Thứ Hai, 9 tháng 11, 2015

GIỜ SĂN ‘CÁ MẬP’

Công Vụ 21-23
“Cá mập” ở đây là từ lóng mà dân truyền giáo gọi những người có chức có quyền trong xã hội. Nhưng tại sao lại là cá? – Vì người đi ra chứng đạo hay truyền giáo được Chúa gọi là “tay đánh lưới người” mà lị. Nhớ là “đánh lưới” chớ không phải câu, hay nhử gì đâu đấy.
Ba chương Kinh Thánh hôm nay thuật lại thể nào Phao-lô được Chúa đãi hết mẽ lưới này đến mẽ lưới khác. Toàn cá bự không nha, thuộc hàng đại nhân, đại gia – cả Do Thái, lẫn ngoại quốc. Tha hồ mà rao giảng.
Trong cái nhìn của con người thì Phao-lô đã bị bắt, bị tạm giam cách oan ức. Thế nhưng, ở một góc nhìn khác, thì Chúa đã mở cho Phao-lô một cánh cửa cơ hội để giảng đạo cho những người quyền cao chức trọng. Trong một xã hội còn chống nghịch Đạo Chúa như lúc bấy giờ, thì đây là thành phần mà con dân Chúa không dễ gì tiếp cận được để chia sẻ Phúc Âm.
Thế những người lãnh đạo chính quyền các cấp có cần được nghe Phúc Âm cứu rỗi của Chúa Cứu Thế không? – Quá cần nữa là khác. Dù quyền cao chức trọng đến đâu, dù có thích hay ghét Chúa, thì những người lãnh đạo vẫn cần nghe Phúc Âm, ít nhất là một lần trong đời.
Răng rứa? - Ấy là vì Chúa muốn cho mọi người – trong đó có những người lãnh đạo chính quyền các cấp – được cứu và hiểu biết lẽ thật (1 Timothe 2: 4); và vì Chúa không muốn cho bất kỳ một người lãnh đạo nào phải bị hư mất nhưng muốn cho mọi người phải ăn năn (2 Phê-rơ 3: 9).
Và Phao-lô được Chúa chọn làm thợ săn ‘cá mập’. Phương cách tiếp cận: khổ nhục kế, tức là phải chịu để cho ‘chúng’ bắt.
Phao-lô được Chúa mách bảo trước về việc này (20: 22-23), nên bác í cứ lừ lừ tiến bước, bất chấp mọi can ngăn khuyên lơn từ các sư huynh đệ.
Nếu không lưu ý điểm này thì ta rất dễ đi đến kết luận là Phao-lô đã ương bướng, bỏ ngoài tai mọi lời cảnh báo của Chúa thông qua những người tin kính khác (21: 4, 12). Đúng là các môn đồ ở Ty-rơ, và Agabut ở Sê-sa-rê đã thật sự nhận được mặc khải từ Chúa về việc Phao-lô sẽ bị bắt tại Jerusalem, nhưng Chúa không bảo với họ là Phao-lô không nên về thủ đô.
Chúa báo trước việc này là nhằm chuẩn bị cho Phao-lô chớ không nhằm cản trở ông. Do đó, việc “dặn Phao-lô chớ lên thành Giê-ru-sa-lem” là phần thêm vào của con người, xuất phát từ tình cảm tự nhiên hay sự khôn ngoan riêng chớ không phải là mặc khải. Điều này cũng gần giống như trường hợp giữa Chúa Giê-xu và Phê-rơ trong Mathiơ chương 16 vậy.
Xác thịt luôn tìm cách trà trộn vào mặc khải thiên thượng nhằm làm biến dạng hay đổi hướng ý muốn của Đức Chúa Trời. Phao-lô không dính “quả lừa” này, vì ông biết kiểm chứng những gì người khác được Chúa bày tỏ và những gì chính ông được Chúa bày tỏ.
Anh chị em còn nhớ câu chuyện tiên tri già và tiên tri trẻ trong 1 Các Vua 13 không? – Ông trẻ bị sư tử quật phát chết tươi vì bị ông già lừa đấy. Chúa không bao giờ nói hai lời, Ngài không bao giờ mâu thuẩn với chính mình. Nhớ nha.
Trong 3 chương Kinh Thánh hôm nay, chúng ta cũng thấy được thể nào Phao-lô rất chi là linh động và sáng tạo trong việc sử dụng những lợi thế của mình để công bố Phúc Âm. Ông không hề cứng nhắc hay máy móc.
Điều gì cần nhượng bộ mà không phạm đến những nguyên tắc đức tin – cụ thể trong trường hợp này là … chơi quả đầu … Ronaldo, rồi thì là làm lễ tinh sạch, dâng sinh tế, …  – thì bác í ‘chơi’ ngay, không lăn tăn gì cả.
Cần ‘khoe’ trình độ học vấn, bác ‘tương’ ngay ‘thương hiệu’: đệ tử ruột của giáo sư lừng danh lúc bấy giờ là Gamalien (22: 3); Cần ‘khoe’ đẳng cấp, bác show quốc tịch Rô-ma thứ thiệt ra liền (22: 28). Muốn tiếng Hê-bơ-rơ, có Hê-bơ-rơ; muốn Hy-lạp có Hy-lạp. Đúng là mọi cách cho mọi người, hay nôm na là “mâm nào cũng được”. Đấy, một người truyền giáo, một nhân chứng cho Chúa Giê-xu cần phải được trang bị cách … “đa hệ” như thế.
Mà nội dung “bài giảng” của Phao-lô dành cho thành phần ‘tai to, mặt bự’ này cũng hay lắm cơ. Toàn là chuyện riêng của bác í không à, chuyện bác í gặp Chúa. Đơn giản rứa thôi. Thế mà được Chúa khen rối rít đấy: “Hãy can đảm! Con đã làm chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem thể nào thì con cũng phải làm chứng cho Ta tại Rô-ma thể ấy” (23: 11).
Cái xì-tai “bài giảng” của Phao-lô sẽ được “đi sâu, đi sát” trong phần bình lựng vào ngày mai, còn hôm nay, chúng ta sẽ dừng lại ở sự tể trị của Đức Chúa Trời trong việc bảo vệ tính mạng của Phao-lô.
Chúa ‘xúi’ Phao-lô vào hang hùm, thì Chúa cũng đã có cách bảo đảm an toàn cho đầy tớ của Ngài. Đó có thể là sự xuất hiện kịp thời của viên chỉ huy đội quân La-mã (21: 31-32), hay đơn giản là đặc quyền công dân La Mã của Phao-lô (22: 25), hoặc âm mưu ám sát Phao-lô bị bại lộ (23: 16). Mọi sự cứ tưởng như là ngẫu nhiên, tình cờ nhưng … đã được “cài đặt” bởi Chúa cả đấy.
Chúa mà không cho phép thì dù con người hay ma quỷ có mưu thâm, kế độc cỡ nào đi nữa, cũng không thể nào đụng đến được con dân Đức Chúa Trời.
Anh chị em có được khích lệ khi biết được điều này không?


Chủ Nhật, 8 tháng 11, 2015

LẦN CUỐI XUẤT CHINH

Công Vụ 19-20 
Dù đây đó vẫn có người cho rằng, sứ đồ Phao-lô đã có tổng cộng đến bốn chuyến truyền giáo … xuyên lục địa, nhưng thật ra thì chỉ có 3. Còn chuyến thứ 4 là chuyến … chuyển tù dành cho nghi phạm Phao-lô từ Jerusalem đến đô thành La Mã.
Hai chương Kinh Thánh hôm nay lượt thuật lại chuyến truyền giáo Á-Âu cuối cùng của Phao-lô, trước khi ông về Jerusalem thọ nạn. Và những sự kiện chính trong chuyến du hành này đều dính dáng đến thành phố Ê-phê-sô. (Theo ý người ta tin, thì chính thời gian lưu lại tại đây, Phao-lô đã viết 2 thơ tín gởi Hội Thánh Cô-rinh-tô đấy).
Trước hết là việc Phao-lô gặp một nhóm 12 môn đồ, nhưng … hơi bị khác người. Phải có một điểm gì đó đặc biệt nơi những môn đồ này nên vừa mới chộ mặt là Phao-lô quất ngay câu hỏi: “Từ khi tin, anh em đã nhận lãnh Đức Thánh Linh chưa?”
Và họ cũng thành thật thấy thương luôn: “Chúng tôi chưa từng nghe nói có Đức Thánh Linh nào cả”
Nhiều nhà giải kinh, vì không chấp nhận báp-têm Thánh Linh là một kinh nghiệm khác biệt với kinh nghiệm cứu rỗi, nên đã quy cho 12 môn đồ này … không phải là môn đồ, tức là chưa tin nhận Chúa Giê-xu. Cùng lắm thì họ chỉ là môn đồ của Giăng Báp-tít mà thôi.
Đồng ý là ở đây có cụm từ “báp-têm của Giăng” nhưng giải kinh như thế thì phải gọi là … vãi kinh mới đúng. He he. Ấy là vì, trong sách Công Vụ, từ môn đồ chỉ được dùng để chỉ những người tin thờ Chúa Giê-xu mà thôi. Tiếp theo, hãy chú ý nơi câu hỏi của Phao-lô: “Từ khi TIN …” Điều này có nghĩa là “từ lúc tin Chúa đến giờ anh em đã nhận lãnh Đức Thánh Linh chưa?”
Phao-lô nhận thấy rất rõ điều mà 12 môn đồ này còn thiếu. Đó là lửa, là quyền năng siêu nhiên của Đức Thánh Linh, là sự hiện diện của Đức Thánh Linh.
Nếu có một ai đó nhìn vào đời sống bạn, liệu người ấy có nhận thấy rõ ràng sự thiếu vắng của Đức Thánh Linh – quyền năng, sự hiện diện của Ngài – trong đời sống của bạn không? Còn riêng bạn thì thấy gì khi nhìn vào đời sống của chính mình?
“Từ khi tin, anh em đã nhận lãnh Đức Thánh Linh chưa?” – Nếu ai đó hỏi bạn câu này thì câu trả lời của bạn là gì: Yes, No hay “Tôi chưa từng nghe nói có Đức Thánh Linh nào cả”?
Cũng có thể, câu trả lời của bạn là: “Tôi cũng không chắc lắm”, đúng không?
Nếu người ta gí một đầu dây điện vào người bạn thì bạn có thể nói là “tôi không biết chắc” không. Hoặc là không có điện hoặc là bị giật tưng bừng, chớ không có chuyện là … “em cũng không chắc lắm”. Một khi Đức Thánh Linh ‘chạm’ đến ai thì còn hơn là như vậy nữa.
Rồi, tự kiểm tra đi. Nhận chưa? Nếu chưa thì cứ thành thật khai báo như 12 ông anh Ê-phê-sô ngày xưa kìa, rồi nhờ tôi tớ Chúa đặt tay cầu nguyện cho. Thế nhá.
Tiếp theo, là chuyện 7 tay đuổi quỷ lưu động nhưng bị quỷ rượt cho tơi bời khói lửa luôn. Không biết trước giờ mấy ảnh đuổi quỷ kiểu gì, nhưng từ lúc chứng kiến Phao-lô hành đạo thì các chàng nhà ta liền quyết định bắt chước y khuôn luôn: “nhân Danh Chúa Giê-xu trừ quỷ”.  Kết quả: thân bại danh liệt.
Răng lọa rứa hì? - Ấy là vì mấy ảnh không hề có mối quan hệ cá nhân với Đức Chúa Giê-xu. Đối với bảy ông thầy đuổi quỷ dạo này thì Giê-xu chỉ là Chúa của Phao-lô, chớ không phải là Chúa của riêng mấy ảnh. Thế cho nên, mấy ảnh đâu có quyền sử dụng Danh Giê-xu để hành sự. Mấy ảnh bị quỷ uýnh te tua là vì cái tội dùng cạc-vi-dít … không chính chủ đấy!
Nhiều người đi nhà thờ ngày hôm nay cũng chỉ biết “Chúa Đức Giê-xu mà mục sư rao giảng” hay “Chúa Giê-xu mà người bạn đời của mình tin” thay vì Chúa Giê-xu là Cứu Chúa của riêng cá nhân họ.
Chúa Giê-xu hiện có phải là Cứu Chúa của riêng bạn, hay Ngài chỉ là Chúa của bố mẹ bạn, của mục sư hay của một ai đó trong Hội Thánh mà thôi? Nếu không có một mối quan hệ cá nhân thật sự với Chúa Giê-xu thì bạn không có quyền sử dụng Danh của Ngài. Mà nếu chưa được quyền sử dụng Danh Ngài, thì không những không thể đuổi quỷ như 7 con trai của Sê-va, mà bạn còn phải đi thẳng xuống địa ngục nữa đấy, dù bạn có sinh ra trong gia đình có đạo hay trung tín tham dự thờ phượng Chúa hàng tuần tại nhà thờ đi nữa.
Bài học tiếp theo là cách Phao-lô “biến đổi cộng đồng”. Làm thế nào để cải đạo cả một trung tâm thờ lạy hình tượng nổi tiếng như Ê-phê-sô? Ta không thấy Phao-lô mở chiến dịch công kích hoặc phỉ báng nữ thần Đi-anh, cũng không thấy ông lên án nghề làm hình tượng, hay thậm chí là … cầu nguyện tuần hành, cốt trói, rủa sả ma quỷ gì sất. Việc duy nhất ông làm là “đem các môn đồ riêng ra, và hằng ngày thảo luận trong trường học của Ti-ra-nu. Việc nầy tiếp tục trong hai năm, đến nỗi mọi người ở A-si-a, cả người Do Thái lẫn người Hi Lạp, đều được nghe đạo Chúa.” (19 : 9-10)
Nói cách khác, việc của Phao-lô là chuyên tâm huấn luyện môn đồ. Và chính các môn đồ này sẽ đem sự biến đổi đến toàn xã hội. Một khi mà người người tin Chúa, nhà nhà tin Chúa như thế thì … Đi-anh hay Đi-em gì cũng … đi đứt hết, đúng không. Rồi chuyện làm hình tượng kia, thì không cần phải tuyên truyền, vận động hay biện pháp mạnh gì ráo trọi, … tự nguyện dẹp ngay í mà.
Đấy cứ nhìn cái cảnh bà con cô bác, vốn là các “thầy”, các “cậu”, lũ lượt mang nào kinh, nào sách, nào ấn, nào chú, … đến đốt thì biết (19: 19). Người ta phỏng tính rằng để có được 50.000 dracma ấy (các bản dịch tiếng Việt: đồng bạc hay miếng bạc) thì một người phải làm việc trong vòng 168 năm (300 ngày/năm) cơ đấy!
Rõ ràng là Phao-lô đã thành công rất lớn qua người khác. Đó là “Sô-ba-tê, con Pi-ru, quê ở Bê-rê; A-ri-tạc và Sê-cun-đu quê ở Tê-sa-lô-ni-ca; Gai-út quê ở Đẹt-bơ; Ty-chi-cơ và Trô-phim quê ở A-si-a và Ti-mô-thê” (20: 4), và hẳn nhiên là còn nhiều người khác nữa mà không được nêu tên.
Đúng là một chiến lược tuyệt vời. Tuy nhiên, dành trọn hai năm chỉ để huấn luyện một số người lại là một phương cách mà ít người hầu việc Chúa ngày nay thích noi theo.
Còn khối điều để học tập từ chuyến cuối này của bác Phao-lô đấy, song … “thời lượng hôm nay đến đây là hết rồi. Xin chân thành cảm ơn quý vị và các bạn. Hẹn gặp lại quý vị và các bạn trong chương trình … Bộ Hành ngày mai”.
Bảo trọng, bảo trọng

Thứ Bảy, 7 tháng 11, 2015

NGHE, THẤY LÀ TIN

Dừng Chân Lần Thứ 40 
NHÌN LẠI
Những phép lạ mà Chúa Giê-xu thực hiện đã xác chứng cho những sứ điệp của Ngài. Khi Chúa phán “Ta là sự sống lại và sự sống” (Giăng 11: 25), thì Ngài đúng là như thế! Và để xác chứng cho lời tuyên bố rằng mình là nguồn của sự sống, Chúa đã khiến La-xa-rơ sống lại từ phần mộ.
Tường thuật của Giăng về sự chết, sự chôn và sự sống lại của Chúa Giê-xu mang tính cách cá nhân và vô cùng cảm động của một người có nickname là “môn đệ được Chúa yêu” (Giăng 13: 23).
Chương cuối cùng của Phúc Âm Giăng thuật lại bữa ăn sáng giữa Chúa Giê-xu với 7 môn đệ của Ngài. Bảy chàng đến trong tâm trạng chán chường và đã rất sẵn sàng để từ bỏ … cuộc chơi; nhưng khi ra về thì họ đã được … hưng phấn tràn trề, nguyện một lòng theo Chúa … chết bỏ luôn. He he
Sách Công Vụ kể tiếp câu chuyện về những môn đệ của Chúa Giê-xu khi họ đi ra trong quyền năng của Đức Thánh Linh để công bố tin mừng về Chúa, về vị Lãnh Tụ đã sống lại từ trong cõi chết của họ. Khởi đầu tại Jerusalem, sau đó là tại xứ Giu-đê và Samari và cuối cùng là đến tận cùng thế giới lúc bấy giờ.
Hội Thánh thời Tân Ước đã thực thi sứ vụ thiên thượng của mình bất chấp sự bắt bớ từ bên ngoài và những nan đề nội tại.
NHÌN LÊN
Có một sự khác biệt ‘ghê gớm’ giữa một nhân chứng và một nhân viên quảng cáo.
Nhân chứng là một người chứng kiến toàn bộ sự việc, hoặc đã từng sử dụng hay nếm trải điều đó (nếu là một vật dụng, một sản phẩm) hoặc là đã từng ‘chung đụng’, gần gũi, chia ngọt sẻ bùi (nếu là con người). Còn nhân viên quảng cáo thì không nhất thiết phải là người đã từng sử dụng sản phẩm đó, vật dụng đó. Rất nhiều người mẫu, diễn viên điện ảnh hay vận động viên nổi tiếng quảng cáo cho sản phẩm này, vật dụng kia không có nghĩa là những người ấy đã từng hay thường xuyên sử dụng sản phẩm ấy hay vật dụng đó. Thế cho nên, khi quảng cáo hàng hóa thì thực chất các công ty bỏ tiền ra thuê những người nổi tiếng để ‘dụ’ khách hàng đấy thôi.
Chúng ta được chọn lựa để làm nhân chứng của Chúa Giê-xu chớ không phải làm người quảng cáo cho Ngài. Chúa không cần quảng cáo, Chúa không cần ‘cò mồi’ hay ‘chim mồi’, và Chúa cũng không bao giờ dụ dỗ ai tin nhận Ngài.
Chỉ có người nào trực tiếp chứng kiến và nghe một điều gì đấy về Chúa Giê-xu thì mới đủ tư cách để làm nhân chứng cho Ngài. Chính xác hơn là ri nè: chỉ có người nào kinh nghiệm Chúa hay gặp gỡ Chúa cách cá nhân qua những điều Chúa đã làm trong đời sống cá nhân của mình thì mới đủ tư cách để làm nhân chứng cho Chúa Giê-xu. “Điều mắt chúng tôi đã thấy, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã sờ về Ngôi Lời sự sống … Điều chúng tôi đã thấy và nghe, chúng tôi loan báo cho anh chị em ...”  (1 Giăng 1: 1, 3).
Nếu đã có những dấu hiệu của một sự sống mới trong cuộc đời mình, thì bạn đang là ứng viên để làm một nhân chứng cho Chúa của mình được rồi đấy. Nhớ là, đừng kỳ vọng rằng Đức Chúa Trời sẽ dùng bạn như một ngọn hải đăng tại một nơi nào đấy, nếu như Ngài không thể dùng bạn như một ngọn nến ngay tại chỗ bạn đang sống và làm việc hiện thời.
NHÌN TỚI
Sách Công Vụ là một bảng tường thuật tuyệt vời về những người nam, người nữ – những con người với những lời chứng chân thật mà họ đã kinh nghiệm cách trực tiếp. Đa phần họ không phải là những diễn giả được kinh qua trường lớp hay những học giả có … ‘số má’. Họ chỉ là những con người bình thường với một đời sống đã được đụng chạm và được biến đổi cho cõi đời đời!
Sau cuộc gặp mang tính đổi đời với Chúa Giê-xu, họ vâng lịnh Chúa “đi và nói”. Khắp mọi nơi họ đến, quyền năng Chúa được hiển lộ. Họ làm chứng nhân cho Chúa vừa bằng lời chứng của miệng mình, vừa bằng chính cuộc đời được biến đổi của họ nữa.
Ngày nay cũng vậy, những người xung quanh bạn có thể không bao giờ đến nhà thờ hoặc truy cập vào các trang mạng Cơ-đốc. Thế nhưng họ sẽ lắng nghe Phúc Âm “từ nơi chính bạn” tại công ty của bạn, tại nhà của bạn, tại trường học của bạn, …?
Răng rứa? - Ấy là vì họ biết bạn, và họ có thể nghe tận tai, thấy tận mắt những sự thay đổi mà Chúa Giê-xu đã làm trong đời sống của bạn. Một khi đã chứng kiến sự thay đổi đó, thì chắc chắn họ sẽ tìm đến bạn để biết điều gì hoặc ai đã làm như thế.
Và khi ấy, thì bạn sẽ nói gì hỡi nhân chứng trung thành của Chúa Cứu Thế Giê-xu?


Thứ Sáu, 6 tháng 11, 2015

LẦN NỮA XUẤT CHINH

Công Vụ 16-18 
Khoảng 5 năm sau chuyến ‘vi hành’ lần thứ nhất, Phao-lô lại quyết định rời An-ti-ốt, để một lần nữa lên đường xuất chinh. Tuy gặp sự cố ngay lúc khởi hành – chia tay với Banaba – nhưng chuyến truyền giáo lần thứ hai này vẫn … rất chi là ô-kơ trong ơn của Chúa.
Ta có thể học được gì từ hành trình truyền giáo lần thứ hai của sứ đồ Phao-lô trong 3 chương Kinh Thánh hôm nay?
Trước hết, đó là lòng đam mê rao giảng về Đức Chúa Giê-xu Christ, Đấng đã chết và đã sống lại. Không chỉ rao giảng cho đồng hương người Do Thái của mình, Phao-lô còn giảng cho cả người ngoại quốc nữa.
Việc gì cũng vậy, chớ không riêng gì chứng đạo. Không có đam mê thì sớm muộn gì cũng “buông súng” thôi. Còn nếu đam mê ấy à … khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Cứ nhìn cái cảnh Phao-lô nỗ lực lúc xuyên Nam (Phirigi), khi ngược Bắc (Bithini) mà vẫn bị ‘bế quan tỏa cảng’, nhưng vẫn không chùn, thì sẽ biết được bác í … “nóng trong người” là thể nào. Đây chính là tình trạng mà Kinh Thánh bảo là “sự sốt sắng về nhà Chúa thiêu đốt tôi”.
Nhiệt thành như thế, hừng hực như thế, cuồn cuộn như thế chả trách bác í đi đến đâu là cháy đến đấy, là hút hàng đến đấy, là “gây rối loạn thành phố”, “rối loạn trong thiên hạ” đến đấy (16: 20; 17: 6).
Một khi mà lòng ta còn bùng cháy lửa nhiệt thành thì không cần phải có ai đó mời gọi; Một khi mà lòng ta còn đam mê chinh phục linh hồn tội nhân thì ngoại cảnh khó khăn xung quanh chẳng là … ‘nghĩa địa’ gì. He he.
Bạn có (hoặc có còn) được lửa Ngũ Tuần kiểu ni đang bùng cháy trong lòng không? Nếu câu trả lời là không, thì xin vui lòng dành thì giờ đọc lại sách Công Vụ từ chương đầu bạn nhé. Hãy đọc với tấm lòng mở ra và trông đợi sự mặc khải của Thánh Linh Đức Chúa Trời.
Một chiếc xe (dù là xe đạp, xe máy hay xe ô-tô) đang chuyển động thì bao giờ cũng dễ dàng “bẻ lái” hơn là lúc ‘hắn’ đứng yên. Đúng không? Cũng một thể ấy, bạn sẽ rất dễ dàng nhận biết (hoặc ‘nghe’ được) sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh khi đang ‘chạy’, tức là khi đang hoạt động chớ không phải khi ngồi chờ. Nhớ nha.
Bài học tiếp theo là các trọng điểm mà Phao-lô nhắm đến trong chiến lược truyền giáo của mình. Trong sự dẫn dắt của Đức Thánh Linh, ông luôn nhắm đến các thành phố, tức là các trung tâm kinh tế, tôn giáo, văn hóa, dân cư và các hoạt động xã hội của một khu vực, một vùng miền nào đó. Nói cách khác, Phao-lô luôn nhắm đến các ‘đầu não của địch’, theo kiểu đánh rắn thì phải đánh dập đầu.
Với chiến lược này thì so ra ngày nay, hội thánh thường làm theo hướng ngược lại: tập trung vào vùng ngoại biên, ngoại thành và ngoại … gì cũng được, miễn ngoài là được. Chả trách tại sao, mà hò hét hoài nhưng ‘chúng’ vẫn cứ … sống nhăn răng.
Một điểm khác mà chúng ta cần phải lưu ý là khắp mọi nơi, luôn có những con người sẵn lòng đối với Phúc Âm, luôn có những con người sẵn sàng tiếp nhận Chúa. Đó có thể là một nữ thương gia (16: 14-15), một viên quản ngục (16: 34), một Gia-sôn (17: 5), một Đê-ni hay một Đamari (17: 33). Mùa gặt thì luôn luôn … rất trúng. Mùa gặt thì không bao giờ thiếu, chỉ thiếu mỗi con gặt.
Thế cho nên, nơi đâu còn có người rao giảng về Đấng Christ, nơi đó còn có người tiếp nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa, kể cả hàng quan chức và giới thượng lưu.
Bạn có biết tại sao xung quanh nơi ở, nơi làm việc của mình còn có quá nhiều người không thờ phượng Chúa Giê-xu không? – Ấy là vì tại nơi đó đang thiếu con gặt đấy; tại nơi đó còn thiếu những con người sốt sắng rao giảng về Đấng Christ đấy. Tại sao bạn không thể là một Phao-lô của Chúa Giê-xu cho những người đang sống và làm việc trong công ty, trong cơ quan, hay trong khu vực của bạn?
Khi sống đời nhân chứng cho Chúa Giê-xu, mỗi một chúng ta cần phải chấp nhận một sự thật. Đó là sự chống đối, bắt bớ luôn theo ta như hình với bóng. Trừ khi bạn … ‘co vòi’, chấp nhận ‘một miếng băng dính’ ngang mồm, còn nếu bạn mở miệng làm chứng về Chúa Giê-xu thì y như rằng sẽ bị chúng ‘dập’ tưng bừng luôn. Nhẹ thì nói xách mé, xa gần; còn nặng thì ra mặt công kích, cô lập, vu khống, ngăn cản, thưa kiện, và không loại trừ cả việc thượng cẳng chân, hạ cẳng tay.
Đừng la toáng lên rằng thì là “tôi có làm gì sai đâu, tại sao các người lại chống đối hay hãm hại tôi”. Cứ nhìn cảnh Phao-lô thì biết. Trong vòng truyền giáo thứ hai này, bác í cũng bị chúng chơi cho lên bờ xuống ruộng luôn đấy chớ. Chống đối, vu khống bởi cái đám ‘quần chúng tự phát’ thì không là cái đinh gì nhé, bác í còn bị bắt, bị đánh cho bầm dập, rồi bị quẳng luôn vào ngục mà không qua xét xử gì ráo trọi.
Không phải con người đâu anh chị em ơi, đằng sau những hành động thù hận ngút ngàn kia là bàn tay của ma quỷ đấy. Ma quỷ luôn muốn cầm giữ con người, không muốn con người được tự do thờ phượng Đức Chúa Trời. Ma quỷ tìm đủ mọi cách để làm cho những chiến binh của Chúa sợ hãi, chùn tay cứu người.
Thế nhưng, khi người của Chúa sẵn sàng ‘chơi tới bến’ thì điều gì sẽ xảy ra? – Quyền phép của Chúa liên tục được bày tỏ, hết người này đến người khác được cứu, được trở nên môn đệ của Chúa, hết thành phố này đến thành phố khác được chinh phục vào trong vương quốc Đức Chúa Trời.
Chịu khổ vì cớ Danh Chúa là một phần phước (Mathiơ 5: 10-11), là một đặc ân dành cho người tin thờ Chúa (Công vụ 5: 40-41). Chính vì lý do đó mà Phao-lô và Sila đã có thể ca ngợi Chúa vang lừng khi chân đang bị cùm trong tù, với thân thể vừa bị đòn nhừ tử (16: 25-26).
Có ai đó bảo rằng, cơn động đất xảy ra là vì Đức Chúa Trời nhịp chân đấy. Khi nghe Phao-lô và Sila cất giọng nam trầm, giữa đêm khuya thanh vắng, Chúa thích quá và bắt đầu nhịp chân. Càng hưng phấn, nhịp chân của Chúa càng mạnh dần. Mọi thứ rung rinh. Động đất. Không biết rung lắc kiểu gì mà khóa cửa, khóa xiềng đều bung ra hết. Đúng là trên cả tuyệt vời, đúng không?
Hát khi vui thì ai cũng hát được, còn hát ngợi khen Chúa vào lúc “giữa đêm đen tối”, vào lúc bị bắt bớ, vào lúc đối diện nan đề thì chỉ có những người hiểu biết ý muốn Chúa và trọn lòng tin cậy Chúa mới có thể làm được mà thôi.
Bạn có thể làm một người “hát giữa khuya” như thế được chăng?


Thứ Năm, 5 tháng 11, 2015

Phụ Lục: TÊ ... BỐN MÓN

Nói thêm về chuyện ăn của người tin thờ Chúa: Món gì được ăn và món gì không được ăn.
Về vấn đề này, chỉ cần lên được thực đơn … CẤM là đủ. Vì một khi ta đã có được ‘thực đơn cấm’ rồi, thì hẵn nhiên, tất cả những món gì còn lại đều được quyền vui hưởng.
“Vì Đức Thánh Linh và chúng tôi quyết định không chất thêm gánh nặng nào khác trên anh em, ngoại trừ các điều cần thiết này: Phải kiêng của cúng thần tượng, huyết cùng các thú vật chết ngạt và đừng gian dâm. Anh em giữ các điều ấy là tốt. Kính chào anh em!”  (Công vụ 15: 28-29)
Thực đơn CẤM gồm ‘Tê 4 món’: Tiết – Trứng – Thịt – Tế
Món cuối TẾ - tức là thức ăn các loại đã dâng cúng cho vong linh người chết, hay tà ma, gọi chung là cỗ cúng tế - thì không phải bàn cãi gì. Vì việc người tin thờ Chúa không ăn cỗ cúng là rõ rồi. (Anh chị em nào còn muốn ngâm kíu thêm thì có thể xem Công vụ 15: 20; 1Corinhto 8; 10: 14-22 nhé)
Món thứ 1 – TIẾT: tức là huyết hay máu. Gọi kiểu gì thì cũng là nó đó thôi.
Người tin Chúa không được ăn các món ăn được chế biến bằng máu. Chẳng hạn, tiết canh, dồi, cháo huyết hay ẩn danh là cháo lòng, rượu tiết dê, … Kinh Thánh không phân biệt sống hay chín gì cả, hễ cứ TIẾT là TIỆT! Tiết gì cũng tiệt!
Bỏ qua tất cả những phát hiện của y học về vi-rút gây bệnh qua đường máu, bỏ qua tất cả những tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, người tin Chúa không được dùng máu để làm thức ăn, thức uống, đơn giản là vì đó là mạng lệnh của Chúa. Lệnh cấm này chẳng liên quan gì đến văn hóa Trung Đông, cũng chẳng dính dáng gì đến luật pháp Môi-se cả. Lệnh cấm này có từ thời Nô-ê chưa … say rượu cơ đấy. (Sáng thế ký 9: 4-5)
Món thứ 2 – TRỨNG:
Không phải trứng ốp-la, trứng rán, trứng muối, hay trứng luộc mà là trứng … lộn.
Thôi thì người ta cãi nhau chí chóe, kẻ bảo xực ô-kơ, người thì bảo ‘chớ có đụng đến’. Nguyên nhân cũng tại cụm từ “thú vật chết ngạt hay ngộp” trong các bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt.
Để đỡ phải giải thích lòng vòng, sau một thời gian ‘truy cứu’ kính thưa các thể loại Tây, Tàu, và ... Gờ-rét, MSB tui thấy các câu 20, và 29 của Công vụ 15 này, bản Công Giáo dịch rõ nghĩa nhất. “… kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, KIÊNG ĂN THỊT LOÀI VẬT KHÔNG CẮT TIẾT, và tránh gian dâm. …"  Vừa phù hợp với văn cảnh, vừa lột được nguyên nghĩa.
Đến đây, nếu ai xem trứng lộn là thú vật, thì phải đem trứng ra mà cắt tiết rồi hãy luộc mà ăn nhá; còn nếu ai xem trứng lộn là … trứng thì không cần cắt tiết! Thế nhá.
Trường hợp có người tuy xem trứng lộn là … trứng nhưng vẫn cứ ‘lăn tăn’ – vì trong ấy … kiểu gì cũng còn có máu – thì dù có thèm rỏ dãi cũng chớ nên đụng đến ‘hắn’ làm gì. Vì Kinh Thánh dạy: “… Phước cho người nào không tự lên án mình về những gì mình đã chấp nhận! Nhưng người nào còn nghi ngại mà cứ ăn thì bị lên án rồi, vì không hành động bởi đức tin. Việc gì không đến từ đức tin đều là tội lỗi” (Roma 14: 22-23).
Trứng lộn … chết ngạt hay không ngạt, đúng là cũng có chuyện để chí chóe, song có những ‘em’ rõ ràng là chết ngạt, tức là chết mà không được cắt tiết, nhưng phần đông con dân nhà Chúa ta, cứ vô tư ‘chén’ tì tì mà lại không théc méc gì. Thế mới lọa chứ.
Đó là các em chim cút, chim sẻ, và thậm chí cả chim … cu. He he. Nào là chiên bơ, nào là nướng vĩ, nào là rô-ti, … Đa số các ‘em’ bị túm giò, đập đầu vào tường nghe đánh bụp, nhưng đại trà hơn là cả bọn được tặng cho nguyên nồi nước sôi vừa nhấc khỏi lò!
Ây-da, hóa ra tội lỗi, tội lỗi không nằm ở trứng, mà là nằm ở … chim đó nha mấy cưng. He he. Chiếu theo luật rồi tự xử đi nghe.
Rồi, giờ chuyển sang THỊT, món thứ 3.
Thịt ở đây là thịt bồ câu, thịt chó, thịt mèo, thịt rắn và thịt … kỳ đà. Hà hà.
Vào thẳng vấn đề luôn thì người tin thờ Chúa ngày nay, chẳng liên quan gì đến những quy định ‘an toàn vệ sinh thực phẩm’ được chép trong các sách Lê-vi ký 11: 1-47 và Phục Truyền 14: 3-21 cả. Đó là một phần trong hệ thống luật Môi-se chỉ dành riêng cho người Do Thái mà thôi.
Thế tại sao có nhiều tôi tớ, nhiều con dân Chúa không ăn mấy món ‘đẹt soản’ nêu trên? - Có nhiều lý do mà người ta không ăn thịt những loại thú và bò sát trên, nhưng chắc chắn là không phải vì Chúa cấm không được ăn.
Người tin Chúa được quyền ăn tất cả mọi loài thú đồng, chim trời, bò sát. Vâng. Ăn gì cũng được, trừ ĂN TRỘM. Ăn gì cũng được trừ ĂN CẮP.
Một trong những lý do mà nhiều tôi tớ và con dân Chúa, cụ thể là trên đất Malaysia này, từ chối không ăn bồ câu, thịt chó, thịt mèo và thịt … kỳ đà vì 99,9% là ‘hàng do ăn trộm mà có’.
Lời biện minh cũ mèm là ‘thú hoang’, là ‘vô chủ’, là dạng … mây lang thang mà Thầy. Ừ, hoang đấy nhưng tại sao phải lén lút đi bắt? Hoang mà sao nếu dân địa phương người ta bắt gặp, nếu police phát hiện thì lại phải chịu án tù?
Phạm pháp thì dù có bị phát hiện hay không cũng là phạm pháp. Mà đã là con dân Chúa thì chúng ta không chỉ chấp hành luật Đời mà còn bị soi chiếu bởi luật Trời nữa đấy. Luật Trời trong trường hợp này là ‘ngươi chớ trộm cắp’. Và việc từ chối không ăn các loại thịt ‘do trộm cắp mà có’ cũng là một cách giữ điều răn kia vậy.
Nhân đây, MSB cũng muốn nhắn gởi ngoài lề một chút với tất cả anh chị em, nhất là những người đang hầu việc Chúa: nếu muốn được Chúa ban phước dồi dào thì đừng tàng trữ, thực ra là đang sử dụng, những phần mềm (software) ăn cắp trong máy tính của mình. Đừng ‘ní nựng’ là … ‘vì chưng bác mẹ tôi nghèo, cho nên em phải …’ nữa nhé.
Chả lẽ, hễ cứ vịn cớ nghèo thì được quyền coi thường pháp luật sao.
Thế nhá, nhá.


LẦN ĐẦU XUẤT CHINH

Công Vụ 13-15 
Ba chương Kinh Thánh hôm nay dành phần lớn thời lượng tường thuật hành trình truyền giáo hải ngoại lần thứ nhất do Phao-lô làm trưởng đoàn. Từ trước đến lúc ấy, việc truyền giáo hải ngoại của con dân Chúa, tôi tớ Chúa toàn là BỊ đi không à (8: 4; 11: 19). Thế cho nên, việc Banaba và Sau-lơ, tức Phao-lô, được hội thánh An-ti-ốt sai phái ra đi theo lịnh Chúa, được gọi lần đầu xuất quân là rứa đo.
Hội Thánh An-ti-ốt cử ai đi truyền giáo ấy nhỉ? – Hai vị lãnh đạo ‘chiến’ nhất của họ. Chính Banaba và Sau-lơ là những lãnh đạo đầu tiên của An-ti-ốt, đúng không.
Đấy, đã CHO là phải cho “hàng xịn” như thế, GIEO là phải gieo những hạt giống thuộc hàng tốp 5 như thế (13: 1), chớ không phải top ten đâu nha! Chả trách là đội hình của 2 bác í đi đến đâu là chiến thắng oanh liệt đến đấy. Gieo gì gặt nấy mà lị.
Nếu Hội Thánh ngày nay mà dám theo gương An-ti-ốt xưa, luôn cử “đội hình một” ra đi, thay vì “đội hình hai” hay thậm chí “đội hình … ngoại hạng”, (tức không xếp được hạng nào cả) thì chắc là những cánh đồng truyền giáo đầy tiềm năng đã không phải chịu cảnh lúa chín rục khắp nơi.
Vâng, chiến thắng thì đúng là như chẻ tre, nhưng song hành với chiến thắng đó là sự chống đối đủ mọi hình thức, và thậm chí là đổ máu, mất mạng trong suốt cuộc hành trình (14: 19-20). Truyền giáo hải ngoại là một cuộc chiến khốc liệt, bốn bề thọ địch. Cho nên, nếu ai đó cho rằng chỉ cần mấy anh chị sanh dziên Thần học hàm thụ là … ‘dư sức qua cầu’ thì đúng là hơi bị lạc quan tếu rồi đấy. Mà lạc quan tếu ở chiến trường thì bao giờ cũng trả giá đắt lắm đấy nhá.
Cứ nhìn cái cảnh anh John trẻ tuổi sớm lìa bỏ cuộc chơi (13: 13), thì đủ biết tình hình ‘keng thẻng’ thế nào. Được tháp tùng hai đại sư có số má cỡ đấy mà còn … mới đầu đường đã đứt dép thì huống chi chung đoàn với hạng vô danh. Đấy, bảo trọng, bảo trọng nha các cha, các anh!
Một điểm khác cần lưu ý, liên quan đến vai trò của Hội Thánh địa phương trong việc sai phái giáo sĩ ra đi. Banaba và Sau-lơ được Hội Thánh An-ti-ốt biệt riêng ra để thực hiện công vụ mà Chúa ĐÃ kêu gọi họ (13: 2). Điều này có nghĩa là Hội Thánh chỉ XÁC NHẬN những gì mà Chúa đã tỏ bày trước đó cho Banaba và Sau-lơ mà thôi.
Cho nên, nếu có ai đó nói tiên tri (mà chính xác thì phải là sử dụng ân tứ lời tri thức) cho bạn về một điều gì đấy – đặc biệt khi điều ấy liên quan đến chức vụ hầu việc Chúa – thì những gì người đó ‘phán’ chỉ xác nhận những gì mà bạn đã cảm nhận trong lòng mình mà thôi (dù rõ ràng hay còn tù mù). Trường hợp, có ai đó bảo rằng Chúa chọn bạn làm việc này, hay sai bạn đến nơi kia mà trong lòng bạn không hề có chút ý tưởng hay cảm nhận gì đến chuyện đấy thì cách khôn ngoan nhất là … QUÊN ‘chúng’ đi. Thế nhá.
Trong chương 15, chúng ta lại một lần nữa học được cách giải quyết những bất đồng trong Hội Thánh. Lần trước là chuyện thịt (6: 1), còn lần này là chuyện … da (thì bì đích thực là da mà lị). He he.
Mấy bác Cơ-đốc nhân gốc Do Thái thì dứt khoát rằng, dân ngoại bang tin thờ Chúa Giê-xu thì cũng phải tuân thủ đầy đủ các thủ tục theo luật định như một người Do Thái chính gốc. Còn nếu không ấy à: chưa được cứu đâu cưng (15: 1). Trong khi đó, Phao-lô và Banaba thì ‘bênh’ Cơ-đốc nhân gốc ngoại bang ra mặt luôn. Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, và rứa là cãi nhau tưng bừng luôn.
Giải pháp: Triệu tập hội nghị toàn thể. Tất cả đều được quyền phát biểu và phản biện. Rất chi là dân chủ. Kết cuộc, hội nghị đi đến quyết định cuối cùng và ra tuyên bố chung:
“Vì Đức Thánh Linh và chúng tôi đã đồng ý rằng chẳng nên chất thêm gánh nặng cho anh em, ngoại trừ những điều cần yếu nầy: Phải kiêng của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngạt, và chớ gian dâm”  (15: 28-29)
Ai nấy đều vui vẽ, thỏa lòng, không có chuyện “bên thua cuộc” hậm hực, chống đối hay bất tín nhiệm gì cả. Hãy lưu ý cụm từ “Đức Thánh Linh và chúng tôi đã đồng ý”. Điều này nói lên rằng, những người tham dự đã thật sự khiêm nhường, cởi mở, sẵn sàng xem xét và chấp nhận ý kiến của người khác. Họ có bất đồng về quan điểm nhưng không bất hòa. Họ thật sự biết lắng nghe, biết chấp nhận lẽ phải chớ không phải khăng khăng cho rằng, ý kiến của mình hay quan điểm của mình là tuyệt đối đúng. Vì không có sự cố chấp nên họ dễ dàng nghe được tiếng phán của Đức Thánh Linh.
Quyết định cuối cùng của Hội Nghị Jerusalem vẫn còn nguyên giá trị cho đời nay và cho muôn đời sau đối với những Cơ-đốc nhân không phải là người Do Thái. Theo đó, một người tin thờ Chúa Giê-xu chỉ kiêng đúng bốn món: của cúng thần tượng, huyết hay tiết, thịt thú vật chết ngạt và gian dâm, tức sinh hoạt tình dục với … hàng ‘không chính chủ’. Của cúng, tiết hay huyết, và gian dâm thì rõ như ban ngày, không có gì bàn cãi cả. Song thế nào là “thú vật chết ngạt” thì đây đó còn có chút lăn tăn.
Người thì bảo: chết ngạt là chết tự nhiên, kiểu chết dịch, chết bệnh; kẻ lại cho rằng, chết ngạt là chết … uất ức, tức là chưa được cắt tiết, kiểu bị vặn cổ hay bị dội hoặc dìm nước sôi. Vì mỗi người hiểu mỗi cách nên người thì ăn tất tần tật, kẻ lại kiêng một số món khoái khẩu, chẳng hạn, trứng vịt lộn hay món … cút chiên bơ.
Vì vẫn còn cãi nhau chí chóe, nên “thú vật chết ngạt” nên được xếp vào dạng ‘đất đang tranh chấp’, đúng không. Mà đã là ‘đất đang tranh chấp’ thì người khôn ngoan sẽ không bao giờ can dự vào. Rứa thôi.
Tuy tuyên bố chung Jerusalem là cấm (ăn hoặc uống) huyết cách rõ ràng như thế, nhưng hiện vẫn có nhiều sư (chớ không phải dân) cố chày chối rằng thì là … ăn được. Đúng là mấy sư … khát máu! He he.
Thèm chi mà mụ mị rứa mấy cha. Thế mấy cha, mấy anh không biết rằng, máu (hay huyết, tiết gì cũng rứa) bị cấm ăn (uống) từ thời xa lắc xa lơ, từ thuở Nô-ê vừa ra khỏi tàu à (Sáng thế ký 9)?
Vâng, tiết hay huyết có thể ăn được, có thể uống được, nhưng nó KHÔNG PHẢI LÀ THỨ DÙNG ĐỂ ĂN, ĐỂ UỐNG. Điều này cũng giống như có nhiều loại thú vật, súc vật, côn trùng, … con người có thể ăn nhưng chúng lại thuộc vào nhóm mà Đức Chúa Trời không chỉ định làm thức ăn cho loài người. Rứa đo.
Đầu chương 15, người ta bất đồng với nhau nhưng không đến chỗ bất hòa. Thế nhưng, cuối chương 15 thì kết cuộc lại không được như thế. Banaba và Phao-lô đã “you sugar you, I sugar I”, đường ai nấy đi, vì anh John trẻ đào ngũ khi xưa. Kinh Thánh không đưa ra nhận định gì về việc ai đúng ai sai trong chuyện này cả. Chỉ biết rằng, mãi về sau, lúc sắp qua đời, Phao-lô mới tiết lộ rằng, “Mác (tức John) rất hữu ích cho chức vụ của” ông mà thôi (2 Timothe 4: 11).
Thế mới hay, không phải đã là lãnh đạo thì lúc nào cũng đúng đâu nha. Điều quan trọng là người ấy có biết nhận ra sai lầm của mình và sửa sai hay không. Nhớ nha.