Công
Vụ 13-15
Ba chương Kinh Thánh hôm nay dành phần lớn thời
lượng tường thuật hành trình truyền giáo hải ngoại lần thứ nhất do Phao-lô làm
trưởng đoàn. Từ trước đến lúc ấy, việc truyền giáo hải ngoại của con dân Chúa,
tôi tớ Chúa toàn là BỊ đi không à (8: 4; 11: 19). Thế cho nên, việc Banaba và
Sau-lơ, tức Phao-lô, được hội thánh An-ti-ốt sai phái ra đi theo lịnh Chúa,
được gọi lần đầu xuất quân là rứa đo.
Hội Thánh An-ti-ốt cử ai đi truyền giáo ấy nhỉ? –
Hai vị lãnh đạo ‘chiến’ nhất của họ. Chính Banaba và Sau-lơ là những lãnh đạo
đầu tiên của An-ti-ốt, đúng không.
Đấy, đã CHO là phải cho “hàng xịn” như thế, GIEO là
phải gieo những hạt giống thuộc hàng tốp 5 như thế (13: 1), chớ không phải top
ten đâu nha! Chả trách là đội hình của 2 bác í đi đến đâu là chiến thắng oanh
liệt đến đấy. Gieo gì gặt nấy mà lị.
Nếu Hội Thánh ngày nay mà dám theo gương An-ti-ốt
xưa, luôn cử “đội hình một” ra đi, thay vì “đội hình hai” hay thậm chí “đội
hình … ngoại hạng”, (tức không xếp được hạng nào cả) thì chắc là những cánh
đồng truyền giáo đầy tiềm năng đã không phải chịu cảnh lúa chín rục khắp nơi.
Vâng, chiến thắng thì đúng là như chẻ tre, nhưng
song hành với chiến thắng đó là sự chống đối đủ mọi hình thức, và thậm chí là
đổ máu, mất mạng trong suốt cuộc hành trình (14: 19-20). Truyền giáo hải ngoại
là một cuộc chiến khốc liệt, bốn bề thọ địch. Cho nên, nếu ai đó cho rằng chỉ
cần mấy anh chị sanh dziên Thần học hàm thụ là … ‘dư sức qua cầu’ thì đúng là
hơi bị lạc quan tếu rồi đấy. Mà lạc quan tếu ở chiến trường thì bao giờ cũng
trả giá đắt lắm đấy nhá.
Cứ nhìn cái cảnh anh John trẻ tuổi sớm lìa bỏ cuộc
chơi (13: 13), thì đủ biết tình hình ‘keng thẻng’ thế nào. Được tháp tùng hai
đại sư có số má cỡ đấy mà còn … mới đầu đường đã đứt dép thì huống chi chung
đoàn với hạng vô danh. Đấy, bảo trọng, bảo trọng nha các cha, các anh!
Một điểm khác cần lưu ý, liên quan đến vai trò của
Hội Thánh địa phương trong việc sai phái giáo sĩ ra đi. Banaba và Sau-lơ được
Hội Thánh An-ti-ốt biệt riêng ra để thực hiện công vụ mà Chúa ĐÃ kêu gọi họ
(13: 2). Điều này có nghĩa là Hội Thánh chỉ XÁC NHẬN những gì mà Chúa đã tỏ bày
trước đó cho Banaba và Sau-lơ mà thôi.
Cho nên, nếu có ai đó nói tiên tri (mà chính xác thì
phải là sử dụng ân tứ lời tri thức) cho bạn về một điều gì đấy – đặc biệt khi
điều ấy liên quan đến chức vụ hầu việc Chúa – thì những gì người đó ‘phán’ chỉ
xác nhận những gì mà bạn đã cảm nhận trong lòng mình mà thôi (dù rõ ràng hay
còn tù mù). Trường hợp, có ai đó bảo rằng Chúa chọn bạn làm việc này, hay sai
bạn đến nơi kia mà trong lòng bạn không hề có chút ý tưởng hay cảm nhận gì đến
chuyện đấy thì cách khôn ngoan nhất là … QUÊN ‘chúng’ đi. Thế nhá.
Trong chương 15, chúng ta lại một lần nữa học được
cách giải quyết những bất đồng trong Hội Thánh. Lần trước là chuyện thịt (6:
1), còn lần này là chuyện … da (thì bì đích thực là da mà lị). He he.
Mấy bác Cơ-đốc nhân gốc Do Thái thì dứt khoát rằng,
dân ngoại bang tin thờ Chúa Giê-xu thì cũng phải tuân thủ đầy đủ các thủ tục
theo luật định như một người Do Thái chính gốc. Còn nếu không ấy à: chưa được
cứu đâu cưng (15: 1). Trong khi đó, Phao-lô và Banaba thì ‘bênh’ Cơ-đốc nhân
gốc ngoại bang ra mặt luôn. Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, và rứa là cãi nhau
tưng bừng luôn.
Giải pháp: Triệu tập hội nghị toàn thể. Tất cả đều
được quyền phát biểu và phản biện. Rất chi là dân chủ. Kết cuộc, hội nghị đi
đến quyết định cuối cùng và ra tuyên bố chung:
“Vì Đức Thánh Linh và chúng
tôi đã đồng ý rằng chẳng nên chất thêm gánh nặng cho anh em, ngoại trừ những
điều cần yếu nầy: Phải kiêng của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết
ngạt, và chớ gian dâm” (15:
28-29)
Ai nấy đều vui vẽ, thỏa lòng, không có chuyện “bên
thua cuộc” hậm hực, chống đối hay bất tín nhiệm gì cả. Hãy lưu ý cụm từ “Đức
Thánh Linh và chúng tôi đã đồng ý”. Điều này nói lên rằng, những người tham dự
đã thật sự khiêm nhường, cởi mở, sẵn sàng xem xét và chấp nhận ý kiến của người
khác. Họ có bất đồng về quan điểm nhưng không bất hòa. Họ thật sự biết lắng
nghe, biết chấp nhận lẽ phải chớ không phải khăng khăng cho rằng, ý kiến của
mình hay quan điểm của mình là tuyệt đối đúng. Vì không có sự cố chấp nên họ dễ
dàng nghe được tiếng phán của Đức Thánh Linh.
Quyết định cuối cùng của Hội Nghị Jerusalem vẫn còn
nguyên giá trị cho đời nay và cho muôn đời sau đối với những Cơ-đốc nhân không
phải là người Do Thái. Theo đó, một người tin thờ Chúa Giê-xu chỉ kiêng đúng
bốn món: của cúng thần tượng, huyết hay tiết, thịt thú vật chết ngạt và gian
dâm, tức sinh hoạt tình dục với … hàng ‘không chính chủ’. Của cúng, tiết hay
huyết, và gian dâm thì rõ như ban ngày, không có gì bàn cãi cả. Song thế nào là
“thú vật chết ngạt” thì đây đó còn có chút lăn tăn.
Người thì bảo: chết ngạt là chết tự nhiên, kiểu
chết dịch, chết bệnh; kẻ lại cho rằng, chết ngạt là chết … uất ức, tức là chưa
được cắt tiết, kiểu bị vặn cổ hay bị dội hoặc dìm nước sôi. Vì mỗi người hiểu
mỗi cách nên người thì ăn tất tần tật, kẻ lại kiêng một số món khoái khẩu,
chẳng hạn, trứng vịt lộn hay món … cút chiên bơ.
Vì vẫn còn cãi nhau chí chóe, nên “thú vật chết
ngạt” nên được xếp vào dạng ‘đất đang tranh chấp’, đúng không. Mà đã là ‘đất
đang tranh chấp’ thì người khôn ngoan sẽ không bao giờ can dự vào. Rứa thôi.
Tuy tuyên bố chung Jerusalem là cấm (ăn hoặc uống)
huyết cách rõ ràng như thế, nhưng hiện vẫn có nhiều sư (chớ không phải dân) cố
chày chối rằng thì là … ăn được. Đúng là mấy sư … khát máu! He he.
Thèm chi mà mụ mị rứa mấy cha. Thế mấy cha, mấy anh
không biết rằng, máu (hay huyết, tiết gì cũng rứa) bị cấm ăn (uống) từ thời xa
lắc xa lơ, từ thuở Nô-ê vừa ra khỏi tàu à (Sáng thế ký 9)?
Vâng, tiết hay huyết có thể ăn được, có thể uống
được, nhưng nó KHÔNG PHẢI LÀ THỨ DÙNG ĐỂ ĂN, ĐỂ UỐNG. Điều này cũng giống như
có nhiều loại thú vật, súc vật, côn trùng, … con người có thể ăn nhưng chúng
lại thuộc vào nhóm mà Đức Chúa Trời không chỉ định làm thức ăn cho loài người.
Rứa đo.
Đầu chương 15, người ta bất đồng với nhau nhưng
không đến chỗ bất hòa. Thế nhưng, cuối chương 15 thì kết cuộc lại không được
như thế. Banaba và Phao-lô đã “you sugar you, I sugar I”, đường ai nấy đi, vì
anh John trẻ đào ngũ khi xưa. Kinh Thánh không đưa ra nhận định gì về việc ai
đúng ai sai trong chuyện này cả. Chỉ biết rằng, mãi về sau, lúc sắp qua đời,
Phao-lô mới tiết lộ rằng, “Mác (tức John) rất hữu ích cho chức vụ của” ông mà
thôi (2 Timothe 4: 11).
Thế mới hay, không phải đã là lãnh đạo thì lúc nào
cũng đúng đâu nha. Điều quan trọng là người ấy có biết nhận ra sai lầm của mình
và sửa sai hay không. Nhớ nha.