Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Phụ Lục 2: THÁNH TỪ ... TRONG TRỨNG

“Trước khi sáng tạo vũ trụ, Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta trong Chúa Cứu Thế để chúng ta trở nên thánh hóa không có gì đáng trách trước mặt Ngài.” (Epheso 1: 4)
Chúng ta, những người tin thờ Chúa Giê-xu, là những người được Thiên Chúa chọn lựa trước khi sáng tạo vũ trụ.
Nói cách khác, Chúa chọn chúng ta trước khi Ngài dựng nên mỗi một chúng ta. Và chúng ta được chon cho một mục đích hết sức cụ thể: để làm nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được trước mặt Chúa, tức là toàn hảo theo tiêu chuẩn của Chúa: chuẩn không cần chỉnh!
Mà một khi đã được đích thân Chúa chọn để trở nên hoàn hảo, thì chúng ta CÓ KHẢ NĂNG để sống thánh khiết, có khả năng sống sạch, sống đẹp.
Nói đến chuyện nên thánh hay thánh khiết, chúng ta thường nghĩ ngay đến chuyện tình dục, hút xách, nhậu nhẹt, cờ bạc, nói tục chữi thề … Vâng, thánh khiết là được giải phóng hoàn toàn khỏi những điều đấy. Nhưng không chỉ có thế. Thánh khiết là khi chúng ta được Chúa biến đổi khỏi một lối sống ích kỷ, kiêu ngạo, tham lam; từ một con người đanh đá, chua ngoa, gian dối, dễ nổi nóng, … trở thành một con người dễ mến, chân thật, hiền lành, trầm tĩnh, … được mọi người quý mến.
Thế nhưng, nhiều người tin thờ Chúa Giê-xu nhưng vẫn cho rằng mình không thể sống thánh sạch, ngay thật được vì môi trường, vì hoàn cảnh, … Vấn đề thật sự: người ấy có MUỐN sống theo cách của Trời hay không chớ không phải là CÓ THỂ hay không; người ấy có MUỐN từ bỏ cách sống của ĐỜI hay không chớ không phải là CÓ THỂ hay không
Bất kể quá khứ của chúng ta là gì: cave, nghiệp ngập, cướp của, giết người, lừa đảo, … một khi chúng ta đã thật sự mời Chúa Giê-xu bước vào đời sống mình làm Cứu Chúa, làm ông Chủ của mình, thì tôi và anh chị em liền được Đức Chúa Trời ban cho một khả năng để sống sạch.
Không chỉ bỏ được thuốc lá, rượu bia, cờ bạc, sex nói chung (sinh hoạt tình dục, phim ảnh truyện khiêu dâm, …) và kể cả heroin cũng bỏ được, nếu chúng ta thật sự MUỐN
“Mọi sự cũ” (bao gồm cả bản tánh cũ, lối sống cũ, …) đều có thể bỏ được, nếu chúng ta muốn. Tại sao? – Vì câu Kinh Thánh này cho biết rằng, Đức Chúa Trời đã ‘cài đặt’ trong mỗi một người tin thờ Chúa một chức năng ‘sống sạch’. ‘Chức năng’ hay ‘khả năng’ này vốn được cài sẵn khi Chúa dựng nên mỗi một người chúng ta.
Bạn chỉ cần kích hoạt nó. Bằng cách nào? Lập hay mở một ‘tài khoản’ miễn phí, với username: Jesus Christ, và password là: “tôi muốn sống theo Lời Chúa”!
Nguyện xin “Đức Chúa Trời là Đấng đang tác động trong lòng anh chị em để anh chị em vừa muốn vừa làm theo ý chỉ tốt lành của Ngài”. (Philip 2: 13)


HIỆP MỘT TRONG ĐẤNG CHRIST

Epheso 1-6 
Chuyện rằng, bên dưới mảnh đất nọ tại bang Texas, nước Mỹ có một mỏ dầu lửa với trử lượng rất lớn, nhưng vì chủ nhân của nó không biết, nên khối tài sản khổng lồ kia thành ra cũng như không. Người ấy vẫn tiếp tục sống trong nghèo thiếu, vất vả.
Hiện đại hơn thì có bác kia được em cháu đi làm xa, tặng cho chiếc iPhone 6S Plus mới cáu. Vì rất chi là “mù … công nghệ thông tin” nên bác í chỉ sử dụng để gọi và nhắn tin mà thôi. Dù loại iPhone này có nhiều chức năng đến mấy đi nữa mà vào tay một người không biết như thế thì có khác gì điện thoại cục gạch, quá phí của giời, đúng không?
Tình trạng của những người tin Chúa tại Ê-phê-sô cũng tương tự như rứa. Họ sở hữu một sự giàu có thuộc linh hơi bị … khủng, nhưng chưa bao giờ nhận biết nó là của mình. Và đó là lý do đã khiến cho Phao-lô … xuống tay phóng bút để viết bức da meo này.
Giống như thơ gởi cho người Rô-ma, thơ Ê-phê-sô cũng gồm có hai phần tách bạch: phần giáo lý (chương 1-3) và phần thực hành (chương 4-6), hay phần lẽ đạo và phần sống đạo. Thơ Rô-ma nhấn mạnh đến công tác của Đức Chúa Trời trong chính cá nhân của một tín hữu, còn thơ Ê-phê-sô thì lại nói nhiều hơn về công tác của Đức Chúa Trời trong hội thánh, tức là trong cộng đồng của những người tin.
Trong chương 1, Phao-lô đề cập đến mọi phúc lành thiêng liêng trên trời đã được ban cho chúng ta trong Chúa Cứu Thế. Nói theo ngôn ngữ công nghệ thông tin thì điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời đã “cài đặt” sẵn mọi tiện ích (phúc lành) trong “cấu hình máy chủ” là Hội Thánh rồi. Chỉ cần bạn kết nối vào máy chủ – “nhờ ân sủng, bởi đức tin” – rồi “kích hoạt” các tiện ích là … ìn-dôi (enjoy) thôi.
Bạn có để ý cụm từ “trong Đấng Christ” hay “trong Chúa Cứu Thế” hoặc “trong Ngài” thường xuyên được lập đi lập lại trong thơ Ê-phê-sô không? Mật khẩu (password) đấy. Chỉ “trong Chúa” thôi nhé, còn không thì là “ngoài vùng phủ sóng” cả đấy. Nhớ nha.
Chương hai được dành để nói về sự hiệp nhất hay hòa thuận trong Chúa Cứu Thế. Hòa thuận giữa người với Trời và hòa thuận giữa dân Do Thái và dân ngoại. Điểm nhấn ở đây là để có hòa bình phải chịu hy sinh. Chúa Cứu Thế đã tình nguyện chịu chết để đem lại sự giải hòa cho chúng ta và đó cũng là mẫu mực mang tính nguyên tắc trong việc kiến tạo hòa bình mà mỗi người tin thờ Chúa phải noi theo.
Chương ba của thơ Ê-phê-sô đề cập đến sứ mạng của chúng ta – hội thánh – đối với Chúa: Đó là phải rao báo cho muốn dân, muôn nước biết rằng, “nhờ Phúc Âm và trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, các dân tộc ngoại quốc được cùng thừa kế cơ nghiệp của Chúa với người Do Thái, trở thành chi thể của cùng một thân, và cùng chung hưởng lời Chúa hứa  (3: 6). Việc rao báo thông tin này là sứ mạng, là nhiệm vụ của Hội Thánh. Công việc này sẽ quyết định Hội Thánh còn hay mất đấy.
Mà Hội Thánh là chi? – Là mỗi một người tin Chúa; là bạn, là tôi đấy. Sống hay chết là do ta quyết cả đấy.
Trong phần Giáo Lý hay Lẽ Đạo này có 2 lời cầu nguyện đầy quyền năng và rất chi là mẫu mực của Phao-lô (1: 17-21; 3: 16-19).
Trong lời cầu nguyện ở chương 1, bác Pôl cầu cho bà con cô bác ở Ê-phê-sô có tâm khôn, lòng sáng để NHẬN BIẾT. Biết chi?
Trước hết là nhận biết Chúa: Chúa là ai và những gì Chúa đã làm cho những người tin thờ Ngài (1: 3-14). Tiếp theo là nhận biết được chính mình: (a) mình là ai trong Chúa Giê-xu nè, (b) điều mình có được trong Chúa Giê-xu nè, và (c) điều mình có khả năng làm trong Chúa Giê-xu nè (1: 18-21).
Còn ở chương 3 thì bác í cầu cho họ được trải nghiệm “chiều kích thứ 4” của tình yêu Chúa Cứu Thế. Đó là chiều kích phi phàm, “vượt quá sự hiểu biết”. Chỉ khi ấy thì người tin thờ Chúa mới thật sự “được đầy dẫy mọi sự sung mãn của Đức Chúa Trời
Hãy sử dụng mẫu cầu nguyện này mà cầu thay cho người khác và cho chính mình mỗi ngày. Hãy thay tên của mình hoặc của người mà mình muốn cầu thay vào cụm từ “anh chị em” trong hai phần Kinh Thánh đó bạn nhé. Mần ngay đi. Một tháng sau là thấy “thay da, đổi thịt” đấy.
Trong ba chương còn lại, Phao-lô khích lệ người tin Chúa áp dụng những lẽ đạo đã học vào trong thực tiễn đời sống mỗi ngày. Đặc biệt là SỐNG HÒA THUẬN với mọi người trong Hội Thánh.
Hội Thánh thì bao gồm đủ mọi thành phần: người Do Thái có, người ngoại bang cũng có; có cả mục sư, giáo sư, giảng … sư, tiên tri, sứ đồ lẫn … tín đồ; có cả phụ nữ lẫn phụ … nam; có cả vợ lẫn chồng; cả ông chủ lẫn đầy tớ; cả boss lẫn công nhân; cả bố mẹ lẫn con cái. Nói chung là … vô cùng đa dạng.
Thế thì làm răng mà hiệp một? – Hãy tập chú vào những điểm chung, điểm giống nhau giữa mình với người khác.
Đơn giản rứa thôi à? – Rứa thôi. Ở đâu cũng vậy, nếu bạn luôn để ý đến những sự khác biệt với những người khác (dù trong gia đình, trong Hội Thánh, hay trong công ty, …) thì không chiến tranh lạnh, cũng sứt đầu mẻ trán và cuối cùng là … đường ai nấy đi mà thôi.
Đối với người có cùng niềm tin nơi Chúa Giê-xu thì điểm chung giữa mình với người đó là cùng thờ một Đức Chúa Trời nè; cùng là người được Chúa thương, cùng là người được Chúa cứu bởi ân sủng nè; chịu cùng một phép báp-têm vào trong sự chết của Chúa Giê-xu, và nhận cùng một sứ mạng: tỏ bày ý muốn cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho nhân gian nè; …
Nếu chân thành đủ, và khiêm nhường đủ trước Lời của Chúa ngày hôm nay (tức thơ Ê-phê-sô), thì bạn sẽ nhận thấy là giữa mình và những kẻ “nhìn cái mặt thấy ghét” kia luôn có nhiều điểm giống nhau hơn là điểm khác nhau đấy. Và một khi đã thấy được như thế rồi, thì chuyện hòa thuận lại với ‘nó’, hiệp làm một lại với ‘nó’ chỉ còn là “chuyện nhỏ như con thỏ” mà thôi.
Hiệp một không bao giờ đồng nghĩa với hòa tan, cào bằng hay đánh mất bản sắc riêng của mình. Thế thì, đừng bao giờ đòi hỏi người khác phải (nghĩ, nói, làm) giống y khuôn như mình. Hãy học biết tôn trọng sự khác biệt. Con người ta có thể bất đồng, tức là không đồng ý với nhau về một vấn đề nào đó, nhưng bất đồng không có nghĩa là bất hòa. Hãy học biết chấp nhận người khác, tôn trọng người khác như Chúa chấp nhận mỗi một chúng ta, như Chúa tôn trọng mỗi một chúng ta.
Cốt lõi của vấn đề không nằm ở chỗ đối tượng đó, cá nhân ấy có xứng đáng để mình hiệp lòng; có đáng cho mình hiếu, mình trọng, mình phục, mình yêu hay không mà là bạn và tôi có VÂNG LỜI Chúa để hiệp, để hiếu, để trọng, để phục, để yêu người đó hay không?
Chúa muốn NHÌN THẤY câu trả lời của mỗi một chúng ta.
Hãy bắt đầu HÒA THUẬN với những người bạn đang chung sống và gặp gỡ mỗi ngày từ những gì bạn đang có. Nguyện xin Đức Chúa Trời là Cha và Chúa Cứu Thế Giê-xu ban cho anh chị em bình an, tình yêu thương cùng với đức tin. Nguyện xin Đức Chúa Trời ban ân sủng cho tất cả những người yêu kính Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta bằng một tình yêu bất diệt.  (6: 23-24)


Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015

TỰ DO TRONG ĐẤNG CHRIST

Galati 1-6 
Trong Đấng Christ, tức là trong Chúa Cứu Thế Giê-xu, chúng ta được tự do.
Tự do khỏi điều gì? – Tự do khỏi luật pháp.
Tự do là để làm gì tùy thích hay răng? – Nỏ phải.
Tự do không phải là giấy phép để phạm tội mà là để sống một đời tin kính. Nói cách ngắn gọn là tự do để làm điều đúng, chớ không phải để làm điều sai. Đấy, nội dung chính của thơ Galati là chừng nớ thôi.
Nhưng … tại sao Phao-lô lại nhấn mạnh đến chuyện này khi viết cho các hội thánh tại vùng Galati? - Ấy là vì tại các hội thánh này – sau khi được Chúa dùng Phao-lô và Banaba thành lập trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất của họ – đã được các giáo sư giả, những người hầu việc Chúa gốc Do-thái, ‘chăm sóc’ hết sức tận tình bằng một Phúc Âm cải biên.
Theo loại ‘Phúc Âm’ đó, thì một người ngoại quốc, tức không phải người Do Thái, muốn nhận được sự cứu rỗi thì ngoài việc tin nơi Chúa Giê-xu còn cần phải vâng giữ luật pháp nữa.
Mà “Luật Pháp” bác Pôl đề cập ở đây là luật chi? – Đó chính là những luật lệ, quy định của Do Thái giáo. Những luật lệ, quy định này lại bao gồm những lề luật được ghi chép trong kinh Cựu ước. Trong kinh Cựu ước có 3 loại luật.
(a)   Giáo luật hay giáo nghi: Loại luật này liên quan cách đặc biệt đến việc thờ phượng Chúa của người Israel, đặc biệt là nghi thức cắt dương bì (xem Lê-vi ký 1: 1-13). Mục đích chính yếu của các nghi lễ này là hướng người ta đến với Đức Chúa Giê-xu Christ. Do đó, những luật này đã hết hiệu lực sau khi Chúa Giê-xu sống lại từ trong kẻ chết.
Người tin thờ Chúa ngày nay không phải tuân giữ những nghi lễ loại này. Tuy nhiên những nguyên tắc ẩn đằng sau các giáo nghi này là thờ phượng và yêu kính Đức Chúa Trời thánh khiết thì chúng ta vẫn phải duy trì.
(b)   Dân luật hay luật dân sự: loại luật này hướng dẫn dân Israel trong cuộc sống hàng ngày (xem Phục Truyền 24: 10-11). Vì cớ xã hội và văn hóa ngày nay đã có quá nhiều khác biệt, nên có nhiều điều trong ‘cuốn cẩm nang’ này không thể áp dụng hoàn toàn theo nghĩa đen được. Phao-lô khuyên Cơ-đốc nhân gốc ngoại quốc vâng giữ một số điều trong bộ Dân luật này, không phải vì trách nhiệm (bắt buộc) mà là vì sự hiệp một.
(c)   Luật đạo đức: Loại luật này là những mạng lịnh trực tiếp của Đức Chúa Trời, chẳng hạn như Mười Điều Răn (Xuất Hành 20: 1-17). Nó đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm khắc. Nó bày tỏ thuộc tính và ý muốn của Đức Chúa Trời và vẫn còn nguyên hiệu lực đối với chúng ta ngày hôm nay. Tuy nhiên, chúng ta vâng giữ luật đạo đức này không phải để được cứu mà là để sống trong đường lối đẹp lòng Đức Chúa Trời.
Chúng ta cần phải phân biệt rõ những điều này để hiểu được những gì Phao-lô đã nói. Khi ông bảo rằng, Cơ-đốc nhân ngoại quốc không còn ở dưới luật pháp nữa thì điều đó không có nghĩa là các điều răn, mạng lịnh trong kinh Cựu ước không còn được áp dụng đối với chúng ta ngày nay nữa. KHÔNG. Các điều răn, mạng lịnh trong kinh Cựu ước nói riêng và 39 sách Cựu ước nói chung MÃI MÃI vẫn là LỜI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI.
Kinh Thánh bảo rằng, “người ta sống không phải chỉ nhờ bánh mà còn nhờ mọi lời nói ra từ miệng Đức Chúa Trời”. Mọi lời thì bao gồm tất tần tật những gì được ghi trong 39 sách Cựu ước đấy.
Ngày nay, là những người tin thờ Chúa, chúng ta vẫn phải vâng giữ hay làm theo MỌI LỜI Chúa dạy. Có điều chúng ta vâng giữ KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC CỨU mà là để được phước!
Chúng ta đã được cứu rồi. Được cứu nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu. Không có gì phải bàn cãi trong vấn đề này cả. Không ai lăn tăn gì trong điểm cốt lõi của niềm tin Cơ-đốc này cả. Không cần phải nói đi nói lại rằng thì là “được cứu nhờ huyết Chúa Giê-xu”, “được cứu chỉ bởi đức tin”, “được cứu bởi ân điển chớ không bởi việc làm”, hay “Cơ-đốc nhân không còn ở dưới luật pháp” nữa.
Vấn đề là “được cứu” RỒI THÌ RĂNG? Được “tự do khỏi luật pháp” RỒI THÌ RĂNG?
Nghe đây:“Hỡi anh em, anh em đã được gọi đến sự tự do, song chớ lấy sự tự do đó làm dịp cho anh em ăn ở theo tánh xác thịt, nhưng hãy lấy lòng yêu thương làm đầy tớ lẫn nhau” (5: 13)
Nhưng nếu có ‘đứa’ nó bảo giờ được tự do khỏi lề luật rồi nên có quyền … ‘chơi tới bến’, không kiêng cữ gì ‘gáo’ thì răng? – Thì “không được hưởng Vương quốc Đức Chúa Trời” chớ răng (5: 21).
Còn nếu muốn rõ “được hưởng Vương quốc Đức Chúa Trời” là được điều chi, thì chịu khó đọc lại từ sách Phúc Âm Mathiơ đến các thơ tín của Phao-lô (mà ta đã đi qua) để xem thử chính Chúa Giê-xu và các sứ đồ dạy gì nhé. Đảm bảo: đọc xong là … toát mồ hôi hột liền đấy.
Trong phần Kinh Thánh hôm nay, bác Pôl lại một lần nữa đề cập đến hình ảnh: hai trong một (hai bản tánh, hai con người) trong mỗi một chúng ta.
Là TA cả đấy thôi nhưng đứa cũ, đứa mới; là TA cả đấy thôi nhưng đứa thiêng, đứa phàm. Ngặt nỗi là đứa cũ, đứa phàm kia vẫn được quyền ‘nằm’ đấy cho đến chừng ta gặp Chúa mới thôi.
Điều này cũng tương tự như máy tính của bạn có hai cấu hình hay dễ hiểu hơn là bạn dùng điện thoại 2 sim vậy. Mỗi khi nạp tiền, hay muốn gọi đi đâu là nó liền chìa ra cái thông báo: SIM 1 hay SIM 2?
“SIM Thánh Linh” hay “SIM xác thịt” là tùy vào chọn lựa của bạn đấy. Nhưng nhớ là “ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy. Kẻ gieo cho xác thịt, sẽ bởi xác thịt mà gặt sự hư nát; song kẻ gieo cho Thánh Linh, sẽ bởi Thánh Linh mà gặt sự sống đời đời.” (6: 7-8)


Thứ Tư, 25 tháng 11, 2015

UY QUYỀN TRONG CHỨC VỤ

2 Corinhto 10-13
Những tưởng là bác Pôl đã giải quyết dứt điểm với mấy ‘ôn’ con tại Cô-rinh-tô trong phần Kinh Thánh hôm qua rồi, hóa ra là chưa xong. Thế cho nên trước khi dừng bút, bác í lại mần thêm phát nữa. Kinh.
Thi hành kỷ luật một ai đó không bao giờ là một công việc thú vị, và càng nhức nhối hơn khi thẩm quyền của người thi hành kỷ luật bị công kích. Để bênh vực thẩm quyền sứ đồ của mình, một sứ đồ của Đức Chúa Giê-xu Christ, Phao-lô đã xâu chuỗi một loạt những chứng cớ từ ‘lý lịch trích ngang’ của mình, bao gồm cả sự kiện ‘thoát xác lên trời’ lẫn ‘cái dằm trong xác thịt’ (12: 1-10).
Mà bác í cũng lạ lắm cơ. Thường thì người ta “tốt khoe, xấu che” nhưng bác Pôl nhà ta thì lại ‘khoe’ toàn cái yếu, cái nhục, cái bại của mình không à (12: 22-33). Mà bác đang ‘thi’, đang ‘so’ với mấy ‘ôn’ giáo sư, mấy ‘ôn’ sứ đồ hoặc tự phong hoặc được người phong tại Cô-rinh-tô kia đấy. Bác í không sợ ‘thua’ mới lạ chớ. Răng rứa? – Vàng thiệt mà, sợ gì lửa. 
Đọc 4 chương Kinh Thánh hôm nay, chúng ta thấy được điều gì về chức vụ của một vị sứ đồ được nhìn nhận là thành công thuộc hàng tốp ten tự cổ chí kim? Nếu chỉ thuần túy trong cái nhìn của con người thì không có gì là chiến thắng, là anh hùng hết ‘gáo’. Nào bị uýnh bị tù, bị thù bị rét, bị xét bị đói, bị trói bị nguy, … liền tù tì, đúng là lên bờ xuống … biển, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Chỉ mỗi cảnh phải trốn vào giỏ để thoát thân khỏi thành Đa-mách là đã thấy bác í ‘yếu’ cỡ nào rồi, đúng không? Đó là chưa kể đến chuyện “cái dằm nằm thâm niên trong xác thịt” của bác í. Sứ đồ nổi tiếng chi mà có mỗi cái dằm tí ti nhưng vẫn không thể nhổ được hè?
Vâng, hầu hết những chức vụ, những cuộc đời được xem là thành công trong Kinh Thánh, nếu xét theo cái nhìn hay tiêu chuẩn của con người thì không thể nào gọi là thành công được, thậm chí phải gọi là thất bại mới đúng. Giăng Bap-tít, Phê-rơ, và thậm chí là của Chúa Giê-xu và như thế cuộc đời và chức vụ của Phao-lô cũng không ngoại lệ. Trong cái nhìn của con người – mà mấy ‘ôn’ con ở Cô-rinh-tô đang nhìn – thì không cách chi có thể gọi Phao-lô là sứ đồ được cả. Thế nhưng, trong cái nhìn của Thiên Chúa thì Phao-lô đúng là “hàng thượng thiên chất lượng cao” đấy.
Phao-lô không khoe về dòng giống, về bằng cấp, về học vị, về địa vị của mình, nhưng ông khoe về những hy sinh gian khó mà ông đã chịu trong tư cách một đại sứ của Đấng Christ, “một người được Chúa trực tiếp sai đi” (tức nghĩa đen của từ sứ đồ). Nói như thế không có nghĩa là bác í khoe rằng mình có khả năng chịu đòn hay … lì đòn, mà là khoe về chiếc tem chất lượng cho chức vụ sứ đồ thật của mình đấy thôi. Mà đòi đến “tem chống giả” này thì mấy ‘ôn’ giáo sư, sứ đồ tại Cô-rinh-tô kia biết móc đâu ra. Đúng là bác Pôl quái thật đấy. Chiếu như thế thì chúng không bí mới là lạ. Đúng không?
Ngày nay cũng còn đó những ‘chiên dza’ đi giảng dạo, tức là chuyên đi hết nơi này đến nơi khác để giảng dạy Kinh Thánh. Những người này thường là liên lạc, kết nối với một số người trong một hội thánh địa phương nào đó, thường là những tín đồ … có số má, hay thuộc thành phần bất hảo, để tổ chức những buổi nhóm, buổi học Kinh Thánh, cầu nguyện phấn hưng, … mà không hề xin phép hoặc thậm chí báo cho người lãnh đạo hội thánh đó biết.
Thử hỏi, một người mang danh là hầu việc Chúa (mục sư, giáo sư, truyền đạo, …) mà lén lén lút lút vào nhà người khác như một kẻ trộm như thế, thì họ sẽ dạy gì cho những con chiên trong những buổi nhóm đó: Họ khuyên các tín hữu đến tham dự các buổi nhóm đó tôn trọng, thuận phục người lãnh đạo tại địa phương đó chăng? (Họ có trọng, có phục đâu mà đi dạy người ta kia chứ). Họ sẽ khuyên tín đồ hiệp một, kính Chúa, yêu người, sống đời thánh khiết chắc?
Thế mà, “một bộ phận không nhỏ” cũng nghe theo, tin theo mới đau chớ. Bài học ở Cô-rinh-tô là ví dụ sống đấy. Hội thánh chia bè kéo cánh, người thành lập hội thánh, lãnh đạo hội thánh thật thì bị công kích, xua đuổi, còn ‘kẻ trộm, kẻ gian’ thì lại được queo-cơm! Hãy tỉnh thức hỡi anh chị em.
Trong chương 10 hôm nay cũng có một địa chỉ Kinh Thánh thường được những người Ngũ Tuần, Ân Tứ hiểu theo nghĩa ‘bị bứng gốc’ khỏi văn mạch.
‘Hắn’ đây: “Vả, những khí giới mà chúng tôi dùng để chiến tranh là không phải thuộc về xác thịt đâu, bèn là bởi quyền năng của Đức Chúa Trời, có sức mạnh để đạp đổ các đồn lũy: Nhờ khí giới đó chúng tôi đánh đổ các lý luận, mọi sự tự cao nổi lên nghịch cùng sự hiểu biết Đức Chúa Trời, và bắt hết các ý tưởng làm tôi vâng phục Đấng Christ” (10: 4-5).
Nếu đọc ‘có đầu có đuôi’, thì ta sẽ thấy bác Pôl không hề có ý nói đến chiến trận thuộc linh, diệt ma trừ tà gì ở đây hết á. Ý bác chỉ đơn giản tuyên bố là sẽ không ăn miếng trả miếng với mấy ‘ôn’ con của bác tại Cô-rinh-tô theo cùng cái cách rất chi là xác thịt, rất chi là … bẩn mà chúng dành cho bác mà thôi. Đó cũng là xì-tai mà chúng ta cần phải học theo bác í khi bị đòn oan nha bà con. Nhớ đấy.
Điều cuối cùng trong phần Kinh Thánh hôm nay liên quan đến “cái dằm trong xác thịt” của Phao-lô (12: 7-9). “Cái dằm” nếu là nghĩa đen thùi lùi thì quá đơn giản. Đó là một mãnh vỡ rất nhỏ hoặc của gỗ, hoặc của đá, … có khả năng xuyên thấu. Nhưng chắc chắn Phao-lô không nói theo nghĩa đen. Này nhé, ‘hắn’ là “sứ giả của Sa-tan”, được chính Chúa (chớ không phải Sa-tan à nha) cài cắm vào xác thịt Phao-lô. Mục đích? – Giữ Phao-lô khỏi kiêu ngạo vì chuyến du lịch lên thiên đàng năm trước.
Như vậy, cái dằm này cũng có chức năng giống hệt như một cái phanh (thắng) của chiếc xe hay chính xác hơn là như một chiếc hàm thiếc nơi miệng ngựa vậy đó. Vì mục đích của ‘hắn’ rất chi là rõ ràng, tức là có lợi cho Phao-lô, nên dù 3 lần chớ đến 100 lần ông cầu xin đi nữa thì Chúa vẫn lắc đầu như thường.
Vì dính đến “xác thịt” nên nhiều người cho rằng “cái dằm” là một căn bệnh … kinh niên chi đấy mà Phao-lô đã mắc. Số khác thì luận rằng, “cái dằm” là cái số khổ, cái số bị đòn mà Phao-lô được hưởng trọn đời, kể từ khi bước chân vào con đường hầu việc Chúa. Chịu. Giá mà bác í chịu nói rõ cho một tiếng thì hay biết mấy nhễ. Giờ thì chỉ còn ‘nín chịu’ chờ ngày về trễn mà hỏi bác í chớ biết mần răng.
Bạn có thể cho rằng, “cái dằm” là cái chi chi đó cũng được, nhưng đó phải là ‘cái’ mà Chúa dùng để ‘hãm’ người của Chúa khỏi rơi vào tội kiêu ngạo và để chứng tỏ rằng, “quyền năng của Đức Chúa Trời trở nên trọn vẹn trong sự yếu đuối của con người”.


Thứ Ba, 24 tháng 11, 2015

ĐỘNG CƠ & HÌNH MẪU

2 Corinhto 6-9
Phần Kinh Thánh hôm nay được dành để nói về hai chuyện, tuy có ‘dính dáng’ đến nhau nhưng thoạt trông thì chẳng có liên quan gì … ráo trọi. Hai chương đầu (6-7), được Phao-lô sử dụng để tiếp tục ‘bênh’ mình. Còn hai chương tiếp theo (8-9) được dùng để dạy về việc dâng và nhận tiền dâng.
Trong chương 6, có hai địa chỉ Kinh Thánh thường được trích dẫn để giảng dạy với ý nghĩa xa với ý nghĩa gốc cỡ chừng … “một quảng đường đi một ngày sa-bát”! He he. Đó là 6: 2 và 6: 14.
Em đầu thì được dùng để kêu gọi người ta tin nhận Chúa, (tương tự như Khải huyền 3: 20), còn đứa sau (6: 14) thì dùng để đe mấy nhỏ đang lăm le lấy chồng, cưới vợ … ‘ngoài luồng’. Vâng, nếu ‘bứng gốc’ 2 đứa đó ra khỏi mạch văn thì ai muốn hiểu sao hiểu, còn nếu để chúng đứng nguyên vị trí như nó vốn có thì ý nghĩa là hơi bị khác à nha.
Nhớ là Phao-lô đang say sưa ‘viết tin nhắn’ cho ‘một bộ phận không nhỏ’ … thánh mà không thánh hay nhẹ nhàng hơn là … đã tái sanh mà tánh (vẫn còn) sai! Phao-lô viết cho những người đang chỉ trích, từ chối ông tại Cô-rinh-tô. Ông ‘nhắn tin’ cho họ, trước hết, với tư cách là một đại sứ của Đấng Christ (5: 20), một ‘đồng nghiệp’ của Đức Chúa Trời (6: 1).
Nếu một quốc gia từ chối không tiếp đại sứ của một quốc gia khác thì điều đó liên quan đến quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia rồi, chớ không chỉ liên quan đến bản thân vị đại sứ ấy. Khi người Cô-rinh-tô chống đối, từ khước Phao-lô – vị đại sứ của Nước Trời – thì có nghĩa là họ đang chống đối, từ khước chính Chúa. Đó là lý do ở chương 5, Phao-lô đã khuyên nài họ làm hòa lại với Chúa, và ở đầu chương 6, ông kêu gọi họ “đừng nhận ân điển của Chúa cách vô ích”.
Chúng ta thường được dạy rằng, ân điển là quà tặng miễn phí mà người nhận không xứng đáng được hưởng. Thế nhưng, đối với Phao-lô, thì ân điển còn hơn là như thế. Ân điển là khả năng siêu nhiên, là đặc ân để phục vụ, để làm trọn ý định của Thiên Chúa trên đời sống của một tín hữu: “Nhưng nhờ ân điển của Đức Chúa Trời mà tôi được như ngày nay, và ân điển của Ngài ban cho tôi không phải là vô ích. Trái lại, tôi làm việc nhiều hơn tất cả những người khác; nhưng nào phải tôi mà là ân điển của Đức Chúa Trời ở với tôi” (1Cô-rinh-tô 15: 10).
Cũng giống như một ‘bộ phận không nhỏ’ này ở Cô-rinh-tô năm xưa, khá nhiều con dân Chúa và hội thánh ngày nay có xu hướng xem nhẹ chức vụ đầy hy sinh của các mục sư, truyền đạo và những người hầu việc Chúa trung tín. Thay vì nhận lãnh sự phục vụ từ những người hầu việc Chúa với tấm lòng biết ơn, thì những thành phần này, hội thánh này lại đón nhận với thái độ chỉ trích, phê phán. Không tiếc lời chỉ trích, phê phán, lên án những người hầu việc Chúa nhưng tuần nào chúng cũng ‘ngửa tay’ ra để nhận từ những người ấy. Nhận như thế là “nhận ân điển của Chúa cách vô ích” đấy.
Có thể áp-đét (update) câu nói của Phao-lô trong 6: 1 như ri: “Hãy sử dụng cách có ích những gì mà quý dzị đã nhận lãnh từ nơi chúng tôi, thay vì suốt ngày nói xấu chúng tôi, chỉ trích chúng tôi, công kích chúng tôi. Và hôm nay, vâng chính hôm nay là thì giờ thuận lợi để làm chuyện có ích đó. Chúa sẵn sàng giúp quý dzị. Chúa sẵn sàng cứu quý dzị”.
Anh chị em ơi, nếu không thể NÓI một lời cảm ơn, dù chỉ là lời nói thuần túy, đối với những người lãnh đạo thuộc linh, những người hầu việc Chúa trong hội thánh của mình, thì tốt hơn hết anh chị em hãy yên lặng thay vì nói những lời vô ơn đối với họ, những người đã phải chịu quá nhiều hy sinh lao nhọc để phục vụ anh chị em. Nếu không thể LÀM một điều gì đấy có ích cho những người thầy, người cha hay người mẹ thuộc linh của mình, thì tốt hơn là anh chị em đừng làm gì hết thay vì chất thêm trên họ những gánh nặng mà họ vốn dĩ đang phải mang gánh nhiều lắm rồi.
Đã là người tin thờ Chúa, hà cớ chi ta phải ‘đèo bồng’, phải “mang ách chung”, tức là chấp nhận những ý tưởng tối tăm, gian ác, ô dơ để chống nghịch lại với những người lãnh đạo thuộc linh, những người hầu việc Chúa? Quỉ đấy chớ không phải mình đâu. Lo mà ra khỏi chúng đi, lo mà phân rẽ khỏi chúng đi. Anh chị em có còn muốn được Đức Chúa Trời tiếp nhận không? Anh chị em còn muốn được tiếp tục làm con trai, con gái của Đức Chúa Trời không? (6: 14-18)
Hai chương 8 và 9 đi vào hướng dẫn cụ thể cho việc làm thế nào để ân điển của Chúa không trở nên vô ích trong đời sống của một tín hữu. Cách hiệu quả nhất: sống hiến dâng. Tình huống cụ thể: dâng tiền. Đối tượng cụ thể: những đồng đạo đang trải qua nạn đói tại Jerusalem.
Rất nhiều khuôn mẫu được Phao-lô sử dụng trong việc quyên góp tài chính mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị sử dụng. Đó là việc sử dụng gương người tốt việc tốt để kêu gọi: tín hữu tại hội thánh Macedonia và chính Đấng Christ (8: 1-9); là việc đề cập đến lợi ích của người dâng, cả tiếng lẫn … miếng (8: 10-15; 9: 1-14). Đó là áp dụng nguyên tắc “minh bạch, công khai” về tài chánh khi cử cả một “ban tài chánh” hẳn hòi để lo việc thu và quản lý số tiền quyên góp (8: 16-24). Một trong những cách hiệu quả mà các quốc gia tiến bộ trên thế giới ngày nay đều áp dụng để ngăn chận tình trạng quan chức ăn cắp (ở ta cứ gọi trớ đi là tham nhũng) là sử dụng giao dịch điện tử, tức là hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng tiền mặt. Một khi mà mọi con số thu chi của một cá nhân, một tổ chức đều được công khai trong hệ thống ngân hàng, tức là được nhiều người biết đến, thì ý tưởng ăn cắp của một người sẽ bị ngăn chặn từ xa.
Tiếc thay, ở ta và ở … Tàu chuyện đó vẫn còn là ước mơ. Thế cho nên, đã có không biết bao nhiêu bậc cha, chú – trong Hội Thánh cũng như ngoài xã hội – đã chết thảm vì cái vụ ‘tiền tươi, thóc thật’ này. Đúng là bác Phao-lô nhà ta nhìn xa, trông rộng hì. Nguyên tắc công khai minh bạch về tài chánh lại càng cần thiết được áp dụng hơn nữa tại những nơi mà số Cơ-đốc nhân xác thịt chiếm ‘một bộ phận không nhỏ’ như tại hội thánh Cô-rinh-tô xưa. Nó không chỉ giữ cho người tin Chúa không ‘chết’ vì tiền, mà còn bảo vệ khỏi những kẻ ‘được ơn’ kiếm chuyện, vu khống người hầu việc Chúa.
Còn rất nhiều điều để học từ trong hai chương 8 và 9 về sự dâng hiến, đặc biệt là về chính Đức Chúa Trời. Song thời lượng không cho phép nên đành hẹn lại anh chị em vào một dịp khác.


Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

CẠN TỎ NIỀM RIÊNG

2 Corinhto 1-5 
Để hiểu đúng và tránh bị … “đậu phụng đường” khi đọc thơ 2 Cô-rinh-tô, anh chị em nên lưu vào bộ nhớ vài điều cơ bản sau đây về hoàn cảnh mà ‘hắn’ được ra đời nhé.
Nổi giận bởi bức da-meo đầu tiên của Phao-lô, tức thơ 1Cô-rinh-tô, những giáo sư giả tại Cô-rinh-tô đã xúi giục quần chúng chống lại ông. Họ vu rằng Phao-lô thuộc típ người sớm nắng chiều mưa, kiêu ngạo, không thật sự ấn tượng cả trong ngoại hình lẫn trong lời nói, không thành thật và không đủ chuẩn của một sứ đồ. Phao-lô đã thân hành đến đấy, nhưng dường như những lãnh đạo ở đó – những người mà ông đem về với Chúa và trưởng dưỡng – đã không còn ‘queo-căm’ ông. Thế là Phao-lô buộc phải cắt ngắn chuyến thăm để về lại Ê-phê-sô. Trong thời gian lưu lại đây, ông đã được nếm đủ cả vui lẫn buồn (Công Vụ 19)
Từ Ê-phê-sô, Phao-lô viết một lá thơ ngắn, (không phải thơ 2 Cô-rinh-tô đâu nha) rồi sai Tít đem đến Cô-rinh-tô, xem xét và giải quyết tình hình ở đấy. Còn bức da-meo 2 Cô-rinh-tô này được Phao-lô ‘phóng bút’ sau khi Tít thắng lợi trở về. Đại đa số tôi con Chúa tại Cô-rinh-tô đã nhận ra được vấn đề, ăn năn nhận lỗi. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít tiếp tục ‘giữ vững lập trường quan điểm’ lên án, phê phán, chỉ trích Phao-lô – người thầy, người cha thuộc linh của chính họ.
Thư 2 Cô-rinh-tô được Phao-lô dùng để bênh vực cho chức vụ sứ đồ của mình, nhưng qua đó cũng cho ta thấy được một khía cạnh trong gói “khổ nạn” của một người hầu việc Chúa: khổ vì trò, vì con của mình nuôi dạy mãi mà chẳng chịu lớn (nhưng chúng thì cứ tưởng rằng chúng đã lớn!).
Trong phần Kinh Thánh hôm nay, Phao-lô từng bước chứng minh những nhận định cùng những lời buộc tội của những học trò cá biệt, những nghịch tử của ông tại Cô-rinh-tô là sai bét tè lè nhè luôn.
Trước hết, Phao-lô báo cho mấy ‘ông’ con của mình biết rằng việc ông đang chịu khổ … sém chết tại Ê-phê-sô là để cho mấy ‘ổng’ được sướng đấy (1: 3-11). Và khổ nạn trăm bề mà Phao-lô đang chịu là có sự tiếp tay hay có “sự tham gia” của họ (1: 7). Thế thì, hãy xem lại đi chúng tôi là người thế nào nhé. Người thế nào lại sẵn sàng chịu khổ, thậm chí sẵn sàng bỏ mạng vì anh em mà không một tiếng oán than (1: 12-14)?
Tiếp theo, lý do Phao-lô rút sớm và không tái xuất hiện tại Cô-rinh-tô “mặt đối mặt” với những người chống đối, không phải vì ông thuộc nhóm “miệng hùm gan sứa” hoặc là kẻ “sớm nắng chiều mưa”. Ông không đến trực tiếp mà chỉ đến gián tiếp qua thư từ là bởi vì YÊU đó thôi. Có cha mẹ nào lại đi hơn thua với con bao giờ, đặc biệt là những đứa con bị … hội chứng down, đúng không? (1:15 - 2:4).
Còn trước việc ‘một bộ phận không nhỏ’ ở Cô-rinh-tô chê mình “không thật sự ấn tượng cả trong ngoại hình lẫn trong lời nói”, Phao-lô không hề phủ nhận gì cả. Thậm chí ông còn xác nhận là họ đúng nữa kia đấy. Đúng là Phao-lô chẳng có một tấm giấy xác nhận hay thơ giới thiệu, tiến cử gì từ Jerusalem ‘gáo’ trọi. Điều duy nhất mà ông có là ‘sản phẩm’ trực tiếp của ông – tức hội thánh tại Cô-rinh-tô mà trong số đó có những kẻ đang chống đối ông – mà thôi.
Ngày nay cũng vậy, có biết bao nhiêu anh chị ‘sanh dziên’ – tín đồ có, mà đã là người hầu việc Chúa cũng có – luôn mồm chê thầy, chê bố mình thậm tệ mà không hề biết rằng, mình từ người đó mà ra. Và thường thì những người có ‘ơn’ phê bình, chỉ trích và thậm chí là mạt sát thầy của mình, bố của mình cách thậm tệ lại là những người rất ít khi và không loại trừ khả năng là chưa khi nào cầu nguyện cho những người ‘đẻ’ ra mình hay ‘nuôi dưỡng’ mình.
Nếu anh chị em là người đang ở vào hàng thầy, hàng bố mà gặp phải cảnh bị chữi bị lánh, bị đuổi bị đánh bởi chính những ‘ông’ con, ‘ông’ trò của mình thì dù có đau hơn … bò đá đi nữa, hẳn nhiên, thì cũng đừng trù ẻo chúng nó làm gì. Thay vào đó, hãy cậy ơn Chúa mà theo gương Phao-lô … gồng mình chịu trận. Phao-lô làm vậy cũng là vì theo gương Đấng Christ – gương chịu khổ vì tội nhân để đem họ làm hòa lại với Đức Chúa Trời. Đến Chúa Giê-xu – không một sai sót gì, dù bé, dù lớn – mà chúng còn từ chối, đoạn tuyệt thẳng thừng, thì Phao-lô hay bất cứ ông thầy, ông bố tinh thần nào làm răng mà thoát được.
Đời một người ra đi rao giảng Tin Lành, thiết lập hội thánh và huấn luyện môn đồ là một của lễ dâng tế cho Đức Chúa Trời. Mà đã là của lễ (thường ở dưới dạng thức ăn) thì người khen, kẻ chê cũng là chuyện thường tình thôi. Người khỏe thì khen thơm, đứa bệnh sắp chết thì chê thối. Đứa sáng thì cho rằng xinh, còn đứa mù đui thì cho là xấu tệ. Nếu đã là người hầu việc Chúa thì ta đâu thể “đẽo cày giữ đường” theo chuẩn lè tè, và thậm chí chưa thể gọi là chuẩn, của nhóm ‘quần chúng tự phát’ trong hội thánh được.
Bí quyết thành công của người giảng Tin Lành nằm ở sứ điệp hòa giải của người đó chớ không nằm ở ngoại hình, tài ăn nói hay địa vị chức tước của người. Trong một thời đại và trong một xã hội mà hình thức bề ngoài, và danh hiệu được đề cao cách quá đáng như hiện nay, ngay cả trong các hội thánh và giữa cộng đồng dân sự Chúa, tôi tớ Chúa, thì những “chuẩn mực đo lường” mà Phao-lô nêu ra trong các chương 4 và 5 của thơ 2 Cô-rinh-tô đáng được nghiêm túc xem xét và vận dụng.
Nếu những địa chỉ Kinh Thánh như 4: 17; 5: 7; 5: 17; 5: 21 mà được giải thích trong cùng văn cảnh của những chương Kinh Thánh này thì chúng ta sẽ hiểu được chính xác hơn những gì mà Phao-lô muốn nói, thay vì cách hiểu hơi bị … ‘mất gốc’ nên có thể diễn giải rộng mênh mông, như từ trước đến nay ta vẫn luôn được nghe.
Cuối cùng, Phao-lô tạm kết chương 5 bằng một lời kêu gọi: “Nhân danh Chúa Cứu Thế chúng tôi van nài anh chị em hãy hòa giải với Đức Chúa Trời” (5: 20). “Anh chị em” ở đây là những thánh đồ, là ‘một bộ phận không nhỏ’ tín hữu và người hầu việc Chúa tại Cô-rinh-tô đấy. Thành phần như thế mà Phao-lô lại kêu gọi là “hãy làm hòa với Đức Chúa Trời”.
Theo bạn thì tại làm răng?