Giê-rê-mi
26-29
Có ai đó bảo rằng, sách Giê-rê-mi
không thể nào lập bố cục hay dàn bài được. Ấy là vì không ai có thể khóc (thật)
mà theo đúng bài bản đã được thiết lập từ trước cả. Đúng sai của ý kiến đó thì
còn phải bàn nhưng rõ ràng là (sách) Giê-rê-mi ‘phát ngôn’ không theo một trật
tự nào hết trơn á.
Chẳng hạn, trong phần Kinh Thánh ngày
hôm qua, thì trật tự thời gian bị đảo ngược hoàn toàn: đầu nên rốt, rốt nên
đầu. Cụ thể, theo đúng ‘tôn ti trật tự’ … thời gian thì vua Giê-hô-gia-kim
trước hết, rồi đến ông con – vua Giê-hô-gia-kin, và cuối cùng mới là … ông chú,
tức vua Sê-đê-kia. Thế nhưng, trong sách Giê-rê-mi thì thời vua Sê-đê-kia lại
được đề cập trước ở chương 21, đến chương 24 mới đến thời vua Giê-hô-gia-kin, và
cuối cùng chuyện dính dáng đến vua Giê-hô-gia-kim thì được đề cập trong chương
25.
May quá, trong phần Kinh Thánh hôm
nay thì không còn cảnh đó. Tuy nhiên, nếu cẩn thận tính toán thì ta sẽ thấy
được rằng, giữa chương 26 và ba chương còn lại của ngày hôm nay là 27, 28, 29
cách nhau những đến … 16 năm! (II Các Vua 23: 36; 24: 8-12, 17-18; Giê-rê-mi
28: 1).
Còn nữa, câu chuyện xảy ra tại sân
Đền Thờ trong chương 26 cần phải được đọc với “file đính kèm” là bài giảng
trong Giê-rê-mi 7: 1-15 thì mới đủ … thủ tục. Nói cách khác, bài giảng trong 7:
1-15 chính là phần ‘triển khai chi tiết’ mạng lịnh mà Chúa truyền cho Giê-rê-mi
trong 26: 2-6 đấy. Ngạc nhiên chưa?
Ta học được gì nơi tinh thần phục vụ
Chúa của tiên tri Giê-rê-mi trong hoàn cảnh phải “khiêu vũ giữa bầy sói” như
thế? – Đó là một tinh thần hầu việc Chúa … chết bỏ luôn. Chớ còn gì nữa. Sém
chút nữa là toi mạng rồi còn gì (26: 8).
Rồi còn bị hạ nhục giữa bàn dân thiên
hạ (28: 10-11), và kính thưa các thể loại … đòn bẩn khác, từ thấp lên cao, từ
dân đến quan, ngay tại quê nhà hay từ xa ngoài đất khách (29). Thế nhưng,
Giê-rê-mi vẫn cứ “cứng như sắt, vững như đồng”, vẫn cứ lừ lừ tiếp tục ‘nhả
đạn’.
Đấy chính là xì-tai phục vụ mà mỗi
chúng ta được kêu gọi để noi theo: “Thưa anh chị em, hãy noi gương chịu
bạc đãi và kiên nhẫn của các tiên tri đã nhân danh Chúa mà nói” (Gia-cơ
5: 10).
Trọng tâm của phần Kinh Thánh hôm nay
nằm ở thời kỳ cai trị của vị vua Giu-đa cuối cùng là Sê-đê-kia. Lúc bấy giờ,
“một bộ phận không nhỏ” thuộc giới quý tộc Giu-đa, bao gồm cả vua Giê-hô-gia-kin
cùng hoàng thân quốc thích, đã bị đại đế Nê-bu-cát-nết-xa hốt gọn sang Babilon
lưu đày. Đã thế mà người ta vẫn không tỉnh ngộ, đến nước đấy rồi mà người ta
vẫn chưa chịu hạ lòng ăn năn. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng, biến cố ấy
chẳng qua là … ‘tai nạn’ mà thôi; bất quá là chịu trận hai năm nơi xứ người rồi
thì ai nấy sẽ được hồi hương.
Vì tin như thế cho nên khi nghe
Giê-rê-mi kêu gọi hãy đầu hàng quân Babilon, hãy tình nguyện chịu ách đô hộ của
ngoại xâm đi thì hầu hết người Giu-đa, kể cả còn ở trong nước hay đang bị lưu
đày xứ người, đều nhất trí cho rằng, Giê-rê-mi là tên phản động, cấu kết với
ngoại bang.
Sứ điệp của Giê-rê-mi trong thời điểm
này không chỉ là lên án tội lỗi của dân tộc mình, và kêu gọi họ tỉnh ngộ, ăn
năn trở lại cùng Chúa mà còn tuyên chiến với đám tiên tri giả – những người
mang danh hầu việc Chúa nhưng lại rao giảng những điều Chúa không bảo họ rao.
Nói cách khác, vì vâng lời Chúa nên Giê-rê-mi đã tự đưa mình vào thế: “tứ bề
thọ địch”.
Thế nhưng, Giê không bao giờ chết.
Đơn giản là vì Chúa luôn thành tín. Chúa luôn giữ lời Ngài đã hứa với Giê khi
gọi chàng vào trong chức vụ: “Nầy, ngày nay, ta lập ngươi lên làm thành
vững bền, làm cột bằng sắt, làm tường bằng đồng, nghịch cùng cả đất nầy, nghịch
cùng các vua Giu-đa, các quan trưởng nó, các thầy tế lễ, và dân trong đất. Họ
sẽ đánh nhau với ngươi, nhưng không thắng ngươi; vì ta ở cùng ngươi đặng giải
cứu ngươi.” (1: 18-19)
Vì thuận với Chúa, nên dù có bị uýnh
hội đồng cỡ nào đi nữa thì Giê-rê-mi vẫn “trơ gan cùng tuế nguyệt”. Trong khi
mấy tay nghịch lại với Chúa, dù quyền cao chức trọng như Ha-na-nia (28: 1-17),
hay đang vinh thân phì gia nơi hải ngoại cỡ Sê-ma-gia ở Nê-hê-lam (29:
24-32) đi nữa thì cũng không thể nào thoát khỏi án tử được.
Ha-na-nia tinh tướng rằng 2 năm nữa
là mọi kẻ lưu đày sẽ được hồi hương, tất cả sẽ “châu về hợp phố”, trong khi
Chúa thì bảo 70 năm cơ. Hai năm đâu không thấy, chỉ biết rằng sau đúng có hai
tháng thì Ha-na-nia đã vĩnh viễn lìa trần (28: 1, 17). Đó là lời cảnh báo mạnh
mẽ cho những ai đang đứng trong chức vụ hầu việc Chúa nhưng không còn nghe
tiếng Chúa, không còn nhận biết công việc Chúa, không còn phân biệt đường lối
Chúa.
Đường lối Chúa không phải lúc nào
cũng dễ hiểu, dễ chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, có một điều luôn luôn
sáng tỏ, luôn luôn rõ ràng: Chúa là thiện lành, đường lối Chúa dành cho con dân
Ngài luôn bình an và tràn đầy hy vọng, kể cả lúc họ đang chịu cảnh lưu đày!
“Vì Ta biết chương trình Ta hoạch
định cho các ngươi là chương trình hòa bình thịnh vượng, không phải là tai họa
diệt vong. Ta kiến tạo cho các ngươi một tương lai sáng sủa, một niềm hy vọng
vững vàng” (29: 10)
Con người có thể thất bại, dân sự
Chúa thật đã thất bại, nhưng Đức Chúa Trời thì không hề thất bại. Chúa đã dùng
70 năm lưu đày để “làm sạch” xứ thánh, để chuẩn bị cho Chúa một dân sẵn lòng và
để làm thành giao ước của Ngài đối cùng Apraham và Đa-vít năm xưa thế nào, thì
cũng một cách ấy, Chúa đang sử dụng mọi hoàn cảnh mà bạn và tôi đang đối diện,
để làm thành kế hoạch đời đời của Ngài trên đời sống của mỗi chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét