Malachi là sách cuối cùng thuộc kinh Cựu ước, và
những sứ điệp trong sách này cũng là những lời cuối cùng của Chúa trước khi
Ngài … ‘cúp máy’ khoảng chừng … 400 năm!
Để hiểu rõ hơn về bối cảnh lịch sử, anh chị em chịu
khó ‘tua’ lại sách Nê-hê-mi nha. Số là, bác Nê-hê-mi với lại bác Malachi này là
người cùng thời đấy ạ. Bác Nê-hê-mi lúc bấy giờ là cán bộ cao cấp, còn Malachi
nhà ta là thành phần pờ-rồ (pro) thứ thiệt – pờ-rồ-phết (prophet), tức là một …
tiên tri!
Trước khi sang Babilon làm dân lưu vong, thì người
Israel, hầu hết, là … Hai Lúa chính hiệu. Thế nhưng khi hồi hương sau 70 năm ở
hải ngoại thì dân Chúa đều lột xác thành … thương gia, chẳng còn chút chi gọi
là ‘chân quê’ nữa. Chính vì vậy mà họ đã đốp chát tay đôi với người của Đức
Chúa Trời khi ông ấy rao giảng lời Chúa, không kiêng dè chi hết. Đúng là dân
chợ, dân đi nước ngoài về có khác.
Có đúng 7 câu mà dân Israel, gọi tắt là I kiều (chớ
không phải là yêu kiều) đã trực tiếp đốp chát với Chúa (1: 2; 1: 6; 1: 7; 2:
17; 3: 7; 3: 8; 3: 13). Chính xác là 7 lần bị Chúa buộc tội là bảy lần họ cất
tiếng hỏi: “chỗ mô?”
Chính Đức Chúa Trời – vị quan án của cả cõi trời
đất này – trực tiếp kêu án mà chúng còn đòi hỏi Ngài phải trưng ra ‘tang chứng,
vật chứng’ thì đúng là … ‘coi trời bằng vung’ rồi. Một khi lòng ta trở nên chai
đá thì hiện tượng ngoan cố này sẽ xuất hiện lúc ta nghe lời quở trách hay cảnh
báo trực tiếp từ Chúa hoặc từ Lời của Chúa.
Malachi quở trách toàn bộ I kiều nói chung, nhưng
đối tượng chủ chốt phải … ‘lãnh búa’ hôm nay là những thầy tế lễ.
Này, không phải chỉ có những mục sư, những người
hầu việc Chúa mới là thầy tế lễ thôi đâu nha. Tất cả những người thật lòng tin
thờ Đức Chúa Giê-xu đều được Đức Chúa Trời gọi là thầy tế lễ đấy:“Nhưng anh
em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh, là
dân thuộc về Đức Chúa Trời, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi
anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (1
Phê-rơ 2: 9)
Điều đó có nghĩa là những gì Chúa nói trong 4
chương của sách Malachi hôm nay cũng là nhằm vào mỗi một chúng ta đấy. Tuy
nhiên, vì thời lượng có giới hạn nên chỉ điểm mặt ba 'em' mà thôi.
Tội thứ nhất mà mấy ông thầy tế xưa đã phạm và mấy
ông thầy tế nay cũng rất dễ phạm là tội KHINH CHÚA. Khinh răng? – Chọn thứ đui,
què, sứt mẻ, … nói chung là hàng phế thải để dâng cho Chúa.
“Hổng có đâu, làm người ai làm thế”.
Ừ, ngày nay không ai dâng thú chột, què, hay tật
nguyền cho Chúa nhưng dâng cho Chúa … tiền lẻ thì đầy. Không phải không có tiền
đâu nha, mà là cố tình đổi thành tiền lẻ để dâng đấy. Thậm chí, nhiều ‘thầy tế’
còn dâng những đồng tiền xu có mệnh giá nhỏ nhất nữa cơ. Dâng cho Chúa mà cứ như
bố thí cho ăn mày không bằng.
Thế mà không khinh Chúa thì là gì. Đừng có ở đó mà
xin Chúa “lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con” nhá. Vì Chúa bảo: “Tay
các ngươi làm những việc như thế, làm sao Ngài thi ơn cho các ngươi được?” (1:
10)
Tội tiếp theo là “xuyên tạc Lời Chúa, không sống
theo Lời Chúa, làm cớ cho người khác vấp phạm” (2: 8).
Bằng chứng à? – Đây, lập kế bỏ vợ, cùng niềm tin,
để cưới mấy cô ngoại bang, không cùng niềm tin.
Hổng biết có phải là mấy cô không thờ Chúa trẻ hơn,
đẹp hơn, hay vì lý do gì mà mấy ống thầy tế xưa rủ nhau bỏ vợ ào ạt luôn. Kinh
Thánh không cho biết, nhưng có một điều chúng ta được biết:“CHÚA ghét sự ly
dị; và CHÚA cũng ghét kẻ mang lớp áo bạo hành như thế đối với vợ.” (2:
16).
Nhiều ông ‘thầy tế’, tức người tin thờ Chúa ngày
nay, hổng có ly dị vợ nhưng lại hoặc lén lút hoặc công khai ăn ở với những
người phụ nữ khác, nhất là tại các cộng đồng công nhân lao động tập trung như ở
xứ Cọ này.
Nghe này, có thể Hội Thánh nơi bạn sinh hoạt không
ai biết gì về bạn nhưng Đức Chúa Trời thì biết đấy. Có thể vợ của bạn, hay con
người nói chung không ai làm gì được bạn, nhưng Chúa thì có đấy.
Trước hết là Chúa GHÉT (2: 16) và tiếp theo là Chúa
DỨT, tức là đì-lít hẳn đấy. Vì Chúa phán: “Đối với một người làm như
vậy, bất kỳ ai, nguyện Chúa dứt bỏ nó khỏi các lều Gia-cốp, ngay cả khi nó đem
lễ vật đến dâng kính CHÚA Vạn Quân.” (2: 12)
Tội thứ ba là … ‘chà đồ nhôm’, tức ‘chôm đồ nhà’.
Mà là nhà Chúa mới kinh chớ. Đến của Chúa mà mi còn dám trộm thì chẳng còn của
ai mà mi chừa cả đâu.
“Răng mà oan cho tui rứa hè. Trời cao đất dày ơi,
tui chôm chỗ mô?” – Mi chôm chỗ … không nộp lại 1/10, tức 10 phần trăm lợi tức
cho Chúa đấy.
Một phần mười, hay 10 phần trăm lợi tức, là phần
của Chúa mà người tin thờ Chúa phải có trách nhiệm nộp lại cho Chúa vào “kho
nhà Chúa”, tức là nơi nào mà người ấy được trực tiếp nhận sự chăm sóc thuộc
linh.
Một phần mười không phải là khoản … ‘đạo phí’ khi
đến nhà Chúa, cũng không phải là lễ vật tùy tâm của thiện nam tín nữ đâu nha.
Nếu thu nhập của ta là nghìn tư (1,400) thì phần mười là trăm tư (140). Cứ thế
mà tính.
Phần mười là tiền vốn hay hạt giống để dành cho vụ
mùa sau. Dù đói cỡ nào đi nữa thì người nông dân cũng không đem giống ra ăn vì
“ăn giống thì sống cũng như chết”. Làm ăn buôn bán mà ‘ăn’ thâm vào vốn thì
chuyện … ‘sập tiệm’ chỉ còn là vấn đề thời gian thôi. Đúng không?
Hóa ra, bóng đang nằm trong chân của chúng ta, anh
chị em ơi. Phúc hay họa trong lĩnh vực tài chánh là do ta ‘quyết’ cả đấy (3:
9-12).
Hôm nay, chừng nớ là đủ lắm rồi hì. Xi-du à nghen.