liệu giải kinh, bình giảng riêng về đề tài này.
Điều duy nhất mà chúng ta sẽ ‘ngâm kíu’ trong chương này là gương mẫu cầu thay của Đa-ni-ên. Cầu xin Chúa làm thành điều Chúa đã hứa (9: 1-19)
Trước hết, hãy lưu ý rằng, khi cầu thay, Đa-ni-ên đã đồng hóa chính mình với dân tộc mình. Ông đã đứng vào chỗ của dân tộc mình mà xưng tội với Chúa, như thể chính ông là người phạm tội vậy. Không phải “xin tha tội cho họ” mà là “xin tha tội cho chúng con”. Cầu thay là như rứa đấy.
Nhưng nếu Chúa đã hứa là tròn 70 năm sẽ xong án thì tại sao lại cần phải cầu nguyện? Nếu đã muốn thì cần gì phải xin, còn nếu Chúa đã không muốn thì xin để làm gì? Không lẽ, cầu nguyện lại có thể thay đổi được ý muốn của Chúa sao?
Câu trả lời là ri: Khi Đức Chúa Trời muốn có một kết quả nào đấy (trong trường hợp này là sự hồi hương) thì Ngài cũng định ra phương tiện (lời cầu nguyện) để đạt được hay hiện thực hóa điều đó. Như vậy, lời cầu xin của chúng ta không thay đổi điều mà Đức Chúa Trời đã định thực hiện. Nhưng nó được mặc định là phương tiện mà qua đó, Chúa làm trọn mục đích của Ngài. Đó là lý do mà Chúa bảo: “hãy xin (hẳn nhiên là xin theo ý Chúa nha) – thì được”.
Có rất nhiều lời hứa của Chúa dành cho người tin thờ Chúa được ghi lại trong Kinh Thánh. Những lời hứa này không tự động xảy ra với bạn đâu. Hãy theo gương Đa-ni-ên mà ‘chiếm hữu’ lấy những điều đấy cho riêng mình qua sự cầu nguyện.
Bạn đã sẵn sàng chưa?


Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2015

THẬT KHÁC GÌ MƠ

Đanien 4-6 
Ba chương Kinh Thánh hôm nay thuật lại ba câu chuyện … sốc toàn tập luôn. Chuyện nào cũng sởn gai ốc, nổi da gà cả. Chuyện nào cũng thuộc tip “đùng một phát” cả. Đùng một phát: người thành thú, rồi lại đùng một phát: thú lại thành người; Đùng một phát: vua đang nhậu chuyển sang … từ trần; Đùng một phát, rồi lại đùng một phát.
Chương 4, là “chuyện đời tự kể” của đại đế Nê-bu-cát-nết-xa sau 7 năm được trở lại làm người. Ở Việt nam ta cũng có câu chuyện na ná vậy khi vua Lý Thần Tông (1116-1138) bổng dưng hóa hổ. Không rõ là vị vua thời Lý ngày xưa có phải vì quá … ‘kao nghiệu’ hay không mà bổng dưng thành thú, chớ còn vị đại đế của Babilon thì kiêu ngạo thuộc mức ngoại hạng, có lẽ đã lên đến bậc thượng thừa rồi.
Cỡ đại đế Nê-bu-cát-nết-xa uy danh lừng lẫy là thế, quyền uy trên muôn người trùm khắp thế giới là thế mà Chúa đập cho một phát còn biến đổi … giới tính ngay, huống chi là mấy phường tép riêu, nhãi nhép … từ cỡ ông ấy trở xuống nhễ? Ấy thế mà, trong khắp thiên hạ gần xa, không biết bao nhiêu nguyên thủ quốc gia, bao bậc anh tài hão hớn, tuy thông làu kim cổ đông tây nhưng lại không chịu thuộc bài học vỡ lòng … xưa như trái đất: “Sự kiêu ngạo đi trước, sự bại hoại theo sau, Và tánh tự cao đi trước sự sa ngã” (Châm Ngôn 16: 18).
Hãy để ý điều này: Chúa cảnh báo vua trước qua giấc mơ. Tiếp theo, tôi tớ Chúa là Đa-ni-ên được sai đến để giải nghĩa sứ điệp và đưa ra “bài học áp dụng”: “Hãy lấy sự công bình mà chuộc tội lỗi, hãy thương xót những kẻ nghèo khó để chuộc những điều gian ác mình. Như vậy sự bình an vua còn có thể lâu dài hơn nữa.” (4: 27). Song có lẽ, vị vua này không quan tâm đến lời cảnh báo này từ Chúa nên 12 tháng sau, người đột ngột chuyển sang làm … thú trọn 7 năm trường!
Chúa luôn cảnh báo phạm nhân, mong phạm nhân hồi tâm tỉnh trí, quay đầu là bờ. Nhưng một khi phạm nhân bỏ ngoài tai mọi lời cảnh báo, cứ một mực “con đường xưa em đi” thì án phạt đã định chắc chắn sẽ được thi hành. Dù đó là nguyên thủ của cường quốc số 1 thế giới lúc bấy giờ hay là tuyển dân của Chúa cũng vậy.
Thế thì khi Chúa còn cảnh báo, hỡi anh chị em hãy ngay lập tức mà ăn năn, ngay lập tức quay trở lại để còn được hưởng sự khoan hồng.
Sau 7 năm sống đời cầm thú, Nê-bu-cát-nết-xa đã được trở lại làm người, được phục hồi địa vị. Thế nhưng điều quan trọng hơn hết đối với vị vua này, sau khi chịu kỷ luật, là được thay đổi hoàn toàn về nhận thức đối với Đức Chúa Trời của Đa-ni-ên, tức là Đức Chúa Trời mà chúng ta thờ phượng ngày hôm nay.
Trong 2 chương trước đó, vị vua này chỉ nhìn nhận rằng Đức Chúa Trời là quyền năng và lịnh cho muôn dân trăm họ không được xúc phạm đến Chúa. Thế nhưng đến chương 4 này thì đích thân nhà vua đã công khai tôn tụng, chúc tán, và thờ phượng Chúa. Đó là mục đích chính yếu của việc thi hành kỷ luật.
Và có lẽ, cũng chính nhờ vào thái độ ăn năn phục thiện đang khi bị đòn của vị vua vốn đại kiêu, đại ác này mà Chúa còn dành cho ông con đường sống, rồi trở thành nhân chứng cho Chúa. Kết cuộc của Nê-bu-cát-nết-xa có hậu chớ không … đoản hậu như ông vua cháu là Bên-xát-xa sau này.
Kiêu thì cả hai ông cháu đều kiêu cả, nhưng ông vua cháu lại thêm cái món cương … không đúng chỗ. Thành thử ra, bữa tiệc chiêu đãi dành cho cả nghìn quan viên đại thần và các mệnh phụ phu nhân triều đình đã trở nên bữa tiệc chia tay đối với người này, và là bữa cơm tử tù đối với người kia.
Chúng ta học được điều gì qua hai câu chuyện này? Trước hết, đó là Chúa nắm trong tay sinh mạng của tất cả mọi người, kể cả những người quyền cao chức trọng, hay những nguyên thủ quốc gia, dù người ấy có tin thờ Chúa hay không. Xuống lên, lên xuống không mấy hồi đâu nha.
Tiếp theo, Chúa nghe tất cả mọi lời chúng ta nói, thấy hết mọi điều chúng ta làm, dù công khai hay kín dấu, và Ngài sẽ theo đó mà xét xử phân minh. Nhanh hay chậm, nặng hay nhẹ, … thì có thể khác nhau, nhưng án phạt sẽ là chắc chắn, không thể tránh khỏi, trừ phi phạm nhân nghe lời cảnh báo mà hạ lòng ăn năn.
Câu chuyện cuối cùng, xảy ra vào một đời vua khác, ở một chính thể khác, nhưng nhân vật chính vẫn là Đa-ni-ên. Lúc này, Đa-ni-ên chắc chắn là đã già lắm rồi. Già nhưng không có nghĩa là đức tin sẽ không bị thử thách. Mà nếu một đời sống không còn thử thách, thì đức tin nếu có cũng chẳng để mần chi, đúng không?
Phép lạ lớn nhất trong câu chuyện cuối này không nằm ở chỗ bầy sư tử không ăn thịt được Đa-ni-ên, dù chúng thèm chảy dãi. Phép lạ lớn nhất ở đây, là Đa-ni-ên có thể ngủ ngon lành trong hang sư tử trọn cả đêm! Thế mới hay, người đặt lòng tin vững vàng nơi Chúa thì luôn có sự bình an thiên thượng tràn ngập trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi chốn.
Sự thử thách đức tin của người tin thờ Chúa, không chỉ là bài tập “rèn luyện thể hình” thuộc linh cho người ấy, mà còn là lời chứng sống về Chúa mà ta đang thờ phượng, cho những người ngoại đạo ở xung quanh. “Lò lửa hực” của ba chàng tuổi teen là phương tiện để cho Nê-bu-cát-nết-xa nhìn thấy Chúa, còn “hang sư tử” nơi Đa-ni-ên qua đêm là cách mà Đức Chúa Trời chọn để tỏ cho Đa-ri-út nhận biết chính Ngài.
Thế thì, “Hỡi kẻ rất yêu dấu, khi anh em bị trong lò lửa thử thách, chớ lấy làm lạ như mình gặp một việc khác thường. … Nhưng nếu có ai vì làm tín đồ Đấng Christ mà chịu khổ, thì đừng hổ thẹn; thà hãy vì danh ấy ngợi khen Đức Chúa Trời là hơn. Vì thời kỳ đã đến, là khi sự phán xét sẽ khởi từ nhà Đức Chúa Trời; vả, nếu khởi từ chúng ta, thì sự cuối cùng của những kẻ chẳng vâng theo Tin lành Đức Chúa Trời sẽ ra thế nào?” (1 Phê-rơ 4: 12, 16-17)


Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015

TRÔNG & ĐỢI

Dừng Chân Lần Thứ 32 
NHÌN LẠI
Tuần rồi chúng ta đã chứng kiến cảnh Giu-đa nhận được trọn gói những gì mà tiên tri Ê-xê-chi-ên đã cảnh báo. Như một người lính canh cần mẫn, Ê-xê-chi-ên bảo vệ nhà Y-sơ-ra-ên bằng những lời cảnh báo về sự phán xét hầu đến. Ông rao báo, rao báo không ngừng nghỉ, nhưng không một lời nào của ông được người ta lắng nghe. Rồi cuối cùng, điều gì đến đã đến, vì “Thành đã bị thất thủ rồi!” (33: 21).
Thật ra thì dân sự Chúa muốn nghe lời Chúa, chỉ có điều họ không chịu áp dụng những gì đã nghe vào trong đời sống thực tiễn của mình mà thôi. Họ thuộc típ: “học không đi đôi với hành”.
Do đó, một khi biết được điều gì nên làm thì chúng ta cần phải chuyển thành hành động cụ thể ngay, tức là thực hiện những gì mà mình đã biết.
Giống như chiên không có người chăn, như những chiếc xương chết khô, rời rạc, cả một dân tộc nằm dưới sự cướp bóc và tàn phá cách không thương tiếc bởi các nước láng giềng ngoại giáo. Thế nhưng kể cả trong lúc dân sự Chúa thất bại, thì mục đích của Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục tỏa sáng, vì Ngài muốn cho mọi dân, mọi nước nhận biết rằng, chỉ mỗi mình Ngài – Giê-hô-va Đức Chúa Trời – là CHÚA mà thôi. Ngoài Giê-hô-va Đức Chúa Trời ra thì không có một CHÚA nào khác.
Sách tiên tri Ê-xê-chi-ên kết thúc với hình ảnh vinh quang CHÚA trở lại Đền Thờ. Điều đó minh chứng rằng, Đức Chúa Trời vẫn tiếp tục công việc của Ngài đối với dân sự Ngài và Đền Thờ của họ.
Trong khi đó, Đa-ni-ên rơi vào cảnh tương phản hoàn toàn. Bị dứt khỏi thành phố yêu thương Giê-ru-sa-lem, Đa-ni-ên bị buộc phải bắt đầu “chương trình nội trú” ba năm tại học đường Babilon. Trong việc ăn uống và giải mộng của mình, Đa-ni-ên đã chứng tỏ cho những kẻ giam giữ mình biết rằng “có một Đức Chúa Trời ở trên trời” (2: 28), là Đấng giải bày những điều huyền nhiệm của thế giới này và là Đấng bảo vệ dân lưu đày của Ngài nơi đất khách quê người.
NHÌN LÊN
Cuộc sống được miêu tả như là “một tuyển tập những cuộc khủng hoảng, được liên kết cách khéo léo bởi những vụn vặt đời thường mỗi một ngày”. Những mảnh vụn đời thường tại Giê-ru-sa-lem vào lúc thiếu thời, đã mở lối cho đức tin của Đa-ni-ên vượt qua mọi cơn khủng hoảng nơi hải ngoại.
Bị bắt như là một tù binh chiến tranh, Đa-ni-ên ngay sau đó phải đối diện với hàng loạt sự chọn lựa:
“Có nên ăn những thức ăn mà họ dọn cho mình không ta?”, “Có nên chấp nhận tên mà họ đặt cho mình không?”, “Có nên kể công về những lần giải mộng cho vua không?”, “Có nên quỳ lạy tượng vàng không? Nếu không là chết chắc à”
Bố mẹ của Đa-ni-ên có thể không biết trước được những nguy hiểm mà con trai mình sẽ phải đối diện tại Babilon, nhưng họ sẽ rất tự hào vì cách vận dụng đức tin đầy khôn ngoan vào trong thực tiễn cuộc sống mỗi ngày của cậu ấy.
Cho nên chẳng có gì lạ khi danh phận của Đa-ni-ên ngày một thăng tiến. Không còn là một thiếu niên nhập cư, Đa-ni-ên đã lớn lên, và trở thành một người nam của Đức Chúa Trời, người mà sự khôn ngoan và tài xử lý giờ đã nên truyền thuyết.
NHÌN TỚI
Dù Đa-ni-ên không hề giảng một bài nào nhưng những gì ông làm trong cuộc đời của mình đúng là những bài giảng sống. Đó là sự chọn lựa mà ông đã làm; là sự khôn ngoan mà ông đã thể hiện; là sự ưu tiên một cho sự cầu nguyện với Chúa, bất chấp mọi nguy hiểm đến tính mạng; và là sự mẫn cán đối với mỗi nhiệm vụ được giao phó.
“Dám là một Đa-ni-ên” không chỉ là tựa đề của một bài thánh ca. Đó là thách thức vô tận đối với mỗi thế hệ mới trong việc trở nên “những tác nhân thay đổi” của Đức Chúa Trời tại bất cứ nơi nào mà Ngài sai phái họ đến. Có thể chưa và không bao giờ bạn nhìn thấy được bên trong của cung vua (hoặc trong … hang sư tử), nhưng bạn có thể chắc chắn là cuộc đời mình sẽ luôn đầy dẫy sự phấn khích và thách thức.
Bằng thói quen ăn uống … ‘đúng chuẩn’ của mình, Đa-ni-ên đã minh chứng rằng, thân thể của ông là đền thờ của Đức Chúa Trời. Thân thể của bạn chỉ là một phương tiện mà Đức Chúa Trời ban cho để thực hiện ý muốn của Ngài ở mặt bên này của thiên đàng mà thôi.
Thế thì, bạn có thật sự chăm sóc tốt thân thể của mình như đáng phải có không? Tức là bạn có ăn uống đủ dinh dưỡng, có nghỉ ngơi đúng mực, có thường xuyên luyện tập thể dục và tránh xa những chất gây hại không? Nếu không, thì hãy suy gẫm về tấm gương của Đa-ni-ên cách cẩn thận và rồi hãy “dám là một Đa-ni-ên”!


Thứ Năm, 27 tháng 8, 2015

LÒ LUYỆN SIÊU NHÂN

Đanien 1-3 
Tạm biệt Ê-xê-chi-ên, với những lời tiên tri trĩu nặng tình dân tộc, nay chúng ta cùng bắt đầu gặp gỡ  tiên tri Đa-ni-ên, một vị tiên tri thuộc hàng quý tộc, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Cùng cảnh lưu vong nơi đất khách quê người như nhau, nhưng tiên tri Ê-xê-chi-ên thì sống và phục vụ giữa thành phần lao động bình dân, còn Đa-ni-ên thì sống và phục vụ trên chót vót đỉnh cao danh phận. Sứ điệp tiên tri của Ê-xê-chi-ên phần lớn là dành cho dân sự Chúa, còn sứ điệp của tiên tri Đa-ni-ên mang tầm quốc tế, chính xác hơn là liên quan đến hậu thế, đến cả dòng lịch sử của loài người.
Trong Kinh Thánh có hai sách được Đức Chúa Trời ban cho con loài người chúng ta để biết được chương trình của Ngài trong lịch sử. Đó là sách Đa-ni-ên và sách Khải Huyền. Đây là hai sách trong Kinh Thánh mà những lời tiên báo trong đó chưa được ứng nghiệm hoàn toàn. Sách Khải Huyền giải thích cho sách Đa-ni-ên, còn sách Đa-ni-ên thì đặt nền tảng để hiểu sách Khải Huyền. Do đó, để biết được chương trình của Đức Chúa Trời dành cho tương lai, thì trước hết, chúng ta cần phải hiểu được sách Đa-ni-ên.
Thế nhưng, Chúa lại sử dụng 2 ‘chốt chặn’ trong những mặc khải của Ngài về tương lai. Rõ ràng là có chủ ý rồi. Chốt thứ nhất, là các sứ điệp tiên tri luôn được ‘bọc’ trong dạng ngôn ngữ biểu tượng. Còn chốt thứ hai nằm ở chỗ Chúa muốn chúng ta hiểu được những phẩm chất đạo đức mà Ngài đòi hỏi nơi chúng ta trước khi kế hoạch mang tính tiên tri này bắt đầu trở nên có ý nghĩa.
Sáu chương đầu tiên của sách tiên tri này rất nên được nghiền ngẫm và thậm chí là nên ‘gối đầu giường’ đối với những con cái Chúa đang làm việc trong các cơ quan công quyền mà người lãnh đạo và phần lớn đồng nghiệp là những người không tin thờ Chúa.
Phần Kinh Thánh này cũng đặc biệt đáng đọc đối với các bạn Cơ-đốc nhân tuổi teen. Ấy là vì những nhân vật được mô tả trong đó cũng tuổi teen như rứa, sống trong một môi trường đầy cám dỗ, không có gia đình hay cha mẹ nào kiểm soát cả, nhưng họ vẫn vững vàng đức tin nơi Chúa, “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Gọn một lời: trong bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào nếu MUỐN thì người tin Chúa vẫn có thể sống một đời tin kính, vẫn giữ vững đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời.
Còn làm răng mà sống được như thế thì giờ ta đi vào cụ thể nhé.
Chương 1, giới thiệu 4 gương mặt trẻ dòng dõi quý tộc Giu-đa là Đa-ni-ên, Ha-na-nia, Mi-sa-ên và A-xa-ria. Họ được chọn là những “hạt giống đỏ” trong chính phủ của cường quốc số một thế giới thời bấy giờ.
Vị vua của chính phủ ngoại giáo này có một kế hoạch rất căn cơ nhằm biến những chàng trai trẻ này thành người Babilon hoàn toàn. Bước một: đổi thành tên … Tây (Á). He he. Tiếp theo, tập ăn những món ăn … Tây. Ác nỗi là những món mà họ được ‘mời’, tức những món khoái khẩu của người Babilon, lại là những món mà Chúa truyền bảo con dân Chúa không được ăn.
Vậy, những thanh niên này đã ‘kiêng’ những món đó như thế nào?
Không cương đâu nha. Họ rất khôn ngoan, biết thân biết phận. Không phải khôn ngoan hay biết thân biết phận theo kiểu thỏa hiệp mà là rất nhẹ nhàng đến cầu xin ân huệ nơi lãnh đạo trực tiếp của mình là ‘sếp’ Ham-mên-xa. Để ý là họ không làm khó Ham-mên-xa vì niềm tin của mình nơi Chúa. Đó là cách xử lý tình huống cực khéo mà mỗi một chúng ta cần phải học. Vẫn có thể đẹp lòng Chúa, đẹp lòng người ta mà không bao giờ thỏa hiệp. Nhớ nha.
Chính niềm tin sắt đá, kiên định của những người trai trẻ này đã bảo vệ họ khỏi mọi sự tàn phá, hủy hoại bởi những kiến thức ngoại giáo mà họ phải học trên ghế nhà trường hoàng cung mỗi ngày.
Thế nhưng, đỉnh điểm của sự thử luyện là khi “ba chàng ngự lâm pháo thủ” của chúng ta được yêu cầu phải quỳ lạy trước tượng vàng mà vua vừa dựng lên giữa muôn trùng cán bộ chính quyền các cấp trong toàn đế quốc.
Đây là lúc mà nguyên tắc sống: “người ta sao mình vậy” lên tiếng mạnh mẽ chưa từng có. Thế nhưng, trước sau như một ba chàng tuổi teen này vẫn một mực bảo lưu quan điểm:
“Tâu vua Nê-bu-cát-nết-sa, chúng tôi không cần trình lại với vua vấn đề nầy. Nếu chúng tôi bị ném vào lò lửa, thì thưa đức vua, Đức Chúa Trời mà chúng tôi thờ phượng có thể cứu chúng tôi thoát khỏi lò lửa hực và khỏi tay vua. Còn nếu Ngài không cứu, thì xin đức vua biết cho rằng chúng tôi cũng không phục vụ các thần của vua và không thờ lạy pho tượng vàng mà vua đã dựng” (3: 17-18).
Rất rõ ràng, rất dứt khoát, họ đã bày tỏ lòng tin cậy của mình nơi Đức Chúa Trời, dù sống hay thậm chí phải chết.
Nhưng người trẻ tuổi này đã học được một điều gì đó quan trọng hơn cả sự sống. Ấy là thà phải chết mà vâng lời Chúa còn hơn là sống mà không vâng lời Ngài. Lợi ích cá nhân của việc đồng đi và đồng chết với Chúa bao giờ cũng trổi hơn muôn phần so với việc được sống sau khi đã không vâng lời Ngài.
Đức Chúa Trời đã tôn quý những người này trong hình thức thăng chức cho họ, sau khi bảo vệ họ và đem họ ra khỏi lò lửa hực. Thật sự, họ đã bước ra khỏi lò lửa mà “chẳng có một sợi tóc nào trên đầu họ bị sém, quần áo họ không bị nám, ngay cả mùi lửa cũng không dính vào họ (3: 27)
Những người trẻ tuổi này đã đi qua lò thử thách và được đóng nhãn OK bởi chính Đức Chúa Trời. Họ đã được thử luyện và họ đã xuất sắc vượt qua. Việc họ đã giữ vững đức tin của mình trước những sự cám dỗ, trước những cơn thử thách, chính là lời chứng sống động cho những bậc cầm quyền về một Đức Chúa Trời duy nhất, đầy quyền năng, hiện đang sống và đang cầm quyền tể trị trên mọi thể chế, mọi vương quyền và mọi quốc gia.
Hãy nghe lời xưng nhận của đại đế Nê-bu-cát-nết-xa:
“Tôn ngợi Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác và A-bết-nê-gô, Đấng đã sai thiên sứ Ngài đến và giải cứu các đầy tớ Ngài. Họ biết nhờ cậy Ngài, dám trái mạng vua và liều bỏ thân thể mình để không phục vụ và thờ phượng thần nào khác ngoài Đức Chúa Trời mình. Vì vậy, ta ban chiếu chỉ nầy: Bất kỳ dân tộc nào, quốc gia nào, ngôn ngữ nào có người xúc phạm đến Đức Chúa Trời của Sa-đơ-rắc, Mê-sác, A-bết-nê-gô thì sẽ bị xé ra từng mảnh, và nhà nó sẽ trở thành đống phân; vì không có thần nào khác có thể giải cứu được như thế” (3: 28-29)
Bạn cũng có thể làm vinh danh Đức Chúa Trời cùng một cách như thế trong công ty, trong cơ quan, trong trường học của bạn. Chúa đang dõi theo bạn, và những người lãnh đạo, đồng nghiệp ngoại giáo của bạn đang chờ đợi để được biết Đức Chúa Trời qua đức tin năng động của bạn đấy.


Thứ Tư, 26 tháng 8, 2015

MỌI SỰ ĐỀU NÊN MỚI


Ê-xê-chi-ên 44-48
Ê-xê-chi-ên tiếp tục rao báo sứ điệp về một ngày mai tươi sáng cho những người đồng hương của mình đang còn trong phận lưu đày tại Babilon. Phần cuối sự hiện thấy của ông liên quan đến sự thờ phượng trong Đền Thờ mới vào kỳ tương lai.
Tất cả các của lễ (thiêu, chay, bình an, chuộc tội, chuộc lỗi, rưới rượu, tức lễ quán) và phần lớn các kỳ lễ trong thời Sa-lô-môn đều được tuân giữ vào lúc ấy. Và trong sự thờ phượng Chúa ở thời kỳ mới này, có 3 thành phần tham dự được nêu tên trực tiếp: thầy tế lễ thuộc con cháu của Xa-đốc, những người Lê-vi và một ông hoàng (prince).
Hẳn nhiên, ông hoàng này (mà hầu hết các bản Kinh Thánh tiếng Việt đều dịch là vua) không phải là Đức Chúa Giê-xu như nhiều người lầm tưởng. Nhưng ông ấy là ai thì đúng là đến nay chưa một ai đưa ra được câu trả lời cho thỏa đáng. Chỉ biết rằng, ông ấy có vợ con đàng hoàng, năm nào cũng cần được chuộc tội và là … ‘nhà tài trợ chính’ trong việc chu cấp các của lễ cho các kỳ lễ.
Đúng là còn nhiều điều chưa rõ ràng trong phần Kinh Thánh hôm nay, nhưng đừng quên là lúc ấy Ê-xê-chi-ên buộc phải sử dụng một vốn từ giới hạn để diễn tả những sự vật, những hoạt động mà có thể là vào thời của ông (và có thể là cả thời của chúng ta) chưa hề có hoặc chưa hề được biết đến. Cũng giống như Giăng về sau này trong sách Khải Huyền đã ‘tường thuật trực tiếp’ tình hình thế giới trong những ngày cuối cùng bằng ngôn ngữ của thế kỷ thứ I vậy thôi.
Trong 4 chương Kinh Thánh hôm nay, chúng ta chỉ sẽ chọn ra vài điểm nhấn để … nhấm mà thôi (chớ còn liệt kê cho hết những sự dạy dỗ thì ‘chéc chén lòa’ thời lượng không cho phép rồi). He he
Trước hết là chuyện chỉ có con cháu thầy tế lễ Xa-đốc mới được đảm nhiệm chức vụ thánh, tức là được vào ra trong sự hiện diện đầy vinh hiển của Đức Chúa Trời, chớ không phải tất cả người Lê-vi như quy định của luật Môi-se.
Lý do? – Ông ấy trung tín với chức phận được giao (44: 15; xem thêm: 2 Samuen 15: 24-29), còn toàn bộ những người Lê-vi thì bất trung (44: 10).
Tuy không bị loại bỏ vĩnh viễn nhưng những người hầu việc Chúa bất trung này không còn được Chúa tín nhiệm trong những chức phận cao hơn trong ngày tương lai, khi Chúa trở lại ngự giữa dân sự của Ngài. Hỡi những người hầu việc Chúa – những thầy tế lễ của ngày hôm nay – xin hãy nhìn vào đấy mà răn mình!
Tiếp theo, khi Chúa trở lại thì mọi sự đều sẽ thay đổi, kể cả ranh giới địa lý của một quốc gia (47: 13-48: 35). Mà trong trường hợp cụ thể ở đây là quốc gia Israel.
Lãnh thổ tương lai này lớn hơn rất nhiều so với lãnh thổ được đề cập trong Dân Số Ký 34 hoặc lãnh thổ mà dân Y-sơ-ra-ên, dưới sự lãnh đạo của Giô-suê, đã chiếm hữu được (Giô-suê 13:1 – 21:45). Đây chính là lãnh thổ mà Đức Chúa Trời đã hứa với Apraham (Sáng Thế Ký 15: 18-21). Và đây cũng chính là điều khiến cho những người Giu-đa đang bị phu tù tại Babilon tràn trề hy vọng.
Ngày ấy chắc chắn sẽ đến. Vì điều chi Đức Chúa Trời đã hứa thì Ngài cũng có quyền làm cho trọn (Roma 4: 21).
Chưa hết, một khi Chúa trở lại thì cả địa hình, lẫn môi trường cũng sẽ thay đổi.
Cho đến tận hôm nay thì trong thành phố Jerusalem không có một con sông nào. Thế nhưng, ngày đến sẽ có một con sông xuất phát từ Đền Thờ Chúa, chảy về hướng đông, rồi nhập vào sông Giô-đanh, mang dòng nước sống tươi mát từ nơi chính Chúa, đem sự chữa lành đến mọi nơi – trước là Biển Chết, và sau đó là những vùng sa mạc khô cằn phía Nam (47: 1-12).
Rất nhiều người cho rằng “con sông ra từ Đền Thờ” này chỉ là biểu tượng, nên được hiểu theo nghĩa bóng mà thôi. Vâng, chúng ta có thể rút ra được nhiều sự dạy dỗ hay bài học áp dụng thuộc linh từ hình ảnh con sông đặc biệt này. Thế nhưng, con sông này là hoàn toàn có thật. Nó chắc chắn sẽ xuất hiện tại Jerusalem.
Khi mô? – Khi Đức Chúa Giê-xu tái lâm.
Kinh Thánh cho biết rằng, khi Chúa tái lâm thì “núi Ô-liu sẽ chẻ làm đôi, từ đông sang tây, tạo thành một thung lũng rất lớn. Phân nửa núi sẽ lui về phía bắc, và phân nửa về phía nam và rồi “ngày ấy, nước ban sự sống sẽ chảy ra từ Giê-ru-sa-lem, phân nửa ra biển đông, phân nửa ra biển tây, chảy luôn suốt cả mùa hè và mùa đông” (Xachari 14: 4, 8). Đây chính là “con sông, mà các dòng nước nó làm vui thành Đức Chúa Trời, là nơi ngự thánh của Đấng Chí Cao đã được đề cập đến trong Thánh Thi 46 đấy.
Hãy tưởng tượng xem cảnh Biển Chết mà có cá. Không chỉ có cá, mà còn có nhiều và đủ loại cá như ở Địa Trung Hải nữa cơ. Biển Chết ngày ấy sẽ tràn đầy sự sống và những vùng sa mạc khô cằn sẽ trở nên những vườn cây ăn trái sum suê suốt 4 mùa xuân hạ thu đông!
Thật đúng là một sứ điệp đầy hy vọng cho một dân tộc đang trong cảnh ly tán nơi đất khách quê người. Và tất cả đều phải được bắt đầu tại “bàn thờ trước mặt Chúa” (41: 22).
Dù là sự hồi sinh của một dân tộc, hay là sự phấn hưng của một hội thánh, một gia đình hay một cá nhân thì tất cả cũng phải bắt đầu tại bàn thờ dâng sinh tế trước mặt Chúa. Ngày hôm nay, “bàn thờ dâng sinh tế trước mặt Chúa” chính là thập tự giá của Đấng Christ. Nếu bạn chưa thật sự bắt đầu ở chân thập tự giá, thì dù có sinh ra trong gia đình có đạo đi nữa, bạn cũng chưa được cứu đâu đấy.
Nếu bạn chưa từng được hưởng ơn cứu rỗi, thì hãy nhanh chóng tiến đến chân thập tự giá, ăn năn tội lỗi của mình, dâng trọn đời mình cho Chúa và chân thành mời Đức Chúa Giê-xu bước vào lòng làm Cứu Chúa của riêng mình. Còn nếu bạn đã có Chúa Giê-xu ngự trong ngai lòng rồi, thì hãy nhanh chóng bước vào dòng sông sự sống – hình bóng của Đức Thánh Linh – để được nếm trải những mức độ sâu nhiệm càng hơn trong hành trình tăng trưởng thuộc linh.
Đầu tiên là bước đi trong Đức Thánh Linh (mắt cá chân), tiếp theo là cầu nguyện trong Đức Thánh Linh (đầu gối), tiếp theo là trang bị mọi khí giới thuộc linh (thắt lưng) và cuối cùng là chìm ngập trong quyền năng của Đức Thánh Linh (bơi lội).
Đừng do dự, sợ hãi. Chúa đang chờ đợi bạn. Chúa “đang ngự tại đó” – Ngài là Giê-hô-va Shama! (48: 35)