1 Corinhto 1-6
Hôm nay, chúng ta bắt đầu ‘xuyên’ thơ Cô-rinh-tô thứ nhất, tức là bức
da-meo đầu tiên mà sứ đồ Phao-lô gởi cho những người tin Chúa tại thành phố
Cô-rinh-tô, một trung tâm thương mại, và cũng là một địa chỉ danh tiếng về lối
sống vô luân và thờ lạy hình tượng thời bấy giờ. Ngày nay, Cô-rinh-tô là một
thành phố cảng thuộc Hy-lạp.
Chúa dùng Phao-lô thành lập Hội Thánh Cô-rinh-tô trong hành trình truyền
giáo lần thứ hai của ông (Công Vụ 18: 1-17). Đây là một Hội thánh thật sự tăng
trưởng, theo … “tinh thần Ngũ Tuần, Ân Tứ” chánh hiệu, nhưng lại bị ‘hành hạ’
bởi … hàng tá nan đề, từ đạo đức đến đạo … giáo, từ lẽ đạo đến sống đạo, từ nhà
riêng đến nhà … chung!
Phao-lô đã viết lá thư này để chỉnh đốn lại trật tự và để trả lời một số
‘théc méc’ mà bà con cô bác từ Cô-rinh-tô gởi đến.
Món xương đầu tiên nằm ở các chương từ 1-4 có tên là: Bè Phái. Ít nhất
là có đến 4 bè trong hội thánh tại Cô-rinh-tô. Đó là các bè: Phao-lô, A-bô-lô,
Phê-rơ và … Đức Chúa Giê-xu Christ (1: 11-12)! Bè thứ 4 (Chúa Giê-xu) xuất hiện
có lẽ là một số người do quá chán ngán tình trạng suốt ngày công kích, uýnh đấm
lẫn nhau giữa ba bè PAP kia, nên quyết định đứng riêng và chọn tên đó cho nó
thiêng cũng nên.
Đoán cho hay vậy thôi, chớ Kinh Thánh không cho chúng ta biết ‘chiện’
này. Thế nhưng, nguyên nhân xúi mấy chị ‘khênh’ Tô này chia bè, kéo cánh thì
có. Đó là tệ sùng bái cá nhân theo kiểu: “ông thầy em … nâm bờ oanh!” vậy đó.
Suốt 4 chương đầu tiên, Phao-lô chỉ ra những cái sai … từa lưa hạt dưa
của mấy ‘cô bê tô’ khi xem ai đó là nâm bờ oanh trong hội thánh của Đức Chúa
Trời.
Thứ nhất, những người mà người Cô-rinh-tô đề cao (Phao-lô, A-bô-lô,
Phê-rơ) chỉ là đầy tớ của Đức Chúa Trời mà thôi. Thứ hai, cho dù những người đó
có khôn ngoan hay tài năng siêu phàm đến đâu đi nữa thì những gì họ có cũng chỉ
là ‘hàng nhập khẩu’ từ Trời chớ họ có ‘tự sản xuất’ được gì đâu. Thế thì có gì
mà khoe, không biết ngượng à. Thứ ba, ‘tay nghề’ (tài năng hay sự khôn ngoan)
của những người ấy chỉ có thể được ‘kiểm tra chất lượng’ bằng chính những ‘sản
phẩm’ mà họ trực tiếp làm ra mà thôi. Mà sản phẩm đó là những Đền Thờ của Đức
Chúa Trời, tức là những người tin Chúa hiện đang ở tại Cô-rinh-tô đấy thôi. Thế
cho nên đừng có mà tự lừa dối mình nha mấy cưng.
Đấy, đại loại Phao-lô đã nói với những ‘ông’ con của bác í ở Cô-rinh-tô
như thế. Toàn chuyện ngày xưa, ở một Hội thánh xa lơ xa lắc nào tận trời Âu mà
sao vẫn còn nóng hổi tính thời sự đối với hầu hết các hội thánh Chúa khắp mọi
nơi, ngay trong thời nay ấy nhỉ. Đúng là chẳng có gì mới dưới mặt trời.
Không dừng lại ở việc chỉ ra nguyên của tình trạng bè phái trong Hội
thánh là tệ sùng bái cá nhân, Phao-lô còn tung thêm một chưởng nữa dành cho mọi
bè, mọi phái. Đó là, bất cứ người nào mà còn ganh tị, tranh chấp, còn hơn thua,
khoái hiệp 2, hiệp 3, hiệp … n, hơn là hiệp nhất thì cả thảy đều được gọi là tín
đồ xác thịt, là con trẻ thuộc linh, bất kể tước hiệu, địa vị, học vị mà người
ấy có (3: 1-3).
Nếu cứ căn đúng chuẩn này mà đo thì không biết có bao nhiêu ‘đứa trẻ’
đang phải đóng vai ‘người lớn’, đang phải ‘làm cha, làm mẹ’ trong khắp các Hội
thánh. Chả trách, tại sao hội thánh khắp nơi cứ phải đối diện với tình trạng
chia năm xẻ bảy thường xuyên.
Trong thế giới thuộc linh luôn có ba loại người: (a) loại chết thuộc
linh, tức không có Đức Thánh Linh hay không có Chúa nói chung (2: 14), (b) loại
chưa trưởng thành, tức con trẻ thuộc linh (3: 1) và (c) loại có nhận thức thuộc
linh sâu sắc (2: 15-16). Anh chị em thuộc loại nào trong số này?
Giải pháp cho vấn nạn bè phái là theo gương Phao-lô, học bài học khiêm
nhường. Khiêm nhường, nôm na là học biết tôn trọng người khác, tức học biết
nhìn nhận năng lực và chức năng của người khác, học biết rằng mình không thể
làm việc một mình, mà luôn cần đến sự giúp đỡ của người khác, và học biết chấp
nhận sự khác biệt trong cách hiểu, cách tiếp cận và xử lý một vấn đề.
Trong chương 5, Phao-lô đề cập đến một chuyện xấu thôi rồi trong hội
thánh Cô-rinh-tô. Đó là có anh kia, hổng biết bà mẹ kế của ảnh đẹp cỡ nào, trẻ
cỡ nào, hấp dẫn cỡ nào mà ảnh đã phạm tội loạn luân với bà í. “Rằng
giữa anh chị em có sự gian dâm, một sự gian dâm mà ngay cả giữa vòng người
ngoại cũng không có như vậy: có kẻ đã ăn nằm với vợ kế của cha mình” (5:
1). Có lẽ, anh giai này có vai vế gì trong xã hội hay hội thánh hay sao í mà
hội chúng không dám ‘động’ tới ảnh. Cũng có thể, hội thánh sợ rằng xử thì hắn
bỏ đi, rồi còn kéo theo nhiều người khác nữa, làm xáo trộn bầy chiên chăng.
Trong trường hợp này, Phao-lô chỉ thị là phải xử lý cách dứt khoát. “Hãy phó người ấy cho Sa-tan để nó hủy diệt
xác thịt, hầu tâm linh người ấy có thể được cứu trong ngày của Đức Chúa Jesus”
(5: 5). Ngày nay ta gọi hình thức kỷ luật này là “rút phép thông công”, tức là
không còn được công nhận là thành viên chính thức của một hội thánh địa phương.
Người ấy không còn được ở trong sự che phủ thuộc linh của Chúa nơi hội
chúng đó; không còn được sự quan tâm, chăm sóc, nuôi dưỡng với tư cách là một
thành viên, một chi thể sống trong thân. Sa-tan lúc bấy giờ được trao quyền
trên xác thịt của người ấy, để ‘dạy dỗ’ người ấy cho đến khi nào người ‘thuộc
bài’ mới thôi.
Nhiều anh trai chị gái vì “chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ”, nên dù đã bị
“rút phép”, đã “bị loại khỏi vòng chiến đấu” từ lâu rồi mà vẫn cứ nhơn nhơn,
coi trời đất chẳng là … nghĩa địa gì ráo trọi. Đang nằm trên thớt của Sa-tan, đang
nằm sát miệng hổ rồi đó cưng. Không lo gấp rút ăn năn quay đầu trở lại với Chúa
đi. Đừng tưởng chạy qua hội thánh khác, nơi nhóm khác mà thoát được án hả con.
Bé cái nhầm rồi cưng. Quay đầu là bờ!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét