1 Corinhto 11:2-14
Chuyện yêu, chuyện ăn đúng là vô cùng quan trọng
nên bữa qua, tuy đã tỉ mẩn tưởng chán ra rồi, vậy mà hôm nay bác Phao-lô nhà ta
lại cũng ‘quành’ trở lại. Đành phải chìu bác í thôi. He he.
Vừa vào sân, bác ấy đã chụp … mũ, í nhầm … chụp
khăn trên đầu của mấy bà ngay tắp lự. Chỉ có mỗi việc trùm hay không trùm, có
tóc hay trọc đầu mà bác í đã ‘tót’ (talk) đến đúng nữa chương 11 luôn. Theo dõi
lập luận của bác í về đàn ông và đàn bà: “đàn ông ra từ đàn bà, đàn bà là từ
đàn ông” theo mô-đen “kỳ nhông ông kỳ đà, kỳ đà cha tắc ké, tắc ké mẹ kỳ
nhông”, chắc nhiều bà sẽ quay mòng mòng, buông một câu cộc lốc: Ừ thì … trùm.
Được rồi chớ gì?
16 câu đầu trong chương 11 này, đặc biệt câu 10, là
một trong những địa chỉ mà chính Phê-rơ cũng đã từng lên tiếng là “mấy chỗ khó
hiểu” (2 Phê-rơ 3: 16) trong những thơ tín của Phao-lô đấy. Vì “khó hiểu” nên
mọi cố gắng nhằm tìm cách giải thích phần Kinh Thánh này đều không được thuyết
phục cho lắm.
Theo Phao-lô, thì người đàn bà (nên được hiểu là
người vợ) khi cầu nguyện hoặc nói tiên tri – trong buổi nhóm tại hội thánh –
phải trùm đầu vì cớ (a) vinh hiển cho chồng của mình (tức đầu của bà í) và (b)
“vì cớ các thiên sứ”. Vì cớ làm vinh hiển cho chồng mình hay không muốn làm cho
chồng mình mang nhục thì có thể hiểu được, còn “vì cớ các thiên sứ” thì chắc
chờ về trễn gặp bác í mà hỏi thôi. He he
Lý do mà ngày nay ta ít khi nhìn thấy người phụ nữ
trùm đầu khi ‘thi hành chức vụ’ trong hội thánh có lẽ là vì ngoài chỗ này ra
(11: 2-16), thì không nơi nào trong Kinh Thánh có sự dạy dỗ tương tự. Mà nếu
không đủ ‘số hụi’ là 2 lời chứng thì ta phải xem điều đó chỉ mang tính cách cá
nhân, địa phương, chớ không mang tính “xuyên văn hóa” mà người tin thờ Chúa mọi
thời đại phải triệt để áp dụng.
DIỆN rồi. Nay sang phần ĂN. Ăn ở đây là ăn Tiệc
Thánh.
Tiệc Thánh ngày nay đã được ‘tinh giản’ hết sức …
gọn nhẹ, thậm chí nhiều nơi chỉ còn là hình thức, nhưng bữa ăn mà Phao-lô đề
cập trong phần 2 của chương 11 (c. 17-34) thì không hề nhẹ, không phải là tiệc
ngọt, hay nhấm nháp tí chút sau buổi nhóm đâu nha.
Bữa ăn này là do mỗi người tự mang thức ăn đến, có
gì đem nấy, … thành ra là tiệc buffet, ai ăn gì lấy nấy. Thế nhưng, trong hội
thánh có cả người giàu lẫn người nghèo, cả chủ lẫn tớ. Có lẽ, ban đầu những bữa
ăn thế này thấm đẫm tình anh em, đúng nghĩa là nhường cơm sẻ áo. Nhưng về sau,
cùng với tình trạng bè phái, như đã nói ở các chương đầu, thì sự phân biệt đẳng
cấp (giàu nghèo, sang hèn) trong hội thánh bắt đầu lộ diện mà bằng chứng rõ
nhất thể hiện tại các bữa ăn dạng “góp gạo thổi cơm chung” này.
Chúa đâu không thấy chỉ thấy … chua lè. Thế là bác
Pôl phải lên tiếng chấn chỉnh, đưa sự việc trở lại với ý nghĩa ban đầu của nó.
Việc tiệc tùng, ăn uống – ở đâu cũng vậy, phạm vi
nào cũng vậy – buổi ban đầu luôn mang ý nghĩa rất chi là tích cực và ích lợi
trong việc thiết lập và củng cố mối quan hệ. Thế nhưng, về sau nó thường biến
tướng phá vỡ sự hiệp nhất, thậm chí dẫn đến thù hận giữa những người ‘nhập
tiệc’, dù là cùng phòng, cùng nhà, cùng hội thánh, hay rộng hơn là cùng một cơ
quan, một công ty.
Giải pháp cho vấn đề này là “mỗi người hãy tự xét
lấy mình” trước khi nhập tiệc, dù là tiệc thông công hay là Tiệc Thánh. Dù là
‘ăn’ ở đâu đi nữa thì đừng quên nhiệm vụ của mỗi một chúng ta trong từng bữa
tiệc là “rao giảng sự chết của Chúa cho tới lúc Ngài đến” đấy nhá. Chúc anh chị
em ngon miệng!
Ăn, Diện xong rồi, nay sang Ân, Ái. Vì Ân ‘kẹp’ Ái
ở giữa, nên phải để cho Ái lên tiếng trước. Ái ở đây không phải là Nhân Ái mà
là Thiên Ái, tên khai sinh là Agape đấy ạ. Nhân Ái hay tình yêu của con người
thì nặng về cảm giác, cảm xúc và … sex, còn Thiên Ái thì chuyên trị … hành
động. Tình Yêu Agape là những quyết định của ý chí.
Nhân Ái hay Tình Người thì không “ai định nghĩa
được” nói như nhà thơ Xuân Diệu, nhưng Tình Trời thì bác Phao-lô đọc vanh vách,
một mạch 13 câu luôn. Tuy là ‘nói vo’ nhưng cũng đầy đủ lớp lang, bài bản đấy
nha. Nầy nhé: từ câu 1-3 là giá trị của tình yêu (Agape); từ câu 4-7 là đặc
điểm của tình yêu, và từ câu 8-13 là tính vĩnh cữu của tình yêu.
Trong chương 13 này có một chỗ mà những nhà … dị
ứng với ân tứ Thánh Linh, chính xác hơn là với “tiếng lạ” thường xuyên trích
dẫn. Nó đây: “Các lời tiên tri sẽ hết, ân tứ nói tiếng lạ sẽ ngưng, sự
hiểu biết sẽ chấm dứt. Vì chúng ta hiểu biết có giới hạn, nói tiên tri cũng có
giới hạn; nhưng khi sự toàn hảo đã đến, thì sự bất toàn sẽ qua đi.” (c.
8-10).
Mấy cha, mấy anh này hoàn toàn chính xác khi hiểu
rằng, ‘ân nhất thời, còn … yêu thì vạn đại’. Thế nhưng, thời “toàn hảo đã đến”
đâu cơ chứ. Ấy vậy cho nên, ngày nay mà có bác nào còn gân cổ lên rằng đã hết
thời nói tiên tri, nói tiếng lạ hay nói chung là hết thời sử dụng những ân tứ
Chúa cho thì đúng là chưa biết gì về ... điện rồi. He he.
Cuối cùng, luận đến ÂN.
Ân ở đây là ân tứ, hay ơn tứ, là sự ban cho (quà
tặng) siêu nhiên mà Thánh Linh Đức Chúa Trời dành cho Hội Thánh. Phao-lô dành
đến 2 chương (12 & 14) để luận về tặng phẩm nầy, nhưng không phải là dạy về
ân tứ mà là để chỉnh sửa việc lạm dụng ân tứ, nhất là 2 món … nói: nói tiếng lạ
và nói tiên tri trong các buổi nhóm của hội thánh mà thôi.
Theo đó, ân tứ Thánh Linh – trong đó bao gồm nói
tiếng lạ và nói tiên tri – là “sự bày tỏ” hay “sự thể hiện” của Đức Thánh Linh
trong hội thánh. Chúa Thánh Linh “bày tỏ” chính mình Ngài (qua những ân tứ này)
“là vì lợi ích chung”, chớ không dành riêng cho cá nhân người có ân tứ đó. Vì
là “tặng phẩm” của Chúa, nên người có ân tứ – dù là ân tứ gì đi nữa – cũng
chẳng có lý do gì để khoe khoang cả.
Rõ ràng là có hai loại tiếng lạ được đề cập trong
phần Kinh Thánh này. Một loại người ta dùng để nói với Đức Chúa Trời thì không
cần thông giải (14: 2), còn loại kia thì cần phải có sự thông giải vì đó là khi
Đức Chúa Trời nói với con người (14: 13, 27-28).
Nếu dành thì giờ đọc kỹ chương 12 và chương 14 của
thơ 1Cô-rinh-tô thì những người không … ưa tiếng lạ phải xem lại việc “đòi hỏi
phải có thông giải” trong mọi trường hợp … nói tiếng lạ; Còn những người … ưa
tiếng lạ cũng phải nghiêm túc xem lại việc cầu nguyện tiếng lạ cách tưng bừng,
lớn tiếng trong những buổi nhóm chung có phù hợp với Lời Chúa không nhé.
Điểm nhấn của Phao-lô trong chương 14, thật ra,
không phải là nói tiếng lạ mà là nói tiên tri. Đây là ân tứ mà hội thánh
Cô-rinh-tô xưa cũng như hầu hết các hội thánh ngày nay xem nhẹ. Thật ra thì
không riêng gì ân tứ nói tiên tri, mà hầu hết các ân tứ, hiện nay đều không
được xem trọng, kể cả tại các hội thánh theo tinh thần Ngũ Tuần và Ân Tứ. Không
phải chỉ có Cơ-đốc nhân tại các hội thánh thuộc thành phố Cô-rinh-tô xưa, mà
tình trạng thiếu hiểu biết về các ân tứ Thánh Linh cũng trở nên phổ biến khắp
các Hội Thánh Chúa ngày hôm nay. Vì thiếu hiểu biết nên chẳng có mấy ai đáp ứng
với sự kêu gọi của Chúa: “hãy tìm kiếm cho được dư dật các ân tứ đó để
xây dựng Hội Thánh” (14: 12)
Còn riêng anh chị em thì sao: Ân tứ Thánh Linh mà
Chúa ban cho anh chị em là gì? Anh chị em đã biết chưa? Anh chị em đã … kích
hoạt ân tứ đó chưa hay anh chị em cần phải tái khởi động như Phao-lô đã từng
giục Ti-mô-thê:“Vậy nên ta khuyên con hãy
nhen lại ơn của Đức Chúa Trời ban cho, mà con đã nhận lãnh bởi sự đặt tay của
ta” (2 Timothe 1: 6)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét