Chủ Nhật, 22 tháng 11, 2015

SỐNG LẠI, GÚT-BAI!

1 Corinhto 15-16 
Có hai ‘chiện’ cuối cùng tại hội thánh Cô-rinh-tô đã … ‘hút hồn’ Phao-lô trước lúc chấm dứt bức ‘da-meo’ thứ nhất. Đó là tình trạng không tin có sự sống lại về phần xác và chuyện cứu trợ cho các thánh đồ tại Jerusalem. Chương 15, Phao-lô dành riêng để luận về sự sống lại, còn trong chương cuối cùng, ông dành để nói lời tạm biệt: Gút-bai! (good bye)
Phao-lô đã xâu chuỗi những hậu quả sẽ xảy ra theo hiệu ứng đô-mi-nô, nếu như xác thân này của ta sau khi chết sẽ chẳng được phục sinh:
Nếu Đấng Christ, tức Chúa Cứu Thế, về phần xác, đã không sống lại từ kẻ chết thì những bài giảng về Ngài chẳng còn ý nghĩa gì hết ‘gáo’; đức tin của quý dzị sẽ thành ra đứt … bóng; quí dzị vẫn còn … ‘nguyên con’ trong tội lỗi của mình; rồi những người tin thờ Chúa sẽ qua đời trong ‘tiệt dzọng’ và chính quí dzị sẽ là những người đáng thương hơn hết vì cớ … ‘quả’ lừa quá mạng mà mình đã bị dính có tên gọi là đức tin!
Rồi cũng chỉ cần một cú bẻ lái mềm như lụa là bác Pôl đã … dựng lại được từng con cờ đô-mi-nô đã đổ kia với thực chứng hùng hồn rằng, “thật sự thì Đấng Christ đã từ cõi chết sống lại”. Thêm vào đó là ‘những bằng chứng không thể chối cãi’ từ trật tự sự sống lại (15: 20-28), đến những ngoại chứng của việc hầu việc Chúa … ‘chết bỏ’ của chính ông, cũng như của bao nhiêu tôi con Chúa khác khắp mọi nơi (15: 30-32). Và thậm chí, theo Phao-lô, kể cả người ngoại cũng còn tin vào sự sống lại của người chết ở ngày sau nữa cơ mà (15: 29).
“Hãy ăn, hãy uống đi, vì ngày mai chúng ta sẽ chết!” (15 : 32) nghe quen quá, đúng hôn? Phiên bản hiện đại của nó là “yêu nhau đi đời đâu có nghĩa chi” (Besame Mucho – Yêu Nhau Đi) mà Lynda Trang Đài từng rú réo đấy. Đó cũng chính là chân dung của nhân loại ngày nay. Một cuộc đời chỉ thuần có vật chất, vật vã hay quay cuồng, tranh giành hay phấn đấu, chỉ để cung phụng cho một mục tiêu duy nhất: ăn và uống! Một cuộc đời vô vọng và vô nghĩa dường bao.
Nhưng thật sự thì chết không phải là hết; “Nhưng thật sự thì Đấng Christ đã từ cõi chết sống lại”. Thật sự thì không chỉ có đời này mà còn có đời sau nữa. Ngay cả những ông to, bà lớn luôn to mồm vỗ ngực ta đây là vô thần chánh hiệu con nai vàng cũng tin sái cổ rằng chết không phải là hết. Đúng y bon như bác Pôl đã viện dẫn rằng, người ngoại cũng tin có đời sau cơ mà (nên họ đã mần ‘phép’ rửa cho mấy anh chết … chưa kịp rửa!)
Vì tin có đời sau, vì tin còn có sự sống lại của xác thân này ở đời sau nên lối sống của người theo Chúa luôn có được một “cơ chế đạo đức giám sát hữu hiệu”. Vì tin có đời sau, mà thật sự là có đời sau, nên người theo Chúa không bao giờ dành toàn bộ nguồn lực (sức lực, tài lực, vật lực) mà mình có (thật ra thì cũng chẳng bởi tự mình mà có) chỉ để đạt được những gì thuộc về cõi tạm này mà thôi. Và cũng vì tin có đời sau nên dù có trong cảnh ngộ nào hay đối diện với bất kỳ thách thức nào đi nữa thì cuộc đời của người có Chúa vẫn luôn tràn đầy hy vọng và luôn thật sự có ý nghĩa.
Chính niềm tin vào sự sống lại của Đức Chúa Giê-xu Christ là nền tảng đức tin căn bản của Đạo Chúa, tức Cơ-đốc giáo đấy, hỡi anh chị em. Và đó cũng là lý do mà Phao-lô đã lớn tiếng cảnh báo đối với tín hữu còn bán tín bán nghi về lẽ đạo này rằng, “Đừng để bị mắc lừa: ‘Bạn bè xấu làm hư tính nết tốt’.Hãy giác ngộ mà sống ngay lành, và đừng phạm tội nữa, vì có một số người sống như không biết gì về Đức Chúa Trời. Tôi nói thế để anh chị em cảm thấy xấu hổ.” (15: 33-34)
Trong chương 15 này, sứ đồ Phao-lô cũng mô tả thân thể phục sinh mà Chúa sắm sẵn cho chúng ta trong tương lai, và đó mới thật sự là một bo-đì (body) … chuẩn không cần chỉnh, một bo-đì đáng để đợi trông! Này nhé:
Đó sẽ là một bo-đì bất tử (15: 42), không có chuyện ‘xếp ly’, ‘xuống cấp’ hay ‘xuống sắc’ do tuổi tác. Cứ tươi xanh mãi rứa đo. Đó sẽ là một thân thể vinh hiển và cường tráng (15: 43), đẹp muôn đời và mạnh như … trời. Đó sẽ là một hình thể thuộc linh (15: 44), không bị giới hạn bởi thịt và huyết, hay bởi thời gian hoặc không gian. Đó là một thân thể mà cả sự chết lẫn tội lỗi đều bất lực, không còn mần ăn hay chấm mút gì được nữa (15: 54-57). Và ‘đỉnh của đỉnh’ là chỉ cần “trong tích tắc, trong chớp mắt”, không cần phải chờ đợi hay chỉnh sửa gì ‘gáo’ là bạn có thể ‘phít’ (fit) với cái bo-đì đó ngay – vừa y luôn nha. Sướng chưa?
Điều này đem lại hy vọng và sự an ủi vô cùng lớn lao – trước hết – cho những người già yếu, tật nguyền đấy. Hãy chia sẻ lời hứa này của Chúa về sự sống lại của thân thể cho những người thân quen của bạn đang ở trong hoàn cảnh như thế nhá.
“Vậy thưa anh chị em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng, đừng rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh chị em trong Chúa không vô ích đâu” (15: 58)
Cũng không khác chi những Cơ-đốc nhân tại Cô-rinh-tô trong thế kỷ thứ I, chúng ta hiện đang sống trong một thế giới đầy áp lực, cám dỗ và trong những trận chiến triền miên về phương diện thuộc linh cũng như về phương diện đạo đức. Thế nhưng, bạn và tôi lại đang sở hữu trong tay tất cả những gì cần thiết để chiến thắng. Chúng ta thừa hưởng uy quyền thuộc linh và quyền năng siêu nhiên của Đức Chúa Trời và những điều đó thật sự là … “quá mức cần thiết” để khiến chúng ta trở nên người “siêu … chiến thắng” trên Sa-tan và trên mọi tham dục của xác thịt chúng ta.
Nói một cách đầy hình ảnh … công nghệ thông tin là ri: Cấu hình hay phần cứng của chúng ta không chỉ đơn thuần là được nâng cấp mà là đã được thay mới hoàn toàn, ở mức cực đỉnh, kể từ khi ta quyết định giao toàn bộ ‘chiếc máy’ cũ mèm này của mình cho Đức Chúa Giê-xu – tức là tiếp nhận Ngài làm Cứu Chúa cuộc đời mình. Trong cấu hình mới ma-đe-in Thiên Đàng đã tích hợp tất cả mọi chức năng cũng như cài đặt mọi phần mềm cần thiết để ta có thể ‘lướt’ … world (thế giới, thế gian hay … đời) cách an toàn rồi.
Vấn đề còn lại, bạn đã kích hoạt những chức năng hay những phần mềm, nhất là phần mềm ‘diệt vi-rút’ đa hệ đó chưa? Đơn giản rứa thôi!


Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

HỎI GÌ, ĐÁP NẤY

Dừng Chân Lần Thứ 42
NHÌN LẠI
Thơ Rô-ma còn được gọi là “Phúc Âm theo thánh Phao-lô”. Như một luật sư chuyên nghiệp, Phao-lô đã sưu tra và xem xét ý nghĩa của sự chết và sự sống lại của Đức Chúa Giê-xu.
Mọi người đều bị kết án trước Đức Chúa Trời thánh khiết, cả người Do Thái lẫn người ngoại bang không một ai có thể biện hộ. Song khi mà nhân loại bất lực trong việc tự cứu chính mình thì Đức Chúa Trời đã hoàn thành điều đó trong Con Ngài là Đức Chúa Giê-xu. Qua đời sống vô tội và sự hy sinh của Người, chúng ta được xưng là “vô tội” trước nhan Thiên Chúa – không phải vì bất cứ việc gì mà chúng ta đã làm, nhưng là bởi tình yêu và ân sủng của Người.
Chúng ta có một món nợ không thể trả, còn Đức Giê-xu đã trả một món nợ mà Người không hề mắc. Và kết quả là gì? – Quyền lực của tội lỗi đã bị bẻ gãy, chúng ta được tự do để sống một đời sống mới trong Người.
Tuy nhiên, đời sống mới này không phải là một đời sống không còn nan đề, hay rắc rối chi cả. Vẫn còn, và thậm chí đôi lúc còn nhiều nữa là khác. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi đọc thơ Phao-lô gởi cho các tín hữu tại Cô-rinh-tô. Hội thánh ở đây là “những người đã được nên thánh trong Đức Chúa Giê-xu Christ, được gọi làm thánh đồ” (1: 2), nhưng vẫn còn … lủ khủ tội lỗi và sự quá phạm, đến nổi Phao-lô phải cấp tốc đưa ra hướng dẫn cụ thể và thậm chí là … kỷ luật kia đấy.
Rõ ràng, phúc phận thiêng liêng của người tin Chúa phải được chuyển hóa thành lối sống tin kính mỗi ngày.
NHÌN LÊN
Một trong những phương pháp dạy hiệu quả nhất là gì? – Phương pháp “hỏi – đáp”.
Rô-ma chương 8 là một trong những ‘vỉa mạch chủ’ giàu quặng nhất của Kinh Thánh đấy. Ở đó, bạn có thể khám phá hết khối quặng chân lý này đến khối quặng chân lý khác dành cho người tin Chúa: tình yêu không giới hạn của Đức Chúa Trời, phương cách đã được kiểm chứng để trở nên người chiến thắng trong mọi hoàn cảnh và vai trò của Đức Chúa Trời trong đời sống của một Cơ-đốc nhân.
Ở đó, bạn có thể tìm thấy câu trả lời cho những vấn đề quan trọng. Theo Rô-ma 8: 31-39 thì:
§  Nếu Đức Chúa Trời đứng về phe chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta được?
§  Ai có thể … ‘chọc gậy bánh xe’ những người đã được Đức Chúa Trời chọn lựa?
§  Ai có thể phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu của Đấng Christ?
Cả 3 đều có cùng một câu trả lời: Nỏ có ai!
NHÌN TỚI
Thách thức đối với chúng ta luôn là áp dụng vào thực tiễn cuộc sống thường nhật những gì mà mình đã học biết được về Chúa từ những trang Kinh Thánh. Chẳng hạn:
§  Ai có vẻ là người hiện đang chống lại bạn và đang tìm mọi cách để ‘quấy phá’ bạn ngày hôm nay? (Trả lời: chủ của tôi, người bạn đời của tôi, đứa con tuổi thiếu niên của tôi, đối thủ làm ăn của tôi – nói chung là … mọi người!)
§  Nhưng thực tế thì nếu Đức Chúa Trời đứng về phe của bạn, thì ai có thể ‘gây sự’ với bạn?
§  Ai hôm nay, đang buộc tội bạn về những gì mà bạn chưa từng làm hay chưa từng nói?
§  Nhưng trên thực tế thì ai có thể làm trò ‘kỳ đà cản mũi’ đối với bạn là người được chọn của Chúa?
§  Ai hay điều gì có thể chia rẽ bạn và Chúa ngày hôm nay?
§  Nhưng thực tế thì ai hay điều gì có thể phân rẽ bạn khỏi tình yêu của Đấng Christ?
Hãy dành thời giờ ngày hôm nay, sắp xếp lại những khối quặng vàng mà ta góp nhặt được trong tuần lễ vừa qua và bắt đầu lắp ráp vào trong từng tình huống cụ thể của mình bạn nhé. Cứ tự hỏi, và tự trả lời như thế, bạn sẽ học được lắm điều hay và mấy tay ngáo ộp nan đề (hoặc bệnh tật, hoặc nợ nần, hoặc công việc, …) đang hùng hùng hổ hổ xung quanh bạn cũng sẽ tự … biến mất lúc nào không hay đấy.
“Như vậy, đức tin đến bởi sự người ta nghe, mà người ta nghe, là khi lời của Đấng Christ được rao giảng” (Rô-ma 10: 17). Nếu không có ai “giảng”, thì hãy tự … “giảng” cho mình nghe, bạn nhé. Không cứ người giảng là ai, miễn Lời Chúa được “giảng” ra thì bạn sẽ “nghe” được. Mà một khi bạn “nghe” được Lời Chúa, thì “đức tin” sẽ đến với bạn. Thế nhé.
Chúc bạn có một ngày Dừng Chân tuyệt vời


Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

ĂN, DIỆN, ÁI, ÂN

1 Corinhto 11:2-14
Chuyện yêu, chuyện ăn đúng là vô cùng quan trọng nên bữa qua, tuy đã tỉ mẩn tưởng chán ra rồi, vậy mà hôm nay bác Phao-lô nhà ta lại cũng ‘quành’ trở lại. Đành phải chìu bác í thôi. He he.
Vừa vào sân, bác ấy đã chụp … mũ, í nhầm … chụp khăn trên đầu của mấy bà ngay tắp lự. Chỉ có mỗi việc trùm hay không trùm, có tóc hay trọc đầu mà bác í đã ‘tót’ (talk) đến đúng nữa chương 11 luôn. Theo dõi lập luận của bác í về đàn ông và đàn bà: “đàn ông ra từ đàn bà, đàn bà là từ đàn ông” theo mô-đen “kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha tắc ké, tắc ké mẹ kỳ nhông”, chắc nhiều bà sẽ quay mòng mòng, buông một câu cộc lốc: Ừ thì … trùm. Được rồi chớ gì?
16 câu đầu trong chương 11 này, đặc biệt câu 10, là một trong những địa chỉ mà chính Phê-rơ cũng đã từng lên tiếng là “mấy chỗ khó hiểu” (2 Phê-rơ 3: 16) trong những thơ tín của Phao-lô đấy. Vì “khó hiểu” nên mọi cố gắng nhằm tìm cách giải thích phần Kinh Thánh này đều không được thuyết phục cho lắm.
Theo Phao-lô, thì người đàn bà (nên được hiểu là người vợ) khi cầu nguyện hoặc nói tiên tri – trong buổi nhóm tại hội thánh – phải trùm đầu vì cớ (a) vinh hiển cho chồng của mình (tức đầu của bà í) và (b) “vì cớ các thiên sứ”. Vì cớ làm vinh hiển cho chồng mình hay không muốn làm cho chồng mình mang nhục thì có thể hiểu được, còn “vì cớ các thiên sứ” thì chắc chờ về trễn gặp bác í mà hỏi thôi. He he
Lý do mà ngày nay ta ít khi nhìn thấy người phụ nữ trùm đầu khi ‘thi hành chức vụ’ trong hội thánh có lẽ là vì ngoài chỗ này ra (11: 2-16), thì không nơi nào trong Kinh Thánh có sự dạy dỗ tương tự. Mà nếu không đủ ‘số hụi’ là 2 lời chứng thì ta phải xem điều đó chỉ mang tính cách cá nhân, địa phương, chớ không mang tính “xuyên văn hóa” mà người tin thờ Chúa mọi thời đại phải triệt để áp dụng.
DIỆN rồi. Nay sang phần ĂN. Ăn ở đây là ăn Tiệc Thánh.
Tiệc Thánh ngày nay đã được ‘tinh giản’ hết sức … gọn nhẹ, thậm chí nhiều nơi chỉ còn là hình thức, nhưng bữa ăn mà Phao-lô đề cập trong phần 2 của chương 11 (c. 17-34) thì không hề nhẹ, không phải là tiệc ngọt, hay nhấm nháp tí chút sau buổi nhóm đâu nha.
Bữa ăn này là do mỗi người tự mang thức ăn đến, có gì đem nấy, … thành ra là tiệc buffet, ai ăn gì lấy nấy. Thế nhưng, trong hội thánh có cả người giàu lẫn người nghèo, cả chủ lẫn tớ. Có lẽ, ban đầu những bữa ăn thế này thấm đẫm tình anh em, đúng nghĩa là nhường cơm sẻ áo. Nhưng về sau, cùng với tình trạng bè phái, như đã nói ở các chương đầu, thì sự phân biệt đẳng cấp (giàu nghèo, sang hèn) trong hội thánh bắt đầu lộ diện mà bằng chứng rõ nhất thể hiện tại các bữa ăn dạng “góp gạo thổi cơm chung” này.
Chúa đâu không thấy chỉ thấy … chua lè. Thế là bác Pôl phải lên tiếng chấn chỉnh, đưa sự việc trở lại với ý nghĩa ban đầu của nó.
Việc tiệc tùng, ăn uống – ở đâu cũng vậy, phạm vi nào cũng vậy – buổi ban đầu luôn mang ý nghĩa rất chi là tích cực và ích lợi trong việc thiết lập và củng cố mối quan hệ. Thế nhưng, về sau nó thường biến tướng phá vỡ sự hiệp nhất, thậm chí dẫn đến thù hận giữa những người ‘nhập tiệc’, dù là cùng phòng, cùng nhà, cùng hội thánh, hay rộng hơn là cùng một cơ quan, một công ty.
Giải pháp cho vấn đề này là “mỗi người hãy tự xét lấy mình” trước khi nhập tiệc, dù là tiệc thông công hay là Tiệc Thánh. Dù là ‘ăn’ ở đâu đi nữa thì đừng quên nhiệm vụ của mỗi một chúng ta trong từng bữa tiệc là “rao giảng sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” đấy nhá. Chúc anh chị em ngon miệng!
Ăn, Diện xong rồi, nay sang Ân, Ái. Vì Ân ‘kẹp’ Ái ở giữa, nên phải để cho Ái lên tiếng trước. Ái ở đây không phải là Nhân Ái mà là Thiên Ái, tên khai sinh là Agape đấy ạ. Nhân Ái hay tình yêu của con người thì nặng về cảm giác, cảm xúc và … sex, còn Thiên Ái thì chuyên trị … hành động. Tình Yêu Agape là những quyết định của ý chí.
Nhân Ái hay Tình Người thì không “ai định nghĩa được” nói như nhà thơ Xuân Diệu, nhưng Tình Trời thì bác Phao-lô đọc vanh vách, một mạch 13 câu luôn. Tuy là ‘nói vo’ nhưng cũng đầy đủ lớp lang, bài bản đấy nha. Nầy nhé: từ câu 1-3 là giá trị của tình yêu (Agape); từ câu 4-7 là đặc điểm của tình yêu, và từ câu 8-13 là tính vĩnh cữu của tình yêu.
Trong chương 13 này có một chỗ mà những nhà … dị ứng với ân tứ Thánh Linh, chính xác hơn là với “tiếng lạ” thường xuyên trích dẫn. Nó đây: “Các lời tiên tri sẽ hết, ân tứ nói tiếng lạ sẽ ngưng, sự hiểu biết sẽ chấm dứt. Vì chúng ta hiểu biết có giới hạn, nói tiên tri cũng có giới hạn; nhưng khi sự toàn hảo đã đến, thì sự bất toàn sẽ qua đi.” (c. 8-10).
Mấy cha, mấy anh này hoàn toàn chính xác khi hiểu rằng, ‘ân nhất thời, còn … yêu thì vạn đại’. Thế nhưng, thời “toàn hảo đã đến” đâu cơ chứ. Ấy vậy cho nên, ngày nay mà có bác nào còn gân cổ lên rằng đã hết thời nói tiên tri, nói tiếng lạ hay nói chung là hết thời sử dụng những ân tứ Chúa cho thì đúng là chưa biết gì về ... điện rồi. He he.
Cuối cùng, luận đến ÂN.
Ân ở đây là ân tứ, hay ơn tứ, là sự ban cho (quà tặng) siêu nhiên mà Thánh Linh Đức Chúa Trời dành cho Hội Thánh. Phao-lô dành đến 2 chương (12 & 14) để luận về tặng phẩm nầy, nhưng không phải là dạy về ân tứ mà là để chỉnh sửa việc lạm dụng ân tứ, nhất là 2 món … nói: nói tiếng lạ và nói tiên tri trong các buổi nhóm của hội thánh mà thôi.
Theo đó, ân tứ Thánh Linh – trong đó bao gồm nói tiếng lạ và nói tiên tri – là “sự bày tỏ” hay “sự thể hiện” của Đức Thánh Linh trong hội thánh. Chúa Thánh Linh “bày tỏ” chính mình Ngài (qua những ân tứ này) “là vì lợi ích chung”, chớ không dành riêng cho cá nhân người có ân tứ đó. Vì là “tặng phẩm” của Chúa, nên người có ân tứ – dù là ân tứ gì đi nữa – cũng chẳng có lý do gì để khoe khoang cả.
Rõ ràng là có hai loại tiếng lạ được đề cập trong phần Kinh Thánh này. Một loại người ta dùng để nói với Đức Chúa Trời thì không cần thông giải (14: 2), còn loại kia thì cần phải có sự thông giải vì đó là khi Đức Chúa Trời nói với con người (14: 13, 27-28).
Nếu dành thì giờ đọc kỹ chương 12 và chương 14 của thơ 1Cô-rinh-tô thì những người không … ưa tiếng lạ phải xem lại việc “đòi hỏi phải có thông giải” trong mọi trường hợp … nói tiếng lạ; Còn những người … ưa tiếng lạ cũng phải nghiêm túc xem lại việc cầu nguyện tiếng lạ cách tưng bừng, lớn tiếng trong những buổi nhóm chung có phù hợp với Lời Chúa không nhé.
Điểm nhấn của Phao-lô trong chương 14, thật ra, không phải là nói tiếng lạ mà là nói tiên tri. Đây là ân tứ mà hội thánh Cô-rinh-tô xưa cũng như hầu hết các hội thánh ngày nay xem nhẹ. Thật ra thì không riêng gì ân tứ nói tiên tri, mà hầu hết các ân tứ, hiện nay đều không được xem trọng, kể cả tại các hội thánh theo tinh thần Ngũ Tuần và Ân Tứ. Không phải chỉ có Cơ-đốc nhân tại các hội thánh thuộc thành phố Cô-rinh-tô xưa, mà tình trạng thiếu hiểu biết về các ân tứ Thánh Linh cũng trở nên phổ biến khắp các Hội Thánh Chúa ngày hôm nay. Vì thiếu hiểu biết nên chẳng có mấy ai đáp ứng với sự kêu gọi của Chúa: “hãy tìm kiếm cho được dư dật các ân tứ đó để xây dựng Hội Thánh” (14: 12)
Còn riêng anh chị em thì sao: Ân tứ Thánh Linh mà Chúa ban cho anh chị em là gì? Anh chị em đã biết chưa? Anh chị em đã … kích hoạt ân tứ đó chưa hay anh chị em cần phải tái khởi động như Phao-lô đã từng giục Ti-mô-thê:“Vậy nên ta khuyên con hãy nhen lại ơn của Đức Chúa Trời ban cho, mà con đã nhận lãnh bởi sự đặt tay của ta”  (2 Timothe 1: 6)


Thứ Năm, 19 tháng 11, 2015

ĂN, NGỦ, TU TẬP

1 Corinhto 7-11:1 
Bắt đầu từ chương 7, Phao-lô trả lời một loạt những théc méc mà bà con cô bác tại Cô-rinh-tô tới tấp gởi về. Đây là bộ sưu tập những câu hỏi mà không thể tìm thấy câu trả lời nơi các sách Cựu ước, cũng như trong những lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu.
Chẳng hạn, sống độc thân có tốt hơn là lập gia đình không? Người tin thờ Chúa có được phép ăn thịt đã dâng cúng cho ngẫu tượng, tà thần không? Rồi thì có thích hợp cho người giảng Tin Lành, tức người hầu việc Chúa, được nuôi bởi Tin Lành, tức được nhận sự chu cấp từ nơi Hội Thánh không? Vân vân, và vân vân.
Có thể gọi chương 7 là “Cẩm Nan Hôn Nhân” dành cho người tin thờ Chúa. Ấy là vì trong đó, ta có thể tìm thấy những hướng dẫn hữu ích cho mọi tình trạng hôn nhân (độc thân, kết hôn, ly hôn, tái hôn, … và kể cả trường hợp 2 vợ chồng chỉ mới có một người tin thờ Chúa).
Theo đó, việc quyết định kết hôn hay sống độc thân không phải là chọn lựa giữa xấu và tốt mà là giữa tốt và tốt hơn. Kết hôn hay sống độc thân là một “ơn gọi”, một “sự ban cho”, hay một tặng phẩm của Đức Chúa Trời. Nếu không được Chúa “gọi” để sống độc thân thì một người không thể nào sống được. Người ấy sẽ bị lửa dục tình nung đốt, dù họ có công khai nhìn nhận hay không (7: 9).
Thế nhưng, đối với một người đã kết hôn thì mạng lệnh của Chúa là rất rõ ràng: “Vợ không được bỏ chồng, … Chồng cũng không được ly dị vợ.” (7: 10-11). Anh chị em có còn nhớ không, Đức Chúa Trời đã phán: “Ta ghét sự ly dị; và Ta cũng ghét kẻ mang lớp áo bạo hành như thế đối với vợ”  (Malachi 2: 16). Thế thì đừng biến mình trở thành kẻ bị Chúa ghét nha.
Trong chương này, bác Phao-lô cũng huỵch toẹt cả chuyện sinh hoạt vợ chồng luôn, không hề gán cho cái nhãn là “vấn đề nhạy cảm” để úp mở chi cả. Nếu chiếu theo luật định của “một chuẩn men Pharisi” thì Phao-lô chắc chắn là đã có vợ. Nhưng không biết tại sao giang hồ lại đồn rằng, bác í không có vợ. Nhưng dù có vợ hay không thì Phao-lô cũng chả sợ khi đề cập đến chuyện sinh hoạt vợ chồng.
Bác í dạy ri nì: “Vợ không có quyền trên thân xác mình nhưng chồng có quyền; chồng cũng không có quyền trên thân xác mình nhưng vợ có quyền. Vợ chồng không nên từ chối ăn nằm với nhau, trừ khi hai người đồng ý kiêng một thời gian để chuyên tâm cầu nguyện, sau đó hãy trở lại với nhau như cũ để khỏi bị quỷ Sa-tan cám dỗ khi anh chị em thiếu tự chế.” (7: 4-5)
Đừng có dại dột mà sử dụng ‘vốn tự có’ của mình như vũ khí hay quà tặng để sai khiến người bạn đời của mình nha các anh, các chị, các ông, các bà. Sa-tan lúc nào cũng chực sẵn một bên để băm vằm hôn nhân của quý vị đấy. Nhớ nha.
Chuyện NGỦ xong rồi, giờ đến chuyện … ĂN. Ăn thịt hay không ăn thịt.
Để hiểu được thấu đáo chuyện này thì phải ‘quất’ đúng 3 chương: 8-9-10 nha. Đừng tách rời ‘chúng’ ra là … rách việc đấy. He he.
Số là thời ấy, thịt dâng cúng cho thần tượng ngoại giáo luôn được chia làm 3 phần. Một phần đem thiêu cho vị thần đó … hưởng hơi; một phần khác được chia cho người cúng mang về nhà để hưởng … lộc; phần còn lại dành cho thầy tế. Nếu không thích nhấm nháp phần thịt này thì thầy tế đem bán ngay tại … trận. Và thịt này thường được bán rẻ hơn … giá thị trường.
Đấy, vấn đề ‘lăn tăn’ là như thế. Nhiều tín hữu tại Cô-rinh-tô viện dẫn rằng, ngoài Đức Chúa Trời chân thật ra thì tất cả các ông thần, bà thánh trong thế gian chẳng là … cái đinh gì cả. Mà nếu mấy ‘chả’, mấy ‘mẻ’ đã không có thật hoặc chẳng có thực quyền gì, thì của cúng tế đó đâu có bị … ô nhiễm chi mô. Cứ vô tư mà … ‘xực’ thôi.
Trong vấn đề này, Phao-lô khuyên dạy con dân Chúa phải xử sự trên tinh thần yêu thương, vì lợi ích của những anh chị em khác đồng đức tin trong hội thánh chớ không nên xử sự theo kiểu … ‘một mình, một chợ’.
Phao-lô lập luận ri nè: “Cứ cho là anh em có sự hiểu biết đúng về chuyện có thần, có thánh hay không đi – nhưng thật ra họ không biết (8:2) – nhưng hãy vì đức tin của người khác mà ăn, mà uống. Không chỉ vậy, khi làm cho những người ‘kém hiểu biết’ hơn anh em vấp phạm vì chuyện ăn uống bạt mạng của mình, thì anh em phạm tội với Đấng Christ đấy” (8: 12). Rồi Phao-lô khuyên con dân Chúa tại hội thánh Cô-rinh-tô hãy xem việc ông tự nguyện từ bỏ những quyền lợi của mình để thu phục được nhiều người hơn cho Đấng Christ như là một gương mẫu để kiêng … ăn thịt.
Nếu chỉ đọc thoáng qua, ta dường như có cảm tưởng như Phao-lô dạy rằng người tin thờ Chúa có thể ăn được những thực phẩm đã được dâng cúng cho thần tượng, nếu không có ai nhìn thấy, hoặc không khiến cho người tin Chúa khác ngộ nhận, hay vấp phạm. Mà nếu thế thì mâu thuẫn với quyết định của Hội nghị Jerusalem sao (Công Vụ 15: 29)? Tuy nhiên, Phao-lô nào nỡ vậy. He he. Ông đã túm lại cách ngon lành trong chương 10 rằng thì là, “khi người ta dâng tế là dâng tế ma quỷ, không phải Đức Chúa Trời. Tôi không muốn anh chị em trở nên thông công với ma quỷ” (10: 20)
Cũng tại chương 10, sứ đồ Phao-lô đã nêu ra một nguyên tắc mang tính định hướng hết sức là ô-kơ trong mọi sinh hoạt của người tin thờ Chúa, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà Kinh Thánh không có những hướng dẫn cụ thể: “Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hoặc làm bất cứ việc gì, hãy làm tất cả vì vinh quang của Đức Chúa Trời.” (10: 31)
Đấy cứ căn vào đấy mà tìm câu trả lời cho việc ngày nay, người tin Chúa có được uống bia, có được rít thuốc lá, thuốc lào, thuốc … phiện hay xem phim ảnh khiêu dâm, … không nhé. Nếu cho rằng, những việc đấy sẽ làm cho Chúa được vinh hiển – hay nôm na là sẽ làm cho Chúa được người ta khen, hoặc trần trụi hơn nữa là sẽ làm cho Chúa được nở mày, nở mặt – thì cứ vô tư mà uống, mà hít, mà ngắm nhá. Còn ngược lại thì … chớ đụng đến. Rứa thôi.
Cuối cùng, là bài học và cũng là sự thách thức dành cho tất cả những người hầu việc Chúa. Bao nhiêu tôi tớ Chúa ngày nay dám tuyên bố xanh rờn như Phao-lô: Hãy bắt chước tôi, cũng như chính mình tôi bắt chước Đấng Christ vậy (11: 1)? Quý vị có dám nói dõng dạc như vậy trước bầy chiên mà Chúa giao cho quý vị chăn dắt không? Và mỗi một ngày, quý vị có còn thật sự đang sống và phục vụ theo gương Đấng Christ không?


Thứ Tư, 18 tháng 11, 2015

THÁNH MÀ CHƯA THÁNH

1 Corinhto 1-6 
Hôm nay, chúng ta bắt đầu ‘xuyên’ thơ Cô-rinh-tô thứ nhất, tức là bức da-meo đầu tiên mà sứ đồ Phao-lô gởi cho những người tin Chúa tại thành phố Cô-rinh-tô, một trung tâm thương mại, và cũng là một địa chỉ danh tiếng về lối sống vô luân và thờ lạy hình tượng thời bấy giờ. Ngày nay, Cô-rinh-tô là một thành phố cảng thuộc Hy-lạp.
Chúa dùng Phao-lô thành lập Hội Thánh Cô-rinh-tô trong hành trình truyền giáo lần thứ hai của ông (Công Vụ 18: 1-17). Đây là một Hội thánh thật sự tăng trưởng, theo … “tinh thần Ngũ Tuần, Ân Tứ” chánh hiệu, nhưng lại bị ‘hành hạ’ bởi … hàng tá nan đề, từ đạo đức đến đạo … giáo, từ lẽ đạo đến sống đạo, từ nhà riêng đến nhà … chung!
Phao-lô đã viết lá thư này để chỉnh đốn lại trật tự và để trả lời một số ‘théc méc’ mà bà con cô bác từ Cô-rinh-tô gởi đến.
Món xương đầu tiên nằm ở các chương từ 1-4 có tên là: Bè Phái. Ít nhất là có đến 4 bè trong hội thánh tại Cô-rinh-tô. Đó là các bè: Phao-lô, A-bô-lô, Phê-rơ và … Đức Chúa Giê-xu Christ (1: 11-12)! Bè thứ 4 (Chúa Giê-xu) xuất hiện có lẽ là một số người do quá chán ngán tình trạng suốt ngày công kích, uýnh đấm lẫn nhau giữa ba bè PAP kia, nên quyết định đứng riêng và chọn tên đó cho nó thiêng cũng nên.
Đoán cho hay vậy thôi, chớ Kinh Thánh không cho chúng ta biết ‘chiện’ này. Thế nhưng, nguyên nhân xúi mấy chị ‘khênh’ Tô này chia bè, kéo cánh thì có. Đó là tệ sùng bái cá nhân theo kiểu: “ông thầy em … nâm bờ oanh!” vậy đó.
Suốt 4 chương đầu tiên, Phao-lô chỉ ra những cái sai … từa lưa hạt dưa của mấy ‘cô bê tô’ khi xem ai đó là nâm bờ oanh trong hội thánh của Đức Chúa Trời.
Thứ nhất, những người mà người Cô-rinh-tô đề cao (Phao-lô, A-bô-lô, Phê-rơ) chỉ là đầy tớ của Đức Chúa Trời mà thôi. Thứ hai, cho dù những người đó có khôn ngoan hay tài năng siêu phàm đến đâu đi nữa thì những gì họ có cũng chỉ là ‘hàng nhập khẩu’ từ Trời chớ họ có ‘tự sản xuất’ được gì đâu. Thế thì có gì mà khoe, không biết ngượng à. Thứ ba, ‘tay nghề’ (tài năng hay sự khôn ngoan) của những người ấy chỉ có thể được ‘kiểm tra chất lượng’ bằng chính những ‘sản phẩm’ mà họ trực tiếp làm ra mà thôi. Mà sản phẩm đó là những Đền Thờ của Đức Chúa Trời, tức là những người tin Chúa hiện đang ở tại Cô-rinh-tô đấy thôi. Thế cho nên đừng có mà tự lừa dối mình nha mấy cưng.
Đấy, đại loại Phao-lô đã nói với những ‘ông’ con của bác í ở Cô-rinh-tô như thế. Toàn chuyện ngày xưa, ở một Hội thánh xa lơ xa lắc nào tận trời Âu mà sao vẫn còn nóng hổi tính thời sự đối với hầu hết các hội thánh Chúa khắp mọi nơi, ngay trong thời nay ấy nhỉ. Đúng là chẳng có gì mới dưới mặt trời.
Không dừng lại ở việc chỉ ra nguyên của tình trạng bè phái trong Hội thánh là tệ sùng bái cá nhân, Phao-lô còn tung thêm một chưởng nữa dành cho mọi bè, mọi phái. Đó là, bất cứ người nào mà còn ganh tị, tranh chấp, còn hơn thua, khoái hiệp 2, hiệp 3, hiệp … n, hơn là hiệp nhất thì cả thảy đều được gọi là tín đồ xác thịt, là con trẻ thuộc linh, bất kể tước hiệu, địa vị, học vị mà người ấy có (3: 1-3).
Nếu cứ căn đúng chuẩn này mà đo thì không biết có bao nhiêu ‘đứa trẻ’ đang phải đóng vai ‘người lớn’, đang phải ‘làm cha, làm mẹ’ trong khắp các Hội thánh. Chả trách, tại sao hội thánh khắp nơi cứ phải đối diện với tình trạng chia năm xẻ bảy thường xuyên.
Trong thế giới thuộc linh luôn có ba loại người: (a) loại chết thuộc linh, tức không có Đức Thánh Linh hay không có Chúa nói chung (2: 14), (b) loại chưa trưởng thành, tức con trẻ thuộc linh (3: 1) và (c) loại có nhận thức thuộc linh sâu sắc (2: 15-16). Anh chị em thuộc loại nào trong số này?
Giải pháp cho vấn nạn bè phái là theo gương Phao-lô, học bài học khiêm nhường. Khiêm nhường, nôm na là học biết tôn trọng người khác, tức học biết nhìn nhận năng lực và chức năng của người khác, học biết rằng mình không thể làm việc một mình, mà luôn cần đến sự giúp đỡ của người khác, và học biết chấp nhận sự khác biệt trong cách hiểu, cách tiếp cận và xử lý một vấn đề.
Trong chương 5, Phao-lô đề cập đến một chuyện xấu thôi rồi trong hội thánh Cô-rinh-tô. Đó là có anh kia, hổng biết bà mẹ kế của ảnh đẹp cỡ nào, trẻ cỡ nào, hấp dẫn cỡ nào mà ảnh đã phạm tội loạn luân với bà í. “Rằng giữa anh chị em có sự gian dâm, một sự gian dâm mà ngay cả giữa vòng người ngoại cũng không có như vậy: có kẻ đã ăn nằm với vợ kế của cha mình” (5: 1). Có lẽ, anh giai này có vai vế gì trong xã hội hay hội thánh hay sao í mà hội chúng không dám ‘động’ tới ảnh. Cũng có thể, hội thánh sợ rằng xử thì hắn bỏ đi, rồi còn kéo theo nhiều người khác nữa, làm xáo trộn bầy chiên chăng.
Trong trường hợp này, Phao-lô chỉ thị là phải xử lý cách dứt khoát. “Hãy phó người ấy cho Sa-tan để nó hủy diệt xác thịt, hầu tâm linh người ấy có thể được cứu trong ngày của Đức Chúa Jesus” (5: 5). Ngày nay ta gọi hình thức kỷ luật này là “rút phép thông công”, tức là không còn được công nhận là thành viên chính thức của một hội thánh địa phương.
Người ấy không còn được ở trong sự che phủ thuộc linh của Chúa nơi hội chúng đó; không còn được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng với tư cách là một thành viên, một chi thể sống trong thân. Sa-tan lúc bấy giờ được trao quyền trên xác thịt của người ấy, để ‘dạy dỗ’ người ấy cho đến khi nào người ‘thuộc bài’ mới thôi.
Nhiều anh trai chị gái vì “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ”, nên dù đã bị “rút phép”, đã “bị loại khỏi vòng chiến đấu” từ lâu rồi mà vẫn cứ nhơn nhơn, coi trời đất chẳng là … nghĩa địa gì ráo trọi. Đang nằm trên thớt của Sa-tan, đang nằm sát miệng hổ rồi đó cưng. Không lo gấp rút ăn năn quay đầu trở lại với Chúa đi. Đừng tưởng chạy qua hội thánh khác, nơi nhóm khác mà thoát được án hả con. Bé cái nhầm rồi cưng. Quay đầu là bờ!