Thứ Năm, 5 tháng 2, 2015

ĐẠI LỄ CHUỘC TỘI

Lê-vi ký 16-17
Để hiểu rõ hơn phần Kinh Thánh hôm nay, anh chị em nên đọc thêm thơ Hê-bơ-rơ 9: 1 – 10: 22. Ở đó, chúng ta sẽ thấy được những nghi lễ trong Cựu Ước chỉ là những cái bóng, còn hình thật là chính Đức Chúa Giê-xu. Bóng thì bao giờ cũng … mờ, chủ yếu là thấy ‘đường viền’, chớ làm sao rõ từng đường … nét; bóng không bao giờ là một với hình, nhưng đã có bóng thì chắc chắn là đã có hình. (Cũng giống y chang như, nếu đã có Ê-va thì ‘chéc cú’ là thằng A-đam đã có mặt ở đâu đó rồi!)
Thật phước thay cho chúng ta là những người đã ‘thấy’ HÌNH THẬT rồi. Thế cho nên, ngày nay khi bộ hành xuyên các sách trong kinh Cựu Ước là ta đang cùng nhau ‘xem Hình, bắt bóng’ đấy nha. He he
Ấy là đối với ta ngày nay, chớ còn đối với dân Y-sơ-ra-ên ngày xưa, thậm chí cả Môi-se và Aron, thì chắc là họ không biết chi đến ‘hình’ với ‘bóng’ cả. Họ chỉ biết rằng, mỗi năm có một ngày ‘tổng vệ sinh’ đối với tội lỗi trong toàn cộng đồng, một ngày ‘tẩy uế trọn gói’.
Trong ngày đó, không ai làm việc gì cả, ngoại trừ một việc KIÊNG ĂN. Đó là ngày xét mình, xưng tội từ bé đến lớn, từ quan tới dân, từ thượng tế cho đến … phó tế, kể cả người ngoại bang đang chung sống trong cộng đồng Y-sơ-ra-ên.
Đó là ngày đổ máu nhiều nhất trong năm. Máu, tức mạng sống của các con thú được hiến tế, đã đổ ra để chịu tội thay cho toàn dân, là tội mà cả cộng đồng đã phạm trong suốt một năm, dù họ nhận biết hay không nhận biết. Mạng đền mạng mà.
Ngay tại đây, ta sẽ hiểu được tại sao Chúa cấm con dân của Ngài ăn máu (huyết) của bất kỳ con vật nào. Máu, tức là mạng sống, không dùng để ăn, máu chỉ dùng để tế. Máu không dành cho người, mà chỉ thuộc về Trời. Trời không ‘ăn’ máu hay khát máu thú vật, nhưng Trời chấp nhận sự thay thế bằng máu. Mạng đền mạng là vậy.
Thế nhưng, máu (mạng) con thú không thể nào thực sự ‘đền’ được máu (mạng) cho người. Cho nên, máu con thú hiến tế chỉ có thể che tội mà không thể xóa tội hoàn toàn cho người dâng lễ được. Máu con thú hiến tế chỉ có thể giúp ‘khoanh nợ’ tội hay ‘giãn nợ’ tội mà thôi. Đó là lý do mà năm nào người ta cũng phải dâng đủ 5 ‘em’: 1 bò, 2 dê, 2 cừu.
Tất cả 5 tế lễ này đều đã hội đủ trong tế lễ toàn hảo bởi Chiên Con Thiên Chúa, là Đức Chúa Giê-xu. Ngài vừa là của lễ, vừa là thượng tế dâng lễ.
Đại LỄ CHUỘC TỘI lần cuối cùng, không chỉ cho dân Y-sơ-ra-ên mà còn cho toàn nhân loại, đã diễn ra trên đồi Gô-gô-tha tại thập tự giá. Mọi nợ tội từng được ‘khoanh’, được ‘giãn’ từ A-đam cho đến tận mai sau đã được trả dứt điểm, một lần đủ cả. Máu (Mạng) của Chúa, Đấng ban sự sống cho muôn loài, tức là nguồn sự sống, thừa sức để ‘đền’ mạng cho tất cả chúng sinh.
Nơi Chí Thánh hay Cực Thánh, nơi mà thời xưa chỉ có vị thượng tế mới được vào mỗi năm một lần, giờ bạn và tôi, những người thật lòng tin thờ Chúa Giê-xu, có thể tự do đi vào, bất cứ khi nào chúng ta muốn. Đó là đặc ân.
Ngày nay, dù phần dâng lễ hiến tế để chuộc tội, chúng ta không cần phải làm mỗi khi đến cùng Đức Chúa Trời, thế nhưng thái độ cung kính, tôn trọng Chúa và giữ mình thánh sạch mỗi khi đến gần Chúa, Đấng Chí Thánh là không thể thay đổi. Đó chính là điều chúng ta có thể áp dụng vào thực tiễn đời sống qua phần Kinh Thánh hôm nay. Đừng bao giờ ra mắt Chúa với thái độ bất kính và quần áo không nghiêm túc anh chị em nhé. Nhớ đấy.
Thêm vào đấy, mỗi năm nếu ta có được ít nhất là MỘT NGÀY kiêng ăn, cầu nguyện, xét lòng dọn mình ra thánh ở trước mặt Chúa thì có phải là phước lắm sao. Hẵn nhiên, đó không phải là để chuộc tội. Cũng không cần phải đúng ngày 10 tháng 7 (chớ không phải rằm nha. Hic), tức vào khoảng cuối tháng 9 đầu tháng 10 dương lịch, mà là một ngày bất kỳ vào những tháng cuối năm.
Nếu thời gian làm việc và điều kiện cho phép, tại sao bạn không thể chọn một ‘gói’ 3 ngày, hay đối với những người hầu việc Chúa trọn thời giờ là ‘gói’ 7 ngày? Hãy sắp xếp từ bây giờ đi bạn nhé. Ngày đó chắc chắn sẽ là đại phúc cho bạn và gia đình bạn đấy.
Ngoài ra, đừng bao giờ, đừng bao giờ, đừng bao giờ ĂN máu, tức là huyết hay tiết, các bạn nhé, dù là sống hay chín. Nhớ nhé: máu hay tiết KHÔNG BAO GIỜ được Chúa định làm thức ăn cho con người. Vấn đề không nằm ở chỗ vệ sinh phòng bệnh, vấn đề cũng không chỉ là điều răn, mà còn là MÁU hay HUYẾT, tức là mạng sống của con thú hay của con người THUỘC VỀ CHÚA. Không ai được quyền chiếm đoạt. Đừng cố mà rước họa vào thân, anh chị em nhé.
Đã bảo “ăn gì cũng được, trừ ăn cắp” mà lị. Trộm của người khác là ăn cắp rồi đấy. (Rứa thì của cúng có phải là ‘ăn cắp’ không nhỉ?)
Tái nạm: Trong 16: 8, 10, 26 trong bản dịch cũ để nguyên từ A-xa-sên (azazel) mà không dịch nghĩa, nên trong câu 10 nói một con dê đực sẽ thuộc về A-xa-sên dễ khiến cho người đọc hiểu nhầm thành một ai đó, ma quỷ hay sa-tan chẳng hạn. Anh chị em nên sử dụng Bản Dịch Mới sẽ hiểu rõ ý nghĩa chỗ này hơn



Thứ Tư, 4 tháng 2, 2015

NGÀY MÔ CŨNG THÁNH

Lê-vi ký 11-15
Phần Kinh Thánh chúng ta đọc hôm nay liên quan đến các luật định về SỰ TINH SẠCH, bao gồm ‘vệ sinh an toàn thực phẩm’ và vệ sinh … thân thể. Thoạt nhìn thì 5 chương Kinh Thánh hôm nay dường như chỉ liên quan đến vấn đề sức khỏe mà thôi: nào là ăn, nào là đẻ, nào là ghẻ, nào là … tè! Thế nhưng, nếu chịu khó ‘bóc tách’ lớp vỏ bề ngoài này thì ta sẽ học được khối điều hay đấy.
Tại sao Chúa lại can thiệp quá sâu đến từng chi tiết trong đời sống thường nhật của dân Y-sơ-ra-ên đến thế? Câu trả lời là: Vì họ là dân tộc duy nhất được Chúa trực tiếp tuyển chọn. Họ được chọn làm dân thánh.
Dân thánh là răng? – là dân được biệt riêng ra, được dành riêng cho mỗi mình Đức Chúa Trời. Do đó, họ phải sống cách khác biệt với các dân tộc ở chung quanh. Nôm na là họ phải … khác người, phải ‘không đụng hàng’! Họ phải ‘khác người’ từ chuyện ăn đến chuyện ngủ.
“Ta là CHÚA, Đấng đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập để làm Đức Chúa Trời các ngươi; vì vậy các ngươi phải nên thánh, vì Ta là thánh” (11: 45)
Có đến 2 chương 13 & 14, trong phần Kinh Thánh hôm nay dành nói về bệnh phung (phong), một căn bệnh nan y thời bấy giờ. Bệnh không chỉ có nơi người, mà dường như còn có cả trên quần áo và nhà cửa nữa.
Nhưng trong vô vàn thứ bệnh mà dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị, chắc chắn là như thế,  tại sao chỉ có mỗi ‘thằng’ phong bị nêu tên? Rồi tại sao không phải là bác sĩ thăm khám cho ‘nó’ mà chỉ có thầy tế lễ? Rồi tại sao ‘nó’ bị ‘ghẻ’ nhưng khi được lành bệnh thì lại phải dâng lễ chuộc tội, lễ chay? Rồi tại sao trong khi dâng lễ ‘nó’ được thầy tế bôi máu, bôi dầu lên tai, lên ngón tay, ngón chân không khác chi là lúc Aron được thụ phong chức thượng tế?
Chắc chắn là có ‘ý đồ’, nhễ.
Bệnh phong được xem như là hình bóng của tội lỗi – không một loại dược phẩm nào, cũng như không người nào có thể chữa trị được, ngoại trừ chính Đức Chúa Trời. Tội lỗi cũng một thể ấy – con người không thể tự cứu mình ra khỏi tội lỗi và hậu quả của nó bởi sức riêng. Trong ánh sáng của Tân Ước thì Đức Chúa Giê-xu vừa là sinh tế, vừa là thầy tế lễ. Do đó, không bởi Ngài và không nhờ Ngài thì không cách chi được sạch, được lành bệnh ‘tội’ cả.
Trong nghi thức tẩy sạch được ký thuật ở Lê-vi ký 14, thì đầu tiên là huyết được sử dụng, rồi sau đó là dầu. Việc rảy huyết sinh tế là biểu tượng cho việc xóa sạch tội (được tha tội) bởi huyết Đấng Christ, còn việc xức dầu – sự đụng chạm của Đức Thánh Linh và ảnh hưởng của Ngài trên đời sống của chúng ta.
Ngoài ra, bệnh phong về người, về áo, và về nhà là hình bóng về tội trong lòng, trong thói quen, và trong gia đình. Đấy, ngạc nhiên chưa?
Thế nhưng, điều mà nhiều người quan tâm hơn hôm nay chính là cái dzụ ăn uống trong đoạn 11. Đúng hôn? Tết đến nơi rồi còn gì. He he.
Mới đọc qua, nhiều người sẽ vội cho rằng, Chúa phân ra hai loại thức ăn: là heo-thì (healthy) và heo … quay!
Không hề. SẠCH & KHÔNG SẠCH ở đây không dính dáng gì đến ‘an toàn vệ sinh thực phẩm’ hay ‘sức khỏe thường thức’ đâu nhé. Sạch và không sạch ở đây liên quan đến việc nên thánh, tức là liên quan đến yêu cầu ‘khác người’, ‘không đụng hàng’ đối với tuyển dân của Đức Chúa Trời mà thôi.
Không phải chỉ đối với dân Y-sơ-ra-ên thì những con vật này mới được liệt vào nhóm sạch hay không sạch, mà từ thời Nô-ê và thậm chí là trước nữa đã từng tồn tại bảng ‘phong … thú’ này rồi! (Sáng 7: 2)
Một cách nôm na là ri: Chúa tạo nên muôn loài động vật, nhưng có một số loài KHÔNG ĐƯỢC TẠO NÊN ĐỂ LÀM THỨC ĂN cho con người, ít nữa cũng là con Chúa. Mấy ‘anh, chị’ có nickname KHÔNG SẠCH chính là số này. Rõ rồi nhé.
Thế, tuyển dân Chúa ngày nay có phải kiêng khem mấy ‘em’ KHÔNG SẠCH hay không? – Nếu thành tâm ‘ngâm kíu’ thật, thật kỹ thì chúng ta phải nhìn nhận rằng kinh Tân Ước không hề thủ tiêu luật định của Chúa về chuyện … ăn uống! Tức là, có kiêng đấy.
Chẳng hạn, cuộc tranh luận của Chúa Giê-xu với những người Pharisi trong Mác đoạn 7 không liên quan đến chuyện ăn thịt, mà là chuyện rữa tay hay không rữa tay trước khi ăn, là nghi thức theo truyền thống chớ không phải là mạng lịnh được ghi trong Thánh Kinh. Còn sự hiện thấy của Phê-rơ trong Công vụ đoạn 10 không phải là cơ sở để thay đổi luật định của Chúa về chuyện măm măm. Sự hiện thấy tỏ bày một chân lý rằng, không một NGƯỜI nào bị gọi là ô uế hay không tinh sạch cả.
Thế còn 1 Timothe 4: 1-3 thì sao?
“Thánh Linh phán rõ ràng rằng trong thời kỳ cuối cùng sẽ có một số người chối bỏ đức tin, chạy theo các thần lừa dối và giáo lý của ma quỷ,  bởi luận điệu đạo đức giả của những kẻ nói dối mà lương tâm đã chai lì.  Họ cấm cưới gả, và bắt kiêng cữ CÁC THỨC ĂN MÀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÃ TẠO RA CHO NHỮNG AI TIN VÀ HIỂU BIẾT CHÂN LÝ NHẬN LÃNH VỚI LÒNG BIẾT ƠN.  Vì mọi vật do Đức Chúa Trời tạo dựng đều tốt đẹp, không có vật gì đáng loại bỏ, miễn là được tiếp nhận với lòng biết ơn; vì nhờ LỜI ĐỨC CHÚA TRỜI và LỜI CẦU NGUYỆN mà vật đó được thánh hóa”
Phải đọc nguyên cụm (từ câu 1-5) thì mới hiểu chính xác được điều mà sứ đồ Phao-lô muốn nói. Rằng thì là có mấy ông “sư hổ mang” hay “mái gầm” gì đấy, trong thời kỳ cuối cùng, bổng nhiên muốn … dạy: không được ăn NHỮNG THỨC ĂN MÀ ĐỨC CHÚA TRỜI ĐÃ TẠO RA CHO NHỮNG AI TIN VÀ HIỂU BIẾT CHÂN LÝ NHẬN LÃNH VỚI LÒNG BIẾT ƠN. Điều này có nghĩa là mấy ông thầy kia xúi người ta kiêng cử những món mà Đức Chúa Trời CHO PHÉP ăn.
Đâu là “những thức ăn mà Đức Chúa Trời đã tạo ra”, tức là “những thức ăn ta được phép ăn”? – Thì cả một mê-niêu (menu) trong Lê-vi ký 11 (và cả trong Phục Truyền 14) đấy thôi. Không có một danh sách nào khác. Không hề có chuyện mâu thuẩn về chuyện ăn uống giữa sự dạy dỗ của Phao-lô và mạng lịnh của Chúa trong sách Lê-vi ký đâu nha.
Từ trước đến nay, MSB tui thường túm gọn chuyện ăn uống của người tin thờ Chúa thời nay trong một câu sờ-lô-gân (slogan) hơi bị sốc: “Ăn gì cũng được, trừ ăn … cắp!” Thế nhưng, giờ thì phải đưa chuyện ăn uống lên một tầm cao mới rồi. Hơn cả chuyện “ăn để sống”, hơn cả mức độ “ăn có hiểu biết vì sức khỏe”, ĂN, giờ còn là hành động của đức tin. Đó cũng chính là sự vâng lời.
Quyết định thuộc về mỗi một chúng ta. 


Thứ Ba, 3 tháng 2, 2015

PHONG, PHỤC, PHẠT

Lê-vi ký 8-10
Tiếp theo sau những của tế lễ được đề cập trong các chương trước, là những đòi hỏi thiêng thượng đối với những vị tư tế, tức những người trực tiếp dâng lễ. Nhớ rằng, mỗi một chúng ta, những người tin thờ Chúa Giê-xu, là một vị tư tế, một thầy tế lễ cấp hoàng gia đấy nhé (1 Phê-rơ 2: 9)
Môi-se xức dầu xác nhận chức vụ tế lễ cho A-rôn và 4 con trai của ông bên trong Lều Thánh. Sự kiện này kéo dài suốt bảy ngày liên tục và sau đó, A-rôn bắt đầu thực thi chức phận. Tuy nhiên, tuần lễ thụ chức đầy vui mừng này kết thúc bằng cái chết đột ngột của 2 con trai A-rôn. Họ chết khi đang thờ phượng CHÚA, chết vì không vâng theo hướng dẫn cụ thể của CHÚA.
Chương 8 và chương 9 có bố cục rất giống nhau. Cả hai đều mô tả cách chi tiết về sự dâng lễ, từ sự chuẩn bị đến các của lễ dâng. Điểm khác nhau là trong chương 8 thì Môi-se là chủ lễ, còn sang chương 9 thì A-rôn thực hiện chức phận đó.
Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời được ghi chép lại hay Lời thành văn của Đức Chúa Trời. Và những gì “được ghi chép lại” này luôn “có ích cho việc dạy dỗ chân lý, bác bỏ điều sai trái, sửa chữa lỗi lầm, đào luyện con người sống công chính, hầu cho người của Đức Chúa Trời được trang bị đầy đủ và sẵn sàng để làm mọi việc lành” (2 Timothe 3:16-17). Do đó, Đức Chúa Trời chắc chắn là có chủ ý của khi sử dụng đến 2 chương để ‘lập đi, lập lại’ các chi tiết của nghi thức xức dầu thụ phong thánh chức, cũng như cung cách dâng tế.
Vì đối tượng chính của trang Bộ Hành Xuyên Kinh Thánh chỉ là ‘đại chúng bình dân’ nên sẽ không bàn sâu vào chi tiết những ý nghĩa liên quan đến các nghi lễ, và chức phận này. Ở đây, chỉ muốn lưu ý đến các bạn cụm từ “làm đúng như CHÚA truyền dạy” được lập đi, lập lại trong suốt 2 chương 8-9. Cả Môi-se, lẫn A-rôn đều hết sức cẩn thận làm đúng ‘y bon’ như những gì CHÚA đã phán dạy trên núi. Chính xác đến từng chi tiết.
Kết quả là “vinh quang của CHÚA hiện ra cho toàn thể nhân dân. Lửa từ sự hiện diện của CHÚA phát ra thiêu hoá tế lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ. Khi thấy vậy, toàn dân reo mừng và cúi đầu sát đất.” (9: 23-24)
Đó là bài học về sự vâng lời.
Nhưng ngược lại với ông chú và ông bố, hai ông con: Na-đáp và Abihu thì lại khoái ‘phá cách’, ‘xốc hàng’, ‘không đụng hàng’ cơ. Và họ đã thể hiện tính cách đó ngay sát nơi Chí Thánh. Đáp lại loại lửa lạ mà họ đã dâng lên cho Chúa, là ngọn lửa Thánh phóng ra, nhắm đúng vào 2 người trẻ tuổi này. Một phát, chết ngay (10: 2).
Có rất nhiều lời giải thích về ‘loại lửa lạ’ mà 2 vị tư tế trẻ này dâng lên cho Chúa dẫn đến cái chết của họ. Nào là, 2 thanh niên này cho rằng, lửa nào chả là lửa, không nhất thiết phải là lửa từ bàn thờ như quy định. Hoặc là, hai ông con này xài hương không đúng thương hiệu, vân vân và vân vân.
Tuy nhiên, có một điều ta biết chắc chắn, hai người này đã quá khinh suất, coi thường CHÚA, xem thường những quy định nghiêm ngặt của CHÚA khi thi hành chức phận thánh, trong nơi thánh.
Hai ông thầy này đang thờ phượng CHÚA, trong nơi thánh của CHÚA nhưng không theo cách Chúa muốn mà là theo cách họ muốn. Nói cách khác, họ làm đúng việc, đúng chỗ, đúng quy trình nhưng sai QUY CÁCH!
Đây cũng là một bài học về sự vâng lời.
Sự vâng lời thật khác với việc giữ lễ, tức chỉ chú trọng hình thức bề ngoài. Sự vâng lời thật luôn xuất phát từ một tấm lòng yêu quý, tôn trọng Chúa. Một người có thể thờ phượng, dâng lễ cho Chúa chính xác đến … từng micro mét, nhưng không hề tôn trọng Chúa. Nhưng một người thật lòng tôn quý Chúa thì không thể nào có thái độ cẩu thả khi ra mắt Chúa hay dâng lễ cho Ngài trong mọi thời điểm và trong mọi hoàn cảnh.
Đã quá quen với phong cách thờ phượng Ngũ Tuần: ‘trước nhanh, sau chậm’ mà người ta thường quen gọi là ‘ngợi khen và thờ phượng’ (tiếc là hơi bị … sai!), lần nọ MSB tui thật sự bị sốc khi dự một buổi nhóm thờ phượng (bằng tiếng Anh) tại hội thánh River of Life Sanctuary, Kuala Lumpur với một ca đoàn nổi tiếng được mời đến.
‘Chúng’ hát cái gì mà ‘liêu diêu’, mà ‘phiêu diêu’ mãi. Mới sáng sớm vào mà ‘chúng’ cứ hát ‘ê a’, rồi chuyển qua … ‘tiếng lạ’ ngay. “Hát cái kiểu gì mà chán chết đi được. Phải tưng bừng sôi nổi, rồi sau mới êm dịu, bước vào nơi chí thánh chớ”. Đang bực bội với những ý tưởng đoán xét trong đầu như thế, chợt như có tiếng nói với tôi, rất dõng dạt: “Họ đang thờ phượng ta chớ có phải họ đang thờ phượng ngươi đâu mà ngươi thích với không thích”.
Phải chăng ta hay hát cho Chúa những bài ta thích, dâng cho Chúa những gì ta thích, làm công việc của Chúa theo kiểu ta thích, thậm chí cầu nguyện chúc phúc cũng theo kiểu ta thích. Vậy cuối cùng, ai là Chúa thật dzậy ta?


Thứ Hai, 2 tháng 2, 2015

HAI PHẦN LỄ BUỘC

Lê-vi ký 4-7 
Hai của lễ mà chúng ta sẽ học biết hôm nay là sự hiến tế bắt buộc khi một người phạm lỗi hay phạm tội trước mặt Chúa, dù vô ý hay do thiếu hiểu biết. Đặt cho ‘hắn’ nickname “Lễ Buộc” là như thế.
Tùy theo đối tượng vi phạm (cá nhân hay tập thể; giàu hay nghèo; dân thường, quan chức hay thầy tế lễ) mà lễ vật sẽ được đòi hỏi khác nhau. Tuy nhiên, kết quả là như nhau: tội của cá nhân đó hay nhóm người ấy sẽ được tha. Kể cả trong trường hợp, không đổ huyết cũng được tha (5: 12-13)!
Cách dâng lễ này ngày nay vẫn còn duy trì ở rất nhiều nơi với nhiều ‘dị bản’ khác nhau. Chẳng hạn, ta có thể thấy việc này trong nghi thức cúng Tất Niên của người Việt.
Lễ cúng này thường thực hiện ngoài sân, chớ không phải trong nhà. Gà cúng phải là gà choai, chưa đạp mái, (có nơi là gà trống thiến) và phải không khuyết tật. Gà được cắt tiết, luộc nguyên con, dâng cúng với ý nghĩa gánh thay tội lỗi hay chịu tội thế cho gia chủ suốt năm qua.
Nhà khá giả thì mổ lơn, mổ bò, song ý nghĩa thì vẫn như vậy. Hẳn nhiên, đa phần ngày nay, người ta ‘xưa bày, nay làm’ chớ ít người hiểu được ý nghĩa thật của nghi thức cúng tế đó.
Nếu Cơ-đốc nhân mà hiểu được ‘gốc tích, ngọn ngành’ về tế lễ như đã dẫn, thì những ngày Xuân là cơ hội thuận lợi để hướng đạo cho bạn hữu, thân tộc của mình. Năm nào người ta cũng phải giết thịt, dâng cúng như thế, từ đời này sang đời khác. Sở dĩ người tin thờ Chúa không làm như thế nữa là vì họ đã chấp nhận Chiên Con – tức là Đức Chúa Giê-xu – một sinh tế toàn hảo, đã … ‘đi’ thay cho họ một lần đủ cả suốt trọn cuộc đời rồi!
Tạ ơn Chúa vì ngày nay, chúng ta không cần phải dâng sinh tế chuộc tội hay chuộc lỗi theo cách mà người Y-sơ-ra-ên đã làm trước đây nữa. Vì sinh tế Chiên Con Thiên Chúa, tức sự chết của Đức Chúa Giê-xu trên thập tự giá hơn 2000 năm về trước, vẫn còn nguyên hiệu nghiệm trong việc chuộc tội và chuộc lỗi cho mọi lỗi lầm và vi phạm của chúng ta. Mỗi khi phạm tội hay phạm lỗi, chúng ta lại phải nhờ đến huyết của Chiên Con để nhận được sự tha thứ của Đức Chúa Trời.
Chúng ta làm điều này như thế nào?
“Còn nếu chúng ta xưng tội mình thì Ngài là thành tín, công chính sẽ tha tội cho chúng ta và tẩy sạch chúng ta khỏi mọi điều bất chính” (1 Giăng 1: 9)
Khá nhớ lại bài học hôm qua, rằng Đức Chúa Trời mãi muôn đời không hề thay đổi. Tuy nhiên, vì vị thượng tế đã thay đổi nên lễ vật, và cách thức dâng lễ cũng phải thay đổi cho phù hợp thế thôi. Đừng để cho hội chứng ‘không cần ăn năn’ lừa dối bạn, và kéo bạn vào trong lối sống tưởng như cực thoáng nhưng thật ra là cực … thoái. Thoái đến khi chạm đáy thì trở lại hơi bị khó đó nghe.
Trong phần Kinh Thánh hôm nay cũng còn một chuyện liên quan đến … ĂN, nhưng là không được ăn: huyết và mỡ.
Đức Giê-hô-va lại phán dặn Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên rằng: Không được ăn một thứ mỡ nào, mỡ bò, mỡ chiên hay mỡ dê. Mỡ của con thú chết tự nhiên hay bị thú dữ xé có thể dùng cho bất cứ việc gì, nhưng không được ăn. Người nào ăn mỡ của con vật dùng lửa dâng lên Đức Giê-hô-va sẽ bị trục xuất khỏi dân chúng. Các con không được ăn huyết tại bất cứ nơi nào các con cư trú, dù đó là huyết chim hay súc vật. Người nào ăn huyết sẽ bị trục xuất khỏi dân chúng.” (7 : 22-27)
Huyết, (hay tiết, máu) thì không được ‘chỉ định’ để làm thức ăn cho con người, dù chúng ta có thể ăn. Điều này cũng tương tự như lá cây thuốc lá, hay trái cây thuốc phiện không phải dùng để hút, để hít hay để … chích. Đó không phải là chức năng thật của chúng. Chúa tạo ra các loại cây này không phải để dùng vào những việc như thế.
Hậu quả của việc sử dụng trái luật Trời trong chuyện ăn uống, hút hít này í à? – Thì đã sờ sờ ra đấy thôi, cần gì phải kể.
Từ nguyên thủy, không riêng gì Đạo Chúa mà trong tất cả mọi tín ngưỡng thì máu (tiết/huyết) luôn được dùng để cúng tế thần linh. Đó không phải là ‘món’, là phần dành cho con người đâu. Chớ có đụng đến. Đơn giản rứa thôi.
Không chỉ có huyết. Mỡ cũng bị liệt vào danh sách cấm, đối với dân Y-sơ-ra-ên đấy. Mỡ cũng là phần sinh tế được quy định chỉ dành riêng cho một mình Chúa.
Thực ra, món này không nằm trong bảng cấm đối với người tin thờ Chúa ngày nay (Công Vụ 15: 20, 29). Nhưng ngẫm lại thì thấy tất cả những gì mà Chúa cấm chỉ có từ tốt đến tốt mà thôi. Chẳng thế mà những năm sau này phần đông người ta chuyển sang ăn dầu cả. Thế mới hay, có những điều trong Lời Chúa thật khó chấp nhận cho chúng ta trong một giai đoạn nào đó, nhưng tính đúng đắn của nó thì không vì thế mà giảm đi.
Thế thì hãy khiêm nhường, đơn sơ tin cậy Chúa. Hãy là người ‘sành ăn’ bạn nhé; ăn những gì Chúa bảo ăn, kể cả ăn … năn!   


Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2015

TAM PHẦN LỄ NGUYỆN

Lê-vi ký 1-3 
Sách Lê-vi ký bắt đầu với việc mô tả 5 của lễ khác nhau mà dân Y-sơ-ra-ên có thể dâng cho Chúa: ba dành cho những ai đang ở trong mối quan hệ với Đức Chúa Trời và hai dành cho những người có mối quan hệ với Chúa bị gãy đổ.
Ba loại của lễ đầu là tùy tâm, lúc nào muốn thì dâng, nên gom lại chung một tên thành Tam Phần Lễ Nguyện, tức ba của lễ tình nguyện là vì vậy.
Quy định về các của lễ này cho thấy bất kỳ người Y-sơ-ra-ên nào cũng có khả năng dâng lễ được. Điều đó, minh chứng rằng, đối với Chúa giá trị vật chất của lễ vật không phải là điều quan trọng.
Mỗi lễ vật có một ý nghĩa riêng. Của lễ thiêu bày tỏ lòng tận hiến trong việc thờ phượng Đức Chúa Trời; của lễ chay hướng về sự chu cấp của Đức Chúa Trời trong đời sống; còn của lễ cầu an mô tả lòng biết ơn của người thờ phượng đối với Đức Chúa Trời.
Ba lễ vật tình nguyện này cũng như toàn bộ các tế lễ được miêu tả trong sách Lê-vi ký là phương cách mà nhờ đó dân Y-sơ-ra-ên xưa có thể đến gần Đức Chúa Trời thánh khiết. Tuy nhiên, những của lễ đó không trọn vẹn, chưa phải là hoàn tất. Chúng chỉ là cái bóng, là biểu tượng, chớ không phải là hình thật.
Hình thật là chính Chúa Giê-xu. Mọi lễ vật cung hiến cho Đức Chúa Trời đều đã được hoàn tất trong sự chết của Ngài trên thập giá.
Thế thì, ngày nay chúng ta có còn phải dâng sinh tế cho Đức Chúa Trời nữa không?
Trước hết, chúng ta cần nhớ rằng, Đức Chúa Trời của thời Cựu ước cũng chính là Đức Chúa Trời của ngày hôm nay. Chúa không hề thay đổi, nên việc ra mắt Đức Chúa Trời với của lễ cũng là điều không thay đổi đối với dân sự của Ngài.
Tuy nhiên, vì vị thượng tế đã thay đổi – từ ban thứ Lê-vi sang ban Mê-chi-xê-đéc, tức là từ A-rôn đến Đức Chúa Giê-xu – nên lễ vật cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Thưa anh chị em, vì thế tôi nài xin anh chị em, do lòng thương xót của Đức Chúa Trời, hãy dâng hiến thân thể chính mình như những của lễ sống, thánh khiết, đẹp lòng Đức Chúa Trời, đó là sự thờ phượng hợp lẽ của anh chị em. (Roma 12: 1)
“Của lễ SỐNG” chính là sự tương phản giữa sự hiến tế của chúng ta với việc dâng sinh tế trong thời Cựu ước, nơi mà các con vật trước khi được hiến tế, đều phải bị giết thịt. Trong thời Tân ước, chúng ta cũng bị đòi buộc phải dâng chính thân thể mình cho Chúa cách dứt khoát và trọn vẹn như thế. Song khác biệt là thân thể chúng ta không bị giết chết như các con thú khi xưa.
Chúng ta thờ phượng (hay hầu việc) Đức Chúa Trời bằng sự sống của thân thể, chớ không phải bằng sự chết của nó. Sự hiến thân như thế với tính chất của lễ sống là sự phó dâng trọn vẹn cho Chúa.
Thêm vào đó, chúng ta có thể học được rất nhiều điều về cách dâng thân thể mình cho Chúa khi suy gẫm về cách dâng sinh tế trong thời Cựu ước của người Y-sơ-ra-ên.
Chẳng hạn, thịt (cơ bắp) nói về sức lực hay sức mạnh. Tại sao phải “sả ra từng miếng” mới thiêu? Rồi mỡ thì muốn ám chỉ đến việc gì ấy nhỉ? Ừ thì béo. Béo thì tại sao phải đốt, đốt cho sạch?
Còn bộ da thì sao? – Đó là “mặt diện” của chúng ta, là điều mà chúng ta luôn lấy làm tự hào, khoe khoang đấy. Da bò thì khác da dê, lại càng không giống da cừu. Mỗi một người trong chúng ta cũng có một ‘bộ da’ khác nhau như vậy.
Đã là ‘da’ thì chỉ có một cách ‘tế’ thôi: đốt sạch, không phải trên bàn thờ đâu nhé. Ngoài trại quân kia đấy. “Bộ da” của bạn là gì ấy nhỉ?
Còn nhiều lắm anh chị em ơi, vì nguyên con cơ mà. Mỗi chi thể của con vật mang nghĩa hình bóng cho thân thể ta. Hãy nhìn vào đó để tự rút ra bài học cho riêng mình, trong việc thờ phượng Đức Chúa Trời “cách phải lẽ”, qua việc “dâng thân thể mình làm của lễ thánh và sống” nhé.
Ngoài ra, trong 3 đoạn Kinh Thánh hôm nay, Chúa còn đưa ra những chỉ dẫn vật phẩm nào được dâng làm của lễ, nguyên liệu nào thì không. Nhũ hương thì ok, còn mật và men thì ne-wờ nhé.
“Khi có người dâng cho CHÚA một tế lễ chay, lễ vật phải bằng bột lọc mịn. Người phải chế dầu và đặt nhũ hương lên trên, rồi đem đến cho các thầy tế lễ con trai A-rôn. Thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột lọc chế dầu và tất cả nhũ hương, đem thiêu trên bàn thờ làm kỷ niệm. Đó là một tế lễ dùng lửa dâng lên, có mùi thơm cho CHÚA”  (2:1-2)
“Tế lễ chay dâng cho CHÚA không được pha men. Vì các ngươi không được thiêu men và mật ong trong tế lễ dùng lửa dâng lên CHÚA”  (2:11).
Nhũ hương tự thân nó không lấy gì là xinh đẹp nhưng một khi được đốt cháy thì nhựa này tỏa ra một hương thơm lạ thường. Điều này mô tả cách chính xác sự thờ phượng của chúng ta đối với Đức Chúa Trời: là một thức hương có mùi thơm, đẹp đẽ thấu đạt đến Chúa.
Mật trong tình trạng tự nhiên của nó thì rất ngon và ngọt. Nhưng khi bị đốt cháy thì trở thành một chất sền sệt, màu đen.
Điều mà Chúa muốn nói là: “Đừng đem đến cho Ta bất cứ loại thờ phượng nào mà không đốt được bằng lửa. Hãy mang nhũ hương đến cho Ta, bởi vì lửa càng lớn thì nó càng tỏa mùi thơm. Song đừng mang đến cho Ta những loại thờ phượng mà sau khi thử thách và tôi luyện lại trở nên một chất sền sệt, màu đen”.
Hãy suy nghĩ về điều đó. Hãy tự hỏi chính mình: “Tôi đã rắc mật hay nhũ hương trên những lời cầu nguyện của mình? Tôi có nói với Đức Chúa Trời những điều mà mình không sẵn sàng để trải nghiệm? Hay tôi đang cầu nguyện với Chúa trong tâm linh và với tấm lòng chân thật?”
Bạn có phải là người thờ phượng thật mà Đức Chúa Cha đang tìm kiếm không?


Thứ Bảy, 31 tháng 1, 2015

CUNG HIẾN ĐỀN TẠM

Xuất Hành 35-40
Thật không dễ dàng mà ‘nghiến ngấu’ 6 chương Kinh Thánh khô quá xá cỡ này vào lúc cuối tuần. Nhớ là xương thì phải ninh (hầm) mới nhừ, chớ còn luộc qua thì chẳng thấy béo bổ chi đâu nha. Sáu chương cuối cùng của sách Xuất hành hôm nay thuộc dạng xương … ống đấy. Chịu khó ninh nha bà con. He he.
Phần Kinh Thánh mà chúng ta đọc hôm nay thuật lại cách chi tiết thế nào dân Y-sơ-ra-ên, dưới sự chỉ huy của hai nghệ nhân là Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp, đã hoàn thành bản vẽ Lều Thánh mà Đức Chúa Trời đã ban cho Môi-se trên đỉnh Sinai.
Từ những vật dụng thờ tự, các thành phần của Lều Thánh, cho đến lễ phục cho các thầy tế lễ đều đã được hoàn tất theo “đúng như những gì CHÚA đã truyền dạy Môi-se”. 
Gần một năm chuẩn bị, cuối cùng, Lều Tạm đã được cung hiến cho CHÚA vào đúng ngày Mùng 1 tháng Giêng, tức ngày đầu năm mới của người Do Thái, nhằm khoảng cuối tháng 3 đầu tháng 4 Dương lịch.
Có hai điều dạy dỗ thú vị dành cho chúng ta liên quan đến sự dâng hiến qua phần Kinh Thánh hôm nay:
Trước hết, đó là tinh thần dâng hiến của dân Y-sơ-ra-ên cho công việc nhà Chúa. Sau khi, trình bày dự án, nhu cầu nguyên vật liệu, Môi-se kêu gọi dâng hiến. Vừa nghe đến dâng hiến, “cả hội chúng Y-sơ-ra-ên đều rút lui khỏi Môi-se” (35:20).
Không phải họ ‘đánh bài chuồn’ cho qua giờ dâng hiến như một số người vẫn thường làm khi đến nhà Chúa đâu nghe. Biết họ “rút lui” làm chi không? – Chuẩn bị của lễ!
Hóa ra, trong trường hợp này, họ LÙI là để TIẾN đấy. Họ TIẾN liên tục, dâng không ngừng nghỉ, sáng nào cũng dâng. Dâng hiến đến độ các vị thủ quỹ, tư hóa phải đồng thanh khẩn thiết: ‘I xin you, I can you’, thiếu điều họ phải năn nĩ: ‘I lạy you’ nữa thôi à. Thế nhưng, chỉ cho đến khi ‘Mục sư Trưởng’ Môi-se thông báo chính thức trên các phương tiện thông tin đại chúng thì cảnh xin được dâng kia mới thật sự chấm dứt!
Tình nguyện dâng. Sung sướng dâng. Dâng không hề tính toán. Dâng thế mới là dâng. Đó là sự dâng hiến được thôi thúc cách thực sự bởi Thần Linh Thiên Chúa. Bạn có thấy sự tương đồng như thế trong buổi đầu tại Hội Thánh đầu tiên ở Jerusalem không?
Nếu đó là dự án, là kế hoạch thật sự đến từ Chúa thì sẽ không thiếu những tấm lòng dâng hiến rời rộng đâu.  Không phải từ người nước ngoài mà là từ dân Y-sơ-ra-ên, những người vừa được giải cứu khỏi đời nô lệ hơn một tháng về trước; không phải đang khi họ ăn nên làm ra, mà là đang khi sơ tán trong sa mạc hoang vu nóng cháy.
Hãy suy gẫm về thái độ dâng hiến của dân Chúa ngày xưa, và xem lại cách mình dâng cho Chúa trong những buổi thờ phượng Chúa ngày hôm nay. Số tiền bạn dâng cho Chúa hôm nay có đánh động trong bạn điều chi không?
Điều thứ hai mà chúng ta học được nằm ở câu 8 của đoạn 38 “Ông (Bết-sa-lê-ên) dùng các gương soi bằng đồng do các phụ nữ phục vụ tại cửa vào Trại Hội Kiến dâng hiến để làm ra bồn nước và chân bồn”.
Thời mà thủy tinh, kiếng (kính) chưa có, thì đồng là kim loại được dùng để làm gương soi cho chị em phụ nữ. Mà phải là dân quý-xờ-tộc mới có đủ điệu kiện để chơi loại hàng hiệu này, còn mấy cô thôn nữ, bình dân lao động hả, đừng có mơ.
Quý đến như thế, hiếm đến như thế, sành điệu đến như thế, trước giờ chỉ dùng để ‘ngắm’ mặt hoa da phấn của em thôi, mà nay anh Bết, anh Ô lại đành đoạn đem làm thành cái chậu rửa chân cho người!
Các chị em đã tình nguyện dâng hiến vật dụng quý giá của họ để dự phần chuẩn bị các tôi tớ Chúa trước mỗi khi thi hành thánh lễ trong sự hiện diện của Chúa. Hành động hy sinh của họ đã góp phần trong việc bảo vệ mạng sống của những thầy tế lễ mỗi khi thi hành chức vụ đấy.
Đó không chỉ là việc dâng hiến, mà còn là thái độ khiêm nhường, hạ mình đáng để cho mỗi một chúng ta suy gẫm và noi theo. 
Nguyện xin vinh quang của Chúa đầy dẫy trên bạn và tôi, những Đền Tạm sống động của Ngài, như trên Đền Tạm của dân Y-sơ-ra-ên, trong ngày cung hiến năm xưa.


Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

BÊ VÀNG, ‘BỂ BẠC’

Xuất Hành 32-34
Từ khi nào người ta bắt đầu đúc tượng Chúa? – Xin thưa, khoảng gần 2 tháng sau khi Chúa giáng lâm trên đỉnh Sinai.
Có điều, tượng Chúa hồi đó với ngày nay hơi khác chút ít. Ngày đó, CHÚA có hình con bê, giờ thì có hình con … người. Ngày đó, CHÚA được đúc bằng vàng, nay thì chỉ được tạc bằng đá, hoặc đúc bằng xi-măng thôi. Còn vàng, đồng, ngọc hay đá quý thì phải dành cho những con người nổi tiếng khác.
Tượng thì đúng là tượng con bê bằng vàng, dân Y-sơ-ra-ên sụp lạy, rồi dâng tế lễ cho tượng đó nhưng họ không thờ lạy bò con này đâu nhé. Họ thờ Đức Giê-hô-va, Đấng vừa giải thoát họ ra khỏi đời nô lệ đấy chớ. “Dân chúng nói: ‘Hỡi Y-sơ-ra-ên! Đây là thần của ngươi, thần đã đem ngươi ra khỏi đất Ai Cập’. Thấy vậy, A-rôn lập một bàn thờ trước mặt tượng bò con đó rồi tuyên bố rằng: ‘Ngày mai sẽ là ngày lễ cho Đức Giê-hô-va!’ Sáng hôm sau dân chúng thức dậy sớm, dâng các tế lễ thiêu và tế lễ bình an. Họ ngồi xuống ăn uống, rồi đứng dậy đùa bỡn.” (32: 4-6)
Họ gọi khối vàng lấp lánh, được tượng hình từ những vòng vàng, hoa tai, nhẫn, lắc của họ là Bê Thánh, là Thần Bò à? Không hề. Họ gọi tượng đó là Đức Giê-hô-va. Họ gọi khối kim loại đó là CHÚA. Và họ dâng lễ cho CHÚA với cả lòng chân thành.
Vừa hai tháng trước, họ tận mắt chứng kiến đủ các phép lạ dấu kỳ do quyền năng Chúa thi thố vậy mà giờ đây họ đã đánh đồng CHÚA với con bê, một trong số các vị thần của người Ai Cập.
Chả trách tại sao ngày nay, người ta sì sụp vái lạy trước những hình tượng vô tri, vô giác của chim thú, côn trùng và thậm chí một tổ mối! Trách sao ngày hôm nay một bộ phận cũng gọi mình là dân Chúa nhưng lại đi vái lạy, khẩn cầu trước những tượng xi-măng, thạch cao, … có hình người được gọi là Giê-xu!
Họ đang sỉ nhục CHÚA, đang phạm tội chết mà cứ tưởng rằng mình đang làm đẹp lòng CHÚA. Họ đang phạm vào điều răn thứ 2 mà cứ nhơn nhơn rằng mình đang kính CHÚA. Tội trạng như thế mà mong rằng cơn giận của Chúa sẽ tránh khỏi họ chăng.
Nếu Chúa giận, sao thấy ‘im ru’ vậy? – Ít ra thì cũng phải cỡ Môi-se: đập nát bản đá, rồi thì ‘lụi’ sơ sơ khoảng 3000 nghịch tử chớ. Này, dù người đời có đổ vấy cho Trời mấy chuyện thảm họa là do Trời (thiên tai), nhưng Trời giận bao giờ cũng khác với người giận. Đây là một trong những kiểu giận của Chúa:
“Cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời từ trên trời được tỏ bày để chống lại mọi sự vô luân và gian ác của những kẻ dùng sự gian ác mà áp chế chân lý … Vì thế, Đức Chúa Trời ĐÃ PHÓ MẶC HỌ cho những tham dục của lòng mình, rơi vào sự nhơ nhuốc … Chính vì lý do đó mà Đức Chúa Trời đã ĐÃ PHÓ MẶC HỌ cho tình dục đáng xấu hổ … Vì họ không lo nhận biết Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời đã ĐÃ PHÓ MẶC HỌ cho một tâm trí bại hoại để làm những điều bất xứng”. (Roma 1: 18-28)
Một khi mà Chúa đã buông rồi, một khi mà Chúa thả rồi thì chết là cái chắc. Không phải một phát chết ngay đâu, mà là khắc khoải trong đau nhức, khổ ải, nhục nhã. Một đời sống mà không còn sự hiện diện của Chúa thì còn khổ nhục hơn là chết.
Ngày nay, khi đọc lại biến cố “bê vàng” này ta dễ dàng trách dân Y-sơ-ra-ên sao vô tín và ngỗ nghịch đến thế; Ngày nay, khi nhìn thấy người ta đang thành tâm khẩn nguyện trước tượng chúa, tượng chùa ta dễ dàng buông lời: “sao mà ngu dại, tăm tối đến thế không biết!” Thế nhưng, có khi nào ta thành tâm tra xét lòng mình rằng có hay không thần tượng trong ta?
Xin hỏi bạn câu này: Nếu có một bức hình ‘Chúa Giê-xu’ thật đẹp thì bạn sẽ treo ở đâu trong căn nhà của bạn? Nếu trên một trang báo hay tạp chí có đăng hình ‘Chúa Giê-xu’, bạn có lấy lau chùi hay gói rác bẩn chẳng hạn mà không hề áy này không? Nếu trên tường nhà bạn có một bức hình chân dung ‘Chúa Giê-xu’ đã nhạt màu, vì treo ở đó đã lâu rồi. Rồi có một người đến gỡ nó ra và xé đi thì bạn sẽ phản ứng thế nào?
Khá nhớ rằng, những hình ảnh được gọi là Chúa Giê-xu đó, KHÔNG BAO GIỜ LÀ HÀNG CHÍNH CHỦ đâu nghe. Đó là sản phẩm của con người đấy, dù những nét phác họa ban đầu chỉ mang ý nghĩa truyền thông nhưng về sau đã in trí trong tâm thức nhân loại mất rồi. Đến nỗi ngay một đứa trẻ cũng gọi đó là Chúa!
Nếu chuyện làm tượng Chúa, dựng tượng Chúa là okay thì Chúa đã không nghiêm cấm: “Con không được làm cho mình một hình tượng nào theo hình dạng của những vật trên trời cao, hoặc nơi đất thấp, hoặc trong nước dưới mặt đất. Con không được cúi lạy trước các hình tượng đó hay phụng thờ chúng; vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con, là Đức Chúa Trời kỵ tà. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta sẽ vì tội đó của tổ tiên mà trừng phạt con cháu họ đến thế hệ thứ ba, thứ tư.” (Xuất Hành 20: 4-5)
Ngày nay, có thể có nhiều người tin thờ Chúa không dùng vàng bạc hay đá quý mà tạc tượng Chúa để thờ như dân Y-sơ-ra-ên xưa nhưng lại xem vàng bạc, của cải không khác chi là Chúa. Đối với những người này, tiền bạc là nâm-bờ oanh, tiền là tất cả.
Vì xem trọng tiền đến thế, nên họ sẵn sàng làm mọi chuyện, thậm chí bất kể luân thương đạo lý, bất chấp luật pháp, miễn là có được tiền. Khi được tiền họ vui như … Tết, khi mất tiền hay thiếu tiền họ buồn như … cha chết. Tiếng là thờ Chúa nhưng thật ra tiền mới là chúa của họ; tiền mới thật sự là chủ của họ.
Biết bao nhiêu con bạc đang sẵn sàng lao vào cuộc đỏ đen thâu đêm suốt sáng khi “tháng Giêng là tháng ăn chơi đang đến gần”? Biết bao nhiêu nam thanh, nữ tú đang ‘nướng’ những đồng tiền lương ít ỏi của phận làm thuê xứ người vào trong các quán game hay các tụ điểm cá độ mỗi ngày? Và bao nhiêu trong số đó là người có đạo, bao nhiêu trong số đó là người thờ Chúa?
Đấy, người ta đang thờ lạy “con bê bằng vàng” phiên bản hiện đại đấy. Người ta đang dâng tế cho thần vàng, cho chúa bạc của họ đấy.
Bạn có phải là “con nhang, đệ tử” của Chúa - Bò Vàng này không?