Thứ Hai, 13 tháng 7, 2015

CHỈ MỖI BỀ NGOÀI

Isa 1-4
Thời điểm: Vào khoảng năm 740 TCN. Địa điểm: Giu-đa, vương quốc phía Nam.
Giu-đa đang đối diện với nguy cơ bị tiêu diệt bởi tay tàn ác của người Asyri. Trong giờ phút khẩn cấp quyết định vận mệnh của quốc gia như thế, Đức Chúa Trời đã sai phái Ê-sai (hay I-sa) – một con người đặc biệt với một sứ điệp đặc biệt … “khó nghe”.
Lúc bấy giờ quốc gia Giu-đa đã đạt đến chỗ chín muồi cho sự phán xét. Những tội lỗi thâm căn cố đế của nó như thờ hình tượng, đạo đức giả, bất công và tham nhũng lan tràn khắp nơi, khiến cho nó không cách chi thoát khỏi án phạt của Đức Chúa Trời thánh khiết được. Cơn thịnh nộ công chính của Chúa sắp đổ xuống từ vua cho chí dân đen, đồng đều như nhau, hầu cho mọi người phải học biết được rằng, Chúa Toàn Năng không thể và sẽ không dễ bị xem thường.
Để hiểu được sách tiên tri I-sa hay Ê-sai, trước hết, chúng ta nên dành thời gian đọc lại các phần Kinh Thánh trong 2Các Vua 15-21 và 2Sử Ký 26-32. Tiếp theo, chúng ta cần phải biết rằng phần lớn sách tiên tri này được viết dưới dạng thơ, chớ không phải văn xuôi như trong Bản Dịch Cũ ở tiếng Việt. Mà ngôn ngữ thơ ca thì … bóng gió xa gần, mượn trăng nói hoa, mượn ta nói bạn, chớ không thể hiểu theo cái lối trần trụi của văn … kể chuyện được. Thêm vào đấy, lại còn là thơ … tiên tri nữa cơ. Thế cho nên, dù có uyên bác đến đâu thì anh chị em cũng nên sử dụng cho bằng hết tất cả các “quyền trợ giúp”, để có thể xuyên thủng Ê-sai mà mình vẫn … không sai! He he.
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay là bản cáo trạng đối với thủ đô Giê-ru-sa-lem và vương quốc phía nam. Đây là thời điểm mà Giu-đa còn “ăn nên làm ra”, hay nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay là kinh tế vẫn còn tăng trưởng bền vững, tiêu thị nội địa vẫn cao, thị trường chứng khoán vẫn ổn định chưa có dấu hiệu gì bất ổn (2: 7; 3: 16).
Trong bối cảnh thịnh vượng như thế mà lại đi rao giảng rằng, quốc gia sẽ bị tiêu diệt, đất nước sẽ trở nên hoang vu, xứ sở sẽ chỉ còn lại chủ yếu là phụ nữ và trẻ con thì chỉ có … điên mới tin mà thôi, đúng không? Thế nhưng, đó là sứ điệp cảnh báo chính thức đến từ Chúa đấy. Điều này cũng tương tự như mấy ông đang phương phi béo tốt, lúc nào cũng tự tin dõng dạc như kiểu bác Thanh “tau khỏe có chi mô” nhưng đùng một phát … đứt bóng. Đơn giản là vì không chịu kiểm tra sức khỏe định kỳ hoặc có kiểm tra thường xuyên nhưng bỏ ngoài tai mọi lời cảnh báo của bác sĩ.
Trong đời sống thuộc linh cũng vậy, người tin thờ Chúa cũng như người hầu việc Chúa cần phải thường xuyên kiểm tra tình trạng tâm linh của mình. Và một khi nhận được lời cảnh báo, nhắc nhở từ Chúa thì phải khiêm nhường đủ để lắng nghe và sửa sai.
Giu-đa bị kết tội là lìa bỏ Chúa và khinh bỉ Chúa (1: 4). Thoạt nghe “bỏ Chúa, khinh Chúa” cứ tưởng đơn giản như ta hiểu ngày nay là “không đi nhóm” hay “mồm thì a-men, mà lòng đầy ma men”. Thế nhưng, người Giu-đa xưa thì không hề có cảnh đó. Thậm chí, họ còn nhóm họp lễ lạt tưng bừng luôn. Từ câu 11-14 của chương 1 cho chúng ta thấy sinh hoạt tôn giáo của dân Giu-đa thời bấy giờ rất chi là sùng kính. Nào là dâng đầy đủ các loại của lễ, nhóm họp đầy đủ vào các ngày lễ; rồi thì là kiêng ăn, cầu nguyện, xông hương, … Nói chung là không thiếu chi cả, thậm chí dư thừa nữa là khác.
Thế mà vẫn bị Chúa … bác đấy. Răng lọa rứa? – Vì chỉ có mỗi cái vỏ sùng kính bề ngoài thôi. Còn bên trong í à: eo ôi, tởm lắm, dân ngoại có khi phải xưng bằng cụ đấy (1: 15, 21-23; 2: 6, 8; 3: 16). Mà cái vỏ thì chỉ có thể đánh lừa được con người thôi, chớ làm răng mà giấu được Chúa. Và thế là … chuyện gì đến phải đến: Chúa kêu án.
Nhẹ thì mùa màng thất bát, kinh tế sa sút, chứng khoáng sụp đổ (3: 1). Nếu nhiêu đó chưa đủ đô thì ngoại bang sẽ được sai đến, chiến tranh nổ ra, đàn ông con trai chết như ngã rạ, phố phường thành quách bị phá hủy … thấy thương luôn (1: 5-9; 3: 2, 25-26)
Đôi khi để trừng phạt một quốc gia nào đó về cớ tội lỗi của nó, Đức Chúa Trời ‘sai phái’ đến quốc gia ấy một ‘cán bộ thi hành án’, tức là một người lãnh đạo gian ác, hoặc một người lãnh đạo có “trình độ hạn chế” theo như cách nói của các quan nhà ta thời nay. Chính loại lãnh đạo kiểu ni sẽ kích hoạt loại án ‘nhẹ’ vừa kể ở trên ra cả nước cách nhanh chóng đấy.
Riêng trong trường hợp của vương quốc Giu-đa xưa thì Chúa cảnh báo là sẽ đưa “trẻ nít” và “đàn bà” lên cai trị đất nước (3: 4, 12). Theo đó, khi mà một “đứa trẻ con” hay một “phụ nữ” ngồi vào vị trí lãnh đạo quốc gia thì xứ sở ấy hay đất nước ấy đang bị rủa sả, đang bị phán xét đấy.
Sốc quá đúng không? Khó chấp nhận quá, đúng không? Thế nhưng, chính Chúa đã phán như vậy. Và nếu Đức Chúa Trời cũng áp đúng mức án này cho nước Mỹ, thì ‘chéc cú’ là năm tới nước này sẽ có nữ tổng thống đầu tiên đấy. Hãy chờ xem nhé.
Bốn chương Kinh Thánh hôm nay không chỉ có phần luận tội và tuyên án, mà còn có phần thuyết phục nhận tội để được tha bổng và thậm chí hưởng phước nữa kia đấy. Ấy là vì mục đích chính của kỷ luật không phải là hủy diệt, là loại bỏ mà là phục hồi, là được nhận lại.
Đức Chúa Trời trong bốn chương Kinh Thánh hôm nay vừa là Đức Chúa Trời của công lý, đồng thời cũng là Đức Chúa Trời của tình yêu. Chúa nghiêm phạt những kẻ phạm tội, nhưng cũng sẳn lòng tha thứ những ai biết tỉnh ngộ ăn năn. Còn đối với những ai bền lòng tin cậy Chúa, sống ngay thật theo Lời Chúa dạy, mặc cho xung quanh sự giả trá gian ác lộng hành, thì họ chẳng những không bị hình phạt chung với kẻ ác mà còn được hưởng phước ngay cả khi khắp xứ bị tai ương (3: 10).
Bạn là ai đối với Chúa ngày hôm nay: là người công chính đích thực theo như chuẩn mực của Lời Chúa hay chỉ là một người “có môi miệng tôn thờ Chúa, nhưng lòng thì cách xa Chúa”? Nếu bạn là đối tượng thứ hai thì tin vui cho bạn là: hãy xưng nhận tội lỗi của mình và trở lại cùng Chúa. Chúa bảo đảm rằng,  Dù tội các ngươi có đỏ như son, cũng sẽ trở nên trắng như tuyết; Dù đỏ thắm như vải điều, cũng sẽ trở nên trắng như lông chiên (1: 18)
Hãy nhanh chóng đáp lại lời mời gọi của Chúa dành riêng cho bạn hôm nay. Và đây là lời hứa: Nếu các ngươi sẵn lòng vâng lời, Thì sẽ được ăn sản vật tốt lành của đất. Nhưng nếu các ngươi khước từ và nổi loạn, Các ngươi sẽ bị hủy diệt bởi gươm (1: 19)
Quyết định thuộc về mỗi một chúng ta.


Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

ÁI TÌNH LÊN ĐỈNH

Nhã Ca 1-8
Nhã Ca tên thật là ‘bài ca của mọi bài ca’, là ‘top hit’, nếu nói theo ngôn ngữ thời nay. Nhã Ca thuộc nhóm văn chương khôn ngoan của Kinh Thánh. Nó mô tả sự khôn ngoan về mối quan hệ tình ái và là một câu chuyện tình lứa đôi với đầy cung bậc ái ân.
Bao học giả xưa nay, trong lẫn ngoài Hội Thánh, luôn cố gắng bằng mọi cách để ‘bóc tách’, ‘soi mói’ đủ mọi góc cạnh.
Kẻ thì thấy trong 8 bài (chương) thơ này chỉ đơn thuần là mô tả khía cạnh tình dục của hai người trẻ đang yêu nhau say đắm, bất chấp mọi phong tục, lễ giáo khe khắt thời bấy giờ; người thì chỉ chăm chăm vào nghĩa bóng, tức là những bài học thuộc linh ẩn đằng sau những ‘lời có cánh’ mà chàng và nàng dành cho nhau. Người thì nói Nhã Ca là câu chuyện của ‘hai người yêu nhau’, trong khi số khác lại bảo: đấy đích thị là cuộc tình tay ba.
Thật ra, có hai quan điểm giải kinh căn bản liên quan đến sách Nhã Ca.
Quan điểm truyền thống cho rằng Nhã Ca là một lối nói bóng gió về sự liên hệ tình yêu giữa Đức Chúa Trời và Y-sơ-ra-ên, hoặc giữa Chúa Cứu Thế và Hội Thánh. (Dầu chẳng có chỗ nào trong Tân Ước trích dẫn hoặc ám chỉ đến Nhã Ca, và cũng không có chỗ nào trong Kinh Thánh hậu thuẫn cho quan điểm này cả). 
Còn quan điểm hiện đại thì xem Nhã Ca, như là một vở kịch thơ tán dương sự chiến thắng của tình yêu chân chất, trong trắng của một cô gái trẻ miền quê đối với người yêu dân dã ‘ai bảo chăn … chiên là khổ’ của mình trước những lời tán tỉnh ‘ngọt hơn mía lùi’ và vô vàn của cải, địa vị hấp dẫn chào mời từ vị vua cao sang quyền quý Sa-lô-môn! 
Ngoài ra, cũng còn có một quan điểm ‘ngoại đạo’ nữa. Quan điểm này liệt Nhã Ca vào hàng ‘dâm thơ’ tức là một tác phẩm thơ ca đặc tả các cung bậc, và tư thế làm tình của một đôi nam nữ. Sở dĩ, có quan điểm này là do người ta đọc sách cổ, thơ xưa dưới cái nhìn hay lăng kính văn hóa của thời hiện đại, tại một quốc gia văn minh nào đấy. Và thế là tha hồ ‘suy bụng ta ...!”
Sở dĩ có chuyện ‘tưng bừng’ như thế là tại vì … THƠ!
Nhã Ca là ‘một’ bài thơ. Mà ngôn ngữ thơ ca thì bao giờ cũng khác với ngôn ngữ văn xuôi hay tường thuật. Đã vậy, đây lại là thơ cổ, thơ xưa, nên không cãi nhau chí chóe mới là lạ. Chưa hết, đây còn là những lời mà ‘hai người đang yêu say đắm’ dành cho nhau, nên khi ‘ngâm kíu” nó, chúng ta cũng phải ‘thông cảm’ thì mới … thấm!
Chẳng hạn, câu này: “Người yêu của anh, anh ví em như ngựa cái kéo xe của Pharaon” (1:9).
Pharaon là từ mà người Ai-cập gọi vua của họ, giống như người Trung Quốc xưa gọi vua là hoàng đế vậy. Ai-cập nổi tiếng về các loài ngựa, nhất là ngựa chiến. Ngựa kéo xe (thường là 3 con cho một xe) của Pharaon luôn là ngựa đực. Nhưng không hiểu tại sao ở đây ‘chàng’ lại tâng bốc người yêu của mình bằng một mỹ từ thật ‘bổng dưng muốn … tát’: NGỰA CÁI!
(Dù luôn khuyên con dân Chúa luôn ăn Lời Chúa, uống Lời Chúa, nói Lời Chúa, nhưng ở đây MSB tui muốn ‘thì thầm … mùa thu’ với mấy chàng đang yêu rằng, chớ dại bê ‘nguyên xi’ câu này mà ‘nịnh’ với ‘nàng’ của mình nhé. He he).
Chuyện “hai đứa” đang say, gọi nhau bằng … ‘con’ gì tùy thích, ta không dám ‘xía’ vào. Ta chỉ muốn ngẫm xem nơi ‘nàng’ ngựa cái kia có phẩm chất hay đặc tính gì mà lại được đặt cách đứng chung ‘bè’ với mấy ‘anh’ chuẩn … ngựa kia mà thôi.
Ngựa kéo xe cho Pharaon trước hết phải là ngựa đẹp, tiếp theo phải khỏe và cuối cùng, cũng là yếu tố quan trọng nhất liên quan đến tính mạng của Pharaon mỗi khi xông pha chiến trận, đó phải là một ‘chị’ ngựa có kỷ luật, được huấn luyện tinh thông đến độ đang chạy nước rút mà vẫn có thể ‘phanh’ gấp đến nỗi cả thân mình đứng thẳng lên trời nhằm tránh một mũi giáo mà kẻ thù đang ‘canh me’ phóng ngang qua để sát hại vua.
Nếu Chúa Giê-xu muốn cất lời khen chúng ta, người yêu của Ngài, thì liệu Ngài có nhìn thấy ba yếu tố ấy (đẹp, khỏe, và có kỷ luật. Hẵn nhiên là nhấn mạnh đến ý nghĩa nội tâm, thuộc linh) nơi mỗi chúng ta để cao giọng rằng, “hỡi bạn tình ta, ta sánh mình như ngựa cái của xe Pharaon” không?
Hơi bị hay, đúng không?
Thế nhưng để … chọt đúng được chỗ hay của nó, hay để không bé cái nhầm thì trước hết, người đọc Kinh Thánh hôm nay nói chung và sách Nhã Ca nói riêng, cần phải đọc bằng mắt, chớ đừng đọc bằng ‘trí’. Tức là in trí sẵn rồi, theo kiểu: “sách đấy có nghĩa là như thế, như thế; Mục sư này đã từng giảng như thế, như thế; Tiến sỹ kia đã từng dạy như thế, như thế, …” 
Ngoài ra, chúng ta cũng không được quên rằng, mỗi đoạn hay một sách của Kinh Thánh chỉ có MỘT Ý TƯỞNG CHỦ ĐẠO hay một ý chính xuyên suốt mà tác giả muốn gởi gắm, trước hết, cho người đọc nguyên thủy, tức là người đọc đầu tiên mà tác giả muốn nhắm đến mà thôi. Có nhiều cách áp dụng ý chính đó cho từng hoàn cảnh cụ thể, nhưng ý chính thì chỉ có MỘT.
Trong Nhã Ca thì Tình Yêu là ý chủ đạo, giống như Khôn Ngoan là chủ đề của Châm Ngôn vậy.
Sách Nhã ca khởi sự với nàng thiếu nữ mong ước nụ hôn của người yêu và kết thúc với lời mời gọi khẩn trương chàng đến sự thắm thiết của tình yêu. Tiếng nói của tình yêu trong Nhã ca, giống tiếng nói của khôn ngoan trong Châm Ngôn là tiếng của người nữ, gợi ý rằng tình yêu và khôn ngoan có sức mạnh thu hút người nam với những tinh tế và huyền nhiệm quyến rũ của người nữ.
Nếu đọc thật kỹ ta sẽ thấy được nàng Yêu đang mơ trong cơn mơ tình ái, đang say trong nỗi nhớ niềm trông. Ngôn ngữ của nàng thoạt nghe như thật, nhưng lại là mơ, là ước; còn tiếng nói của chàng, nếu ‘soi’ thật kỹ thì hóa ra cũng là bởi nàng tơ tưởng mà thành đó thôi. 
Bao nhiêu nam thanh, nữ tú hãy nhớ lại ‘cái buổi ban đầu’ hẹn gặp người ta mà xem. Ôi bao nhiêu là toan tính, bao nhiêu là phương án: Chàng ‘nói’ thế này, mình ‘nói’ thế này. Nàng ‘chớp’ thế này, mình ‘đáp’ thế này. Nhưng than ôi, những ‘nói’ cùng ‘chớp’ hoành tráng, mùi mẫn kia chỉ toàn nằm trong trí, hoặc cùng lắm là … lẩm nhẩm một mình, vì nếu gặp được nhau rồi thì … không ‘đứng hình’, cũng bị … chập mạch nói cà tưng! 
Tất cả mấy ‘pha’ mùi mẫn, lâm ly kia đều là giả ráo trọi, chỉ có một điều duy nhất là thật: tình cảm mà hai đứa dành cho nhau là thật, rung động đầu đời là thật. Và chính cái thật của tình yêu đó mà nàng Yêu đã tung ra một status bất hủ:
Xin anh đừng kể hèn sang
Coi em như chiếc ấn vàng trong tâm,
Ái tình mạnh tợ tử thần,
Lòng ghen bốc cháy như âm phủ kề.
Tình yêu, đám lửa thật ghê,
Phừng phừng cao ngọn, tư bề cháy thiêu.
Dù sông biển nước thật nhiều
Cũng không dập tắt tình yêu được nào;
Dù ai tiền bạc chất cao,
Ái tình không thể mua vào được đâu,
Tình đôi ta vững xiết bao.
Có gì phá nổi tình sâu bao giờ?
 (8: 6-7 – Bản Diễn Ý)
Đỉnh điểm của Nàng Yêu nằm ở đó, cốt lõi của tình yêu thật là ở đó, đoạn kết của tình yêu thật là ở đó. Hỡi những người đã yêu, đang yêu và sắp yêu: hãy dành thời giờ đọc, suy gẫm sách Nhã Ca và thơ Corinhto thứ nhất đoạn 13 nhiều thêm nữa nhé. Hỡi những người đang yêu, bạn có đang thật sự ở trong lâu đài tình ái, đang thật sự nếm biết vị của quả táo tình yêu thật (7:13) mà Thiên Chúa sẵn dành cho riêng bạn và người bạn tình duy nhất của bạn mà thôi hay không?


Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2015

GIẢI MÃ NGHỊCH LÝ CUỘC ĐỜI

Giáo Huấn 7-12
Trong 6 chương còn lại của sách Giáo Huấn hay Truyền Đạo mà chúng ta đọc hôm nay, tác giả tiếp tục đưa ra những bằng chứng “dưới mặt trời” về sự vô nghĩa của đời sống con người.
Không chỉ là vô nghĩa trong những gì ta làm và trong những gì ta có, mà ngay cả việc ta là người thế nào cũng trở nên vô nghĩa nếu ta xa cách Đức Chúa Trời. Ngay cả người công bình lắm khi cũng bị đối xử như thể họ là kẻ làm ác (8: 14) hay một tội phạm có thể phá hủy công việc của nhiều người tốt (9: 18). Và thậm chí, một sống người đạo đức, ngay thẳng dường như cũng chẳng được lợi lộc gì.
Vâng, “dưới mặt trời”, trong đời này thì có vẻ đúng là như vậy. Tuy nhiên, khi chạm đến đời sau thì sự việc lại hóa ra khác hẳn: “Người phạm tội dù làm ác cả trăm lần, vẫn được sống lâu. Tuy nhiên, tôi biết những người kính sợ Đức Chúa Trời sẽ được phước lành, vì họ kính sợ Ngài, còn kẻ ác sẽ không được phước lành, cuộc đời kẻ ác sẽ qua đi như cái bóng, không lâu bền, vì họ không kính sợ Đức Chúa Trời. (8: 12-13)
Còn nữa, mỗi một phúc lành từ nơi Thiên Chúa đều kèm theo nó một trách nhiệm tương ứng.
Bạn là người trẻ tuổi phải không (11: 9-10)? Chúa sẽ ‘tính sổ’ với bạn căn cứ trên cách mà bạn sử dụng tuổi thanh xuân và sức lực của mình đấy nhé.“Hỡi người trẻ tuổi, hãy vui mừng trong tuổi thiếu niên! Hãy vui hưởng thời thanh xuân của con. Hãy đi theo đường lối lòng mình muốn và mắt mình ưa thích. Nhưng phải biết rằng vì mọi việc ấy, Đức Chúa Trời sẽ đem con ra mà xét xử.” (11: 9)
Quý vị thuộc thành phần cao niên à (12: 1-7)? Đừng xem điều đó như là cái cớ để được miễn giảm nhé. Già trẻ gái trai lớn bé gì Chúa cũng xét cùng một chuẩn giống nhau hết đóa. “Vì tất cả chúng ta đều phải trình diện trước tòa án Đấng Christ để mỗi người nhận lãnh tùy theo điều thiện hoặc ác mình đã làm lúc còn trong thân xác (2 Corinhto 5: 10)
Trong hai câu cuối cùng của sách Giáo Huấn, vị Truyền Đạo hay Giảng Sư đã đưa ra lời kết: Hãy kính sợ Đức Chúa Trời và tuân giữ các điều răn của Ngài. Đó là phận sự của con người. Vì Đức Chúa Trời sẽ đem ra xét xử mọi việc, kể cả những việc kín giấu, dù thiện hay ác (12: 13-14).
Ở bất cứ độ tuổi nào, một đời sống mà xa cách Đức Chúa Trời thì đều vô nghĩa, trống rỗng, bất kể người đó khôn ngoan, giàu có hay siêng năng chăm chỉ đến đâu đi nữa. Ngoài Đức Chúa Trời ra, thì không một người nào hay một điều gì nơi thế hạ, tức “dưới mặt trời” có thể lấp đầy khoảng trống trong tâm linh và đời sống của mỗi một chúng ta. Do đó, Hãy kính sợ Đức Chúa Trời và tuân giữ các điều răn của Ngài. Đó là phận sự của con người. (12: 13)
Bạn thân mến, hãy xem xét đời sống của mình theo như những gì bạn đang làm, những gì bạn đang có và vị thế hiện tại của bạn. Có phải Đức Chúa Trời là tâm điểm mọi hoạt động của bạn không? Chúa có thật sự quan trọng hơn tài sản, của cải của bạn không? Và Ngài có phải trung tâm của chính bạn không? Nếu câu trả lời là không thì đâu là những thay đổi mà bạn cần phải làm ngay hôm nay?
Trong 6 chương Kinh Thánh hôm nay cũng có một vài chỗ khó hiểu, nhất là cho những ai sử dụng Bản Dịch Cũ (1926). Chẳng hạn, câu ni:
Kẻ truyền đạo nói: Sau khi xem xét muôn sự từng điều từng vật, đặng tìm chánh lý, thì nầy là điều ta tìm được: Ấy là lòng ta hãy còn tìm mà chưa tìm ra: Trong một ngàn người đàn ông ta đã tìm được một người; còn trong cả thảy người đàn bà ta chẳng tìm được một ai hết. Nhưng nầy là điều ta tìm được: Đức Chúa Trời đã dựng nên người ngay thẳng; song loài người có tìm kiếm ra lắm mưu kế. (7: 27-29)
Nếu chỉ đọc lướt qua thì dễ đi đến kết luận rằng phụ nữ là … xấu trọn gói luôn, bói cũng không ra được một bà nào âu-kơ cả. Nhiều người vội chụp cho Sa-lô-môn cái mũ “thù ghét đàn bà” – do bị 1,000 bà vợ ‘quần’ cho tơi tả luôn – hay thậm chí nóng hổi tính thời sự là ‘thằng chả’ chắc bị … gay (đồng tính) nên chỉ khoái mỗi đàn ông. He he.
Tuy nhiên, để hiểu đúng ý nghĩa mà Sa muốn nói ở đây thì trước hết, phải kết dính với 2 câu trước đó, tức là câu 25-26. Chuyện có liên quan đến tình dục ngoài luồng, tình dục không chính chủ đấy ạ. Tiếp theo, cần phải lưu ý rằng chuyện “tìm được một … đực rựa trong nghìn người” là điều anh í dốc lòng tìm nhưng tìm CHƯA ra. Điều anh í tìm được hay phát hiện được chỉ là ri nì: “Ấy là lòng ta hãy còn tìm mà chưa tìm ra. Đóa, thấy huề vốn chưa.
Nếu anh chị em sử dụng Bản Dịch Mới thì câu này sẽ dễ hiểu hơn, khỏi đoán già đoán non gì hết: “Tôi chuyên lòng tìm hiểu, nhưng vẫn chưa hiểu được ý nghĩa câu phương ngôn: ‘Trong số ngàn người nam, tôi tìm được một người. Còn trong số ngàn người nữ tôi chẳng tìm được một ai.’”
Một câu Kinh Thánh khác cũng khiến nhiều người thắc mắc. Đó là “Trái tim của người khôn ở bên hữu; còn trái tim của kẻ dại ở bên tả (10: 2). Bản Hiệu Đính dịch câu này sáng rỡ luôn, khỏi cần giải thích thêm: Lòng người khôn ngoan hướng về điều phải, Còn lòng kẻ ngu dại hướng về điều trái.
(Trong VietBible có sẵn các bản dịch Kinh Thánh tiếng Việt khác nhau hoặc anh chị em cũng có thể tải chúng về điện thoại của mình cách miễn phí, nhằm nâng cao khả năng tự khám phá Lời Chúa của mình nhé. Đã đến lúc phải nâng lê-vồ rồi đấy)
Cuối cùng, vì sách Giáo Huấn hay Truyền Đạo cũng thuộc nhóm văn thơ Khôn Ngoan nên cũng có lắm điều khôn để ta có thể … lận lưng làm vốn trong đời đấy. Hai câu Kinh Thánh được chọn làm phần kết cho ‘Bình Lựng’ hôm nay liên quan đến thái độ của người dưới đối với kẻ trên.
“Nếu chủ nổi giận, đừng bỏ việc, nhưng phải cư xử mềm mỏng, như thế có thể ngăn ngừa tội nặng” (10: 4 – BDY)
Chớ nguyền rủa vua dù chỉ trong tư tưởng,
Đừng nguyền rủa người giàu sang quyền quý dù chỉ trong phòng riêng,
Vì chim trời có thể chuyển tải tiếng nói của bạn,
Hoặc các loài có cánh có thể tường thuật lời của bạn.  (10: 20)
Mỗi khi nghĩ về hiện tình đất nước hay được biết về một sự kiện, thông tin gì đấy tại quê nhà qua các phương tiện thông tin đại chúng hay qua người thân, hỡi anh chị em, hãy canh giữ lòng mình, trí mình để không phạm tội cùng Chúa vì những lời chữi vô tội vạ tuôn ra từ môi miệng chúng ta.


Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

KHÁM PHÁ NGHỊCH LÝ CUỘC ĐỜI

Giáo Huấn 1-6 
Chúng ta bắt đầu tiến vào sách Giáo Huấn hay sách Truyền Đạo – một cuốn sách … ‘khác người’ ngay từ trang đầu tiên. Đọc đến đâu bi quan, hoang mang đến đấy. He he
“Hổng biết có nhầm lẫn gì không mà khẩu khí sao giống của nhà Phật hơn là nhà Chúa vậy Thầy?” – Nhầm là nhầm thế nào. Hàng chính chủ đấy. Đúng chuẩn được Đức Chúa Trời thần cảm, có ích cho việc dạy dỗ chân lý, bác bỏ điều sai trái, sửa chữa lỗi lầm, đào luyện con người sống công chính, hầu cho người của Đức Chúa Trời được trang bị đầy đủ và sẵn sàng để làm mọi việc lành cơ đấy (2 Timothe 3: 16-17)
Chìa khóa để không bị … ‘đậu phụng đường’ … khi tìm hiểu sách Giáo Huấn là cụm từ: “dưới trời/dưới mặt trời”. Đó là cụm từ mà tác giả sử dụng để chỉ về thế giới này, thế giới vật chất hữu hình trên đất hay nôm na là đời này. Chỉ đời này, chỉ thế giới hiện tại dưới bầu trời hay dưới mặt trời này mà thôi nhé. Còn “trên mặt trời” hay đời sau thì đây … không dám đụng đến đâu đấy. He he
Trong cả sách này, tác giả sử dụng tổng cộng cả thảy 29 lần cụm từ “dưới trời/dưới mặt trời” và 38 lần cụm từ “hư không” để chỉ ra sự vô nghĩa của đời sống một người trên đất mà không có Đức Chúa Trời.
Thật sự thì cuộc sống là một điều bí ẩn, là một ẩn số, và là … một câu đố. Từ cái nhìn của những ai không biết Đức Chúa Trời, thì chỉ có một từ duy nhất có thể diễn tả cuộc đời của họ mà thôi. Đó là từ “vô nghĩa”.
Kết cuộc của mọi hoạt động, mọi cố gắng nỗ lực, tranh đấu, thủ đoạn, giành giật, … của họ trong suốt cuộc đời, cũng không thể nào đem lại sự thỏa mãn đích thực cho họ. Sớm hay muộn thì những người ấy cũng sẽ nhận ra rằng, tất cả đều vô nghĩa trước cái chết.
Từ những gì mà mình đã trực tiếp trải nghiệm, người Truyền Đạo hay vị Giảng Sư kết luận rằng “ở dưới mặt trời” thì chẳng có điều chi hay việc gì có thể mang lại cho ta sự thỏa mãn vĩnh viễn cả. “Mọi việc trên đời đều vô nghĩa! Tất cả đều hư ảo, phù hoa!”
Ngay phần dạo đầu (1: 1-11), với những vòng quay đơn điệu của những chu kỳ vận động trong tự nhiên (mặt trời, gió thổi, nước chảy, …) đã có thể làm nản chí khách Bộ Hành rồi đấy.
Những chu kỳ này sao giống cảnh đời của ta quá dzậy. Thức dậy - ăn uống – đạp xe đến công ty - làm chừng ấy việc - về nhà - ngủ nghỉ - rồi lại thức dậy ăn uống … Ngày nào cũng như ngày nào, cũng đoạn đường đó, cũng công việc đó, những đồng nghiệp đó, …
Mới đầu thì rất chi là hồ hởi, phấn khởi nhưng một năm sau, 5 năm sau, 10 năm sau, … thì sao? Có khi nào bạn đã cảm thấy nản, thấy chán, thấy đơn điệu, trống vắng chưa?
Làm răng đây cho đời luôn tràn đầy ý nghĩa? Mần chi đây để ngày nào ta cũng có thể hớn hở ca vang “cuộc đời vẫn đẹp sao”?
Quá đơn giản. Có điều kiện mà. Sợ gì, chơi tới bến luôn đi. (Nhớ rằng, tác giả đang là vua). Không thử thì làm sao biết (2: 1). Món nào cũng thử nhưng không nghiện à nha. Chơi thì chơi nhưng mà “sự khôn ngoan vẫn còn dẫn dắt lòng ta” à nha (2: 3).
Ăn chơi chán rồi thì chuyển sang chí thú làm ăn, tạo dựng sự nghiệp (2: 4-10); Làm ăn thành đạt chán rồi thì chuyển sang trau dồi học vấn, thi cử đổ đạt, chuyên tâm nghiên cứu (2: 12-22); Chán học hành nghiên cứu rồi chuyển sang tìm ý nghĩa trong công tác xã hội, trong việc giải quyết những bất công xã hội (4: 1-16); Chán công tác xã hội liền quay sang tìm khuây khỏa trong tôn giáo (5: 1-12).
Nhưng ngay trong lĩnh vực này, người Truyền Đạo hay Giảng Sư cũng nhận thấy là hư không! Ấy là vì những tổ chức tôn giáo theo nghi thức, không có năng lực để ngăn chận hành vi sai trái và không khiến cho sự bất công dừng lại. Chủ nghĩa tôn giáo theo hình thức là rỗng tuếch và hư không cũng như những thứ khác trong cuộc sống nơi trần thế, tức “dưới mặt trời” mà thôi.
Người Truyền Đạo hay Giảng Sư – mà phần lớn các nhà giải kinh đều cho rằng đó chính là vua Sa-lô-môn – với mục đích khám phá ý nghĩa đích thực của đời người, đã đi tới tận cùng của mọi lĩnh vực, mọi hoạt động trong đời sống con người. Ông có đủ điều kiện để thực hiện “công trình nghiên cứu” đó suốt cuộc đời của mình. Thế nhưng, kết luận cuối cùng của ông là: “Tất cả đều hư không!” Tất cả những điều được tìm thấy trong thế gian này như thu nhận kiến thức, tìm kiếm sự vui thích, tích lũy của cải, khám phá triết lý sống, … không thể làm thỏa nguyện tấm lòng của con người.
Đó là điều mà mỗi một người sống trên đất cần biết. Đó là điều mà mỗi một con dân Chúa cần biết. Thế nhưng, trong thực tế thì còn có quá nhiều người chưa biết hay không chịu biết, không chịu nhìn nhận điều này.
Vì chưa biết, không chịu biết hay không chịu nhìn nhận điều này nên người ta – số thì miệt mài chơi, số thì miệt mài ‘cày’, số thì miệt mài … ‘đày’ chính mình trong vô vàn hoạt động với ảo tưởng rằng nếu ta có được điều ấy, có được chừng nấy thì đời sẽ nên … tiên!
Dù có là người tin nhận Chúa Giê-xu đi nữa nhưng nếu cuộc đời bạn đang bị chi phối hay được thúc đẩy bởi quan điểm sai lầm “dưới mặt trời” thay vì “trên mặt trời” thì bạn chưa thật sự sống cho sự đời đời đâu. Bạn vẫn còn đang tiếp tục theo đuổi những giá trị sai lầm, vô nghĩa và kết cuộc là thất bại và thất vọng đang chờ sẵn bạn ở phía trước đấy.
Khá nhớ rằng, Sa-lô-môn đã biết Đức Chúa Trời và đã được Ngài ban phước rất nhiều, nhưng ông đã từ bỏ Chúa khi đi theo lối riêng của mình bằng cách chọn những gì “ở dưới thấp” thay vì những điều “ở trên cao”. Thế cho nên, không có gì lạ khi ông trở nên bi quan và hoài nghi khi nhìn cuộc đời. Bi quan đến độ, theo ông, thì kết cuộc cuối cùng của mọi người – dù khôn ngoan hay dại khờ, giàu sang hay nghèo khó – và thậm chí giữa con người và con vật cũng chẳng khác gì nhau.
Không biết nhạc sĩ Lê Dinh khi sáng tác nhạc phẩm Trở Về Cát Bụi có từng đọc qua sách Giáo Huấn hay Truyền Đạo này chưa mà ‘quất’ một câu giống y chang Sa-lô-môn nè: “mai kia chết rồi trở về cát bụi giàu khó như nhau”. Chịu khó đọc lại chương 3 và chương 6 để ‘cảm’ cho bằng hết cái mùi bi quan của vị vua từng nổi tiếng là khôn ngoan hơn người nha anh chị em.
Sáu chương Kinh Thánh hôm nay, cũng có thấp thoáng bóng dáng của Đức Chúa Trời rồi đấy nhưng tác giả vẫn chưa chịu “lộ bài” đâu. Hôm nay, ông chỉ giới thiệu cho chúng ta những nghịch lý của cuộc đời mà thôi. Còn “Ý Nghĩa Đời Người” đích thực thì xin vui lòng chờ đến ngày mai.


Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

TÀI ĐỨC VẸN TOÀN

Châm Ngôn 30-31
Sách Châm Ngôn kết thúc với những lời khôn của hai người tin kính: A-gu-rơ và vua Lê-mu-ên. Vì không có chỗ nào trong Kinh Thánh cho ta manh mối về hai nhân vật này, trong khi tác quyền của Sa-lô-môn đối với sách Châm ngôn đã được minh định ngay từ trang đầu (1: 1), nên nhiều người nghiêng về giả thuyết rằng A-gu-rơ và Lê-mu-ên chẳng qua chỉ là những nickname hay bí danh của vua Sa-lô-môn mà thôi.
Dù giả thuyết này có âu-cơ đi chăng nữa thì cũng phải nhìn nhận rằng, xì-tai (style) của 2 chương cuối cùng là khác rất xa với 29 chương trước đó, nhất là với các chương từ 10-29. Số là 2 ‘em’ nó chả bảo người đọc chúng ta rằng nên hay không nên làm điều này, điều kia. Cũng chẳng đưa ra nhận định đúng sai chi cả. Cứ ‘phơi’ lồ lộ ra như thế. Ai hiểu được thì hiểu.
Sử dụng những hình ảnh trong thế giới tự nhiên cùng thể loại châm ngôn “Thông Kê Số Lượng”, theo kiểu … nói “ba điều, bốn chuyện” của người Việt, A-gu-rơ gồm tóm lại nhiều chủ đề đã được trình bày xuyên suốt cả sách Châm Ngôn như khôn và dại, tham lam và tham ăn, ngoại tình và giả hình.
Giọng văn nhập đề của A-gu-rơ và Lê-mu-ên (30: 2-3; 31: 2) có hơi hướng châm biếm hay sao ấy. Sắp sửa dạy học trò, hay dạy con nhưng mấy thầy, mấy mẹ này cứ khoe mình là … dốt. Quá lọa đúng không? Thế nhưng, thấy dzậy mà hổng phải dzậy đâu à nha. Khôn nẻ vỏ luôn í.
Trước hết, thầy A-gu-rơ xác nhận rằng, Chúa quá vĩ đại nên không cách chi hiểu hết được về Ngài (30: 3-4). Điều gì cần biết về Chúa thì đã được bày tỏ trong Lời của Ngài rồi, nên đừng có làm tài khôn mà ‘thêm mắm, giặm muối’ vào đấy. Chết à con (30: 5-6).
Tiếp theo, thầy í khuyến mãi cho 2 bạn sanh dziên Y-thi-ên và U-canh một lời cầu nguyện mẫu: “Cầu Dzừa Đủ Xài” (30: 7-9), trước khi đăng đàn giới thiệu một loạt sê-ri mang tựa đề: “Tứ Đại Danh Bộ”.
Nhóm Bộ Tứ đầu tiên mang biệt danh: Ác Nhân Kinh (30: 11-14); nhóm thứ hai có nickname là Đông Y-náp (Don’t Enough – 30: 15-16); nhóm thứ ba mang tên Kỳ … Văn Lạ (30: 18-20); tiếp theo là nhóm Kinh … Văn Dị (30: 21-23); theo sau đó là nhóm Tí Trạng Khôn (30: 24-28) và cuối cùng là nhóm Tứ Oai Phong (30: 29-31).
“Ác Nhân Kinh” thì quá rõ rồi, không cần diễn giải thêm. Đây là loại người mà Chúa ghét. Chớ chung xuồng với chúng.
Còn “Đông Y-náp”? – Đây là loại người tham muốn vô độ, không bao giờ biết dừng. Trong bộ nhớ của nhóm này không hề có từ “thỏa lòng”. Chúng cứ bị thiêu đốt bởi lòng tham muốn đối với những gì mình không có hay những gì thuộc về người khác thay vì vui hưởng những gì mình đang có. Mà tham muốn kiểu í thì dù có vẻ chính đáng như “dạ son sẻ” – tức lòng ước ao có một mụn con của người đàn bà hiếm muộn – đi nữa, thì hậu quả hay tác hại của nó là thật khó lường. (Đọc lại chuyện bà Sara cưới vợ bé cho chồng là Apraham thì biết). Nói chi đến Âm Phủ, đất hạn, hỏa hoạn hay … đỉa đói. Thế mới hay, “sự tin kính cùng sự thỏa lòng chính là mối lợi lớn” cho đời sống của mỗi một chúng ta (1 Timothe 6: 6).
Nhóm “Kỳ Văn Lạ”, nếu muốn, cũng có thể gọi là “hiểu được chết liền”. Từ bốn đường lả lướt, hai khô hai ướt, muốn tìm dấu vết thì hơi bị … mướt, tác giả kết luận cái rụp: Đường của người phụ nữ ngoại tình cũng vậy: cô ả ăn xong, chùi miệng và nói: ‘Em có làm điều gì tội lỗi đâu!’ (30: 20). Đứng hình chưa?
Vì không để lại dấu vết (như chim bay trên trời, rắn bò trên đá, tàu chạy giữa biển khơi, và cách trai gái ái ân), tức là không có “tang chứng, vật chứng” – theo cách nghĩ của chúng – nên chuyện ngoại tình hay sinh hoạt tình dục ngoài luồng là rất dễ … xơi. Lối lập luận gian xảo như thế chính là cái bẫy đã, đang và sẽ tiếp tục hủy hoại biết bao cuộc đời cùng biết bao gia đình khắp năm châu bốn biển đấy. Đừng tưởng mình là ngoại lệ, mình là bất khả chiến bại nghe con.
Dù mấy ả “ăn” xong, “lau mồm” liền, không ai kịp thấy đi nữa thì cả con ả, lẫn thằng chả vẫn bị Chúa ghét như thường. Bài học mới hôm thứ Hai chớ đâu. Nhớ không?  
Tiếp theo là bộ Tứ “Kinh Văn Dị”. Sở dĩ, 4 dị nhân này có thể làm cho đất rung, núi chuyển là vì được hay bị … ngồi nhầm chỗ. Gọn một lời là mấy ảnh, mấy chỉ không hề được trang bị hay huấn luyện để làm lãnh đạo hay giữ vai trò quản lý – dù là làm chủ một gia đình hay một quốc gia.
Vĩ mô thì có gương tày liếp của các cụ thuộc giai cấp “công nông vô sản” sau khi giành được chính quyền thì đưa đất nước “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, … đến hết thế kỷ hổng biết đã đến được chưa” còn sờ sờ ra đấy. Còn vi mô thì có chuyện mấy anh Hai Lúa được đền bù tiền tỉ sinh đổ đốn thế nào; mấy ả nạ dòng ‘chằn ăn trăn cuốn’, đóng phim ma không cần hóa trang, một khi túm được tấm chồng sinh kênh kiệu ra sao hay nô tỳ A-ga sau khi có chửa với ông chủ mình thì xấc láo, hỗn xược không ai chịu nổi là những minh họa sống động cho 4 ông (bà) kẹ này đấy ạ.
Nhiều người ngày nay rất … máu làm lãnh đạo, rất mê làm quản lý, và vô cùng sướng … củ tỉ khi được ngồi vào ghế ông chủ hay bà chủ. Thế nhưng, họ chỉ quan tâm đến chức danh, tức tên gọi (mục sư, giáo sư, giám đốc, quản lý, …) chớ không hề chuẩn bị lẫn trau dồi chính mình (tri thức, sức khỏe, kỹ năng, …) để thực hiện chức năng của chức danh đó.
Ngồi vào đi rồi biết nha cưng. Ngồi cho thật chắc vào nhé, vì trái đất bắt đầu rúng động rồi kìa.
Khác với 3 nhóm người trên, những loại người thuộc 2 nhóm bộ Tứ còn lại thì ta nên bắt chước. Bắt chước nhóm “Tí Trạng Khôn” trong việc chuẩn bị cho mình một tương lai tốt đẹp, bất kể thân thế hay danh phận của mình có thấp kém đến đâu. Và bắt chước nhóm “Tứ Oai Phong” – không phải cách bước đi trên sàn “mèo đi dạo” (catwalk) của những người mẫu thời trang – mà là những phẩm cách của một người lãnh đạo như can đảm (sư tử), nghiêm trang (gà trống), dẫn dắt người khác bằng cách làm gương (con dê đực) và quyết đoán (vị vua khi thống lĩnh ba quân).
Đúng là có quá nhiều “thầy” để ta có thể học khôn đúng không. Đức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn thầy cô khắp xung quanh cho ta rồi đấy nhé. Hãy khiêm nhường đủ để mà học khôn từ … cái kiến, con đỉa học đi. Còn đứa nào “dại dột mà tự cao tự đại”, không chịu học í à? – Không “chột mắt, lọt tròng” thì cũng … “trào máu mũi” hay nói như mấy anh Ba Tàu Chợ Lớn là … “hộc xì-dầu” à nha (30: 17, 32-33).  
“Ba điều, bốn chuyện” của thầy A-gu-rơ đã chiếm quá nhiều thời lượng rồi, nên giờ đành phải vắn tắt những gì mà vua, hay chính xác hơn là mẹ của vua Lê-mu-ên dạy ổng thôi.
Có hai điều mẹ dạy liên quan đến lối sống và cách hành xử của một người lãnh đạo. Đó là phải tránh xa tửu-sắc, hay ma men và ma-đam, tức rượu và gái. Đồng thời phải luôn xem trọng quyền lợi của thành phần thấp cổ, bé miệng trong xã hội hoặc trong cộng đồng.
Rượu có phải là dùng để uống không? – Yes. Nhưng không phải cho người lãnh đạo uống à nha. Thế thì cho ai uống? – Cho mấy tay phạm nhân sắp bị tử hình, và những “kẻ có lòng đắng cay sầu não” mà thôi. Sở dĩ hai thành phần nầy cần rượu là để giúp họ “quên đi nỗi nghèo khổ của mình” giống như người nghèo ở Hà Nội cần được xem bắn pháo hoa thường xuyên trên cầu Nhật Tân vậy đó!
Rứa thì mỗi khi nâng cốc nốc cạn – dù là bia Tiger, là Ba Cây Búa hay rượu bột nỡ – thì ta đang tự xếp mình chung hàng với những kẻ sắp bị tử hình và những kẻ có lòng đắng cay sầu não đó nha. Thích như dzậy hả cưng? Thích thì chìu. Lúc đó thì đừng có trách nghe hôn.
Cuối cùng, từ câu 10 cho đến câu 31, Lê-mu-ên sử dụng lần lượt 22 chữ cái trong bảng chữ cái của tiếng Hê-bơ-rơ để vẻ nên chân dung tuyệt vời của một người vợ, một người mẹ đảm đang, tin kính. Thật là một người nữ tài đức vẹn toàn. Đây là người phụ nữ điển hình cho sức mạnh, trí thông minh, năng lực, sự nhạy bén trong công việc, tính siêng năng, sự vinh hiển và nhan sắc. Người nữ này rõ ràng là một cộng sự và là một người bạn đời đối với chồng của mình chớ không phải là cấp dưới, là kẻ giúp việc hay nô lệ của anh ta.
Đối với Chúa thì Duyên là giả dối, sắc là hư không, nhưng người nữ nào kính sợ CHÚA sẽ được khen ngợi. (31: 30). Cũng vì lý do đó mà sứ đồ Phê-rơ đã từng khuyên dạy những người nữ trong Chúa rằng, “Đừng chú trọng sự trang điểm bề ngoài như làm tóc cầu kỳ, đeo vàng, mặc áo quần lòe loẹt; nhưng hãy trang điểm con người bề trong thầm kín bằng vẻ đẹp không phai tàn của tinh thần dịu dàng, yên lặng; đó là điều quý giá trước mặt Đức Chúa Trời. (1 Phê-rơ 3: 3-4)
Nếu bạn là một thiếu nữ đang tìm kiếm một gương mẫu tin kính, thì phần Kinh Thánh này (31: 10-31) là dành cho bạn. Nếu bạn là một chàng trai trẻ đang tìm kiếm một người vợ mẫu mực, thì hãy đọc và ghi nhớ phân đoạn này trong suốt thời gian tìm hiểu của bạn. Còn nếu đã lập gia đình, thì tại sao bạn lại không dùng những câu Kinh Thánh này để cầu nguyện cho chính mình (nếu bạn là nữ) hoặc cầu nguyện cho vợ của mình (nếu bạn là người chồng)?
Đảm bảo đó sẽ là những lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vô cùng. Nào, còn chần chờ gì nữa. Mần ngay đi.



Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

LỜI KHÔN TỪ VUA

Châm Ngôn 25-29
138 câu châm ngôn trong phần Bộ Hành ngày hôm nay là do vua Sa-lô-môn cảm tác nhưng lại được sưu tầm và biên soạn vào khoảng 250 năm sau đó bởi vua Ê-xê-chia. Đó là một kho báu vô tận từ một vị lãnh đạo anh minh dành cho thần dân của mình với những lời cảnh báo chống lại tình trạng suy đồi thuộc linh cùng những hướng dẫn cho một đời sống tin kính.
Sa-lô-môn đụng đến nhiều đối tượng  và các thành phần khác nhau trong xã hội: người giàu và kẻ nghèo, nhân chứng gian và bạn hữu, người siêng và kẻ nhác, kẻ lừa đảo và người đáng tin cậy, … Tuy nhiên, trong mỗi một hoàn cảnh luôn luôn có sẵn những cách ứng xử đúng đắn và viễn cảnh thích hợp cho những tấm lòng ngay thẳng. Nói cách khác, đáp án đúng luôn luôn sẵn có trước mắt. Vấn đề còn lại: sự chọn lựa của mỗi chúng ta.
Điểm đặc trưng trong phần Kinh Thánh hôm nay là thể loại văn so sánh với các từ thường xuyên được sử dụng: “như/giống như/cũng như”, “khác nào”. Tác giả sử dụng những hiện tượng, những sự vật quen thuộc trong tự nhiên hay trong cuộc sống để chuyển tải nội dung lời khuyên dạy của mình cách sống động đến tâm trí và tấm lòng của người nghe. Đây cũng là cách truyền thông vô cùng hiệu quả, giúp người nghe dễ dàng nhớ đến lời dạy về lâu dài mỗi khi có dịp tiếp xúc với những sự vật hay những đối tượng đã được sử dụng để minh họa. Anh chị em nào đang làm công tác giảng dạy, đặc biệt là công tác giảng dạy giữa vòng những người lao động bình dân ít chữ nghĩa, thì đây là phương cách đáng nên bắt chước đó nha.
Trong 5 chương Kinh Thánh hôm nay có lắm chỗ khó hiểu, thậm chí dường như là mâu thuẫn nữa kia đấy. Chẳng hạn, trước hết là 2 ‘boạn’ ni:
“Chớ đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, e con giống như nó chăng. Hãy đáp với kẻ ngu si tùy sự ngu dại nó, kẻo nó khôn ngoan theo mắt nó chăng”. (26: 4-5)
Cứ tưởng chúng như … chó với mèo, nhưng thật ra thì không phải vậy. Cụm từ “tùy theo sự ngu dại nó” xuất hiện 2 lần là có ý đồ chơi chữ đấy. Đây là 2 cách xử lý khác nhau đối với những lời chất vấn và lối hành xử từ những người còn non trẻ thuộc linh (ngu si).
Một đằng có nghĩa là chớ bị cám dỗ mà hạ chuẩn xuống cùng mức … ngu của hắn, tức là đừng sử dụng phương cách của hắn để … ‘ăn miếng trả miếng’ với hắn. Còn đằng kia là đừng bỏ mặc hắn … ngu thâm niên. Tùy theo mức độ mà hắn có thể hiểu được, hãy tận cơ hội giúp hắn … thoát ngu, tức là giúp hắn nhận ra rằng những gì hắn nghĩ, hắn tính, hắn làm là sai trớt quớt rồi. Đây chính là cách mà sứ đồ Phao-lô đã sử dụng để ‘giới thiệu’ mấy tay sứ đồ giả ở thành Cô-rinh-tô năm xưa đấy (2 Corinhto 11: 1-31)
Tiếp đến là bạn 27: 10 “Chớ lìa bạn mình, hay là bạn của cha mình; Trong ngày hoạn nạn chớ đi đến nhà anh em mình: Một người xóm giềng gần còn hơn anh em xa.”  Câu châm ngôn này không hề có ý phủ nhận giá trị tình cảm của quan hệ huyết thống hay có mưu đồ xúi giục người tin Chúa bỏ ông bỏ bà, bỏ anh bỏ em, bỏ họ bỏ hàng đâu nha. Câu này chỉ nhấn mạnh đến khía cạnh thực tế của tình bạn bè láng giềng, theo kiểu “bà con xa không bằng láng giềng gần”, nhất là trong những tình huống khẩn cấp (hoạn nạn, tai ương) mà thôi. Đây chính là lý do mà sách Châm Ngôn luôn khuyên dạy người tin thờ Chúa phải giữ mối quan hệ tốt với người láng giềng.
Tuy nhiên, dù có thân mật đến cỡ nào đi nữa thì cũng phải giữ một ‘khoảng cách’ nhé anh chị em. Vì Kinh Thánh dạy rằng, “Đừng thường xuyên bước chân đến nhà người lân cận con, Kẻo người chán con và trở lòng ghét con chăng” (25: 7)
Lại cũng hãy nhớ tôn trọng sự riêng tư của người bạn hàng xóm, chớ đừng thừa nhiệt tình thiếu hiểu biết mà cứ “dậy sớm lớn tiếng chúc phước cho bạn hữu” thì “lời chúc phước đó sẽ bị kể là lời nguyền rủa” đấy nha cưng (27: 14).
Chúc phước cho bạn bè là việc làm tốt, rất đáng được khuyến khích để phát huy. Thế nhưng, việc làm tốt mà thực hiện sai thời điểm (sáng SỚM) và sai quy cách (LỚN TIẾNG) thì gây “họa” cho người chớ không phải là phúc đâu nha.
Cứ thử tưởng tượng, một ngày nọ vào lúc trời “còn tưng tưng sáng”, tức là khi ta còn đang say giấc nồng mà có một tay nào đó trong hội thánh đến đứng trước cổng nhà ta mà “réo” – không chỉ cho ta mà còn cho hàng xóm của ta đều nghe thấu, “lớn tiếng” mà lị - thì dù lời chúc của ‘hắn ta’ có gút (good), có thiêng đến cỡ nào đi nữa thì đối với ta nó chỉ là phiền phức, chớ phúc đức nổi chi. Đúng hông?
Nói đến đây, chợt nhớ đến cảnh nhiều sư nhiều đệ - đặc biệt là các bác ở quê - khi đến làm khách hay nghỉ trọ nơi nhà của người khác. Chẳng cần quan tâm đến chuyện “nhập gia, tùy tục” hay giờ giấc sinh hoạt của chủ nhà gì sất, cứ thức dậy lúc nào là cầu nguyện như vỡ trận lúc ấy. Rồi thì hát, thì đàn, rồi tiếng lạ tiếng quen, … Việc làm tốt mà thành ra phản cảm, phiền toái cho người đáng ra phải được phúc. Vậy, hãy nhớ điều chỉnh vô-lum vừa đủ … Chúa nghe để bảo đảm giờ nghỉ ngơi của mọi người nha pà kon.
Thế mới hay, “Miệng hay đáp giỏi khiến người vui vẻ; và lời nói phải thì, (tức đúng lúc, đúng thời điểm) lấy làm tốt biết bao!” (Châm 15: 23) và “Lời nói đúng lúc khác nào quả táo bằng vàng có cẩn bạc.” (Châm 25: 11).
Và trước khi xây gút-bây (say good bye) xin có lời cảnh báo đến mọi khách Bộ Hành: “Người nào ngoảnh tai không nghe theo Kinh Luật, Lời cầu nguyện của người ấy cũng là sự gớm ghiếc.” hay “Người coi thường luật lệ, cầu nguyện Thượng Đế không nghe – (Bản Diễn Ý)” (28: 9).
Rõ rồi nhé. Đừng có mà sống buông thả không khác chi người thế gian – cũng ăn nhậu, cũng gian lận, dối trá, cũng trai gái ngập ngụa – nhưng khi gặp nạn thì chạy đến kêu gào trước mặt Chúa hoặc bù lu bù loa “xin thầy cô, xin mục sư, xin mọi người cầu nguyện cho tôi” như thể là người tin kính lắm í.
Nghe này: lời cầu nguyện hay van nài của loại người không xem Chúa và Lời Chúa ra … trăm gờ-ram nào là sự gớm ghiếc hay ghê tởm đối với Chúa đấy. Chúa không thèm nghe đâu. Đối với thành phần này thì chỉ có một lời cầu nguyện mà Chúa có thể nghe đến thôi. Đó là lời cầu nguyện ăn năn.
Không chỉ không trả lời, mà đối với những kẻ coi thường Luật Pháp Chúa, tức không sống theo Lời Chúa thì Chúa còn ‘khuyến mãi’ cho chúng một kết cuộc … khủng đúng nghĩa luôn:
"Một người thường bị quở trách nhưng vẫn cứng đầu, sẽ bị hủy diệt thình lình không phương cứu chữa” (29: 1)
Quá rõ rồi đấy nha. Ngày mai của ta thành hay bại là do thái độ ngày hôm nay của chúng ta đối với Lời Chúa. Chọn sống thế nào là tùy nơi bạn đấy.


Thứ Ba, 7 tháng 7, 2015

HỌC BIẾT KỶ NĂNG SỐNG

Dừng Chân Lần Thứ 25
NHÌN LẠI
Càng về cuối, tinh thần ngợi khen thờ phượng của sách Thánh Thi càng lên đỉnh. Các Thánh Thi từ 144-146 khích lệ ta ngợi khen Chúa cách cá nhân, còn các Thánh Thi từ 147-150 thì cổ vũ ta hiệp lòng cùng mọi người tôn vinh Chúa. Dù riêng tư một mình hay giữa hội chúng thì kết quả vẫn là như nhau: Đức Chúa Trời được tôn vinh, chúc tụng bởi tạo vật của Ngài. Quả thật, Chúa xứng đáng được như thế.
Nói đến sự thờ phượng Đức Chúa Trời là phải nói đến lòng kính trọng dành cho Chúa, vì “Kính sợ CHÚA là khởi đầu sự khôn ngoan” (Châm Ngôn 9: 10).
Chào hàng với hơn 900 cục quặng kim loại quý hiếm, Salomon thách thức người đọc sách Châm Ngôn săn tìm, ôm lấy và thậm chí là … thuê mướn sự khôn ngoan thiên thượng cho từng quyết định trong cuộc sống nơi trần thế này.
Khám phá hay nhận diện những gì tốt đẹp từ nơi những nguyên liệu của đời sống là kế hoạch và mục tiêu của Đức Chúa Trời cho mỗi một con dân Ngài. Tuy nhiên, việc chọn sống khôn hay sống dại thì lại tùy thuộc nơi chính mỗi một chúng ta!
NHÌN LÊN
Sách Châm Ngôn là một kho báu về sự khôn sáng mà bạn sẽ muốn đọc không chỉ một lần. Thực tế là bạn có thể bắt đầu với thói quen đọc mỗi ngày một chương (đoạn) suốt cả tháng (chẳng hạn, chương 24 thì được đọc vào ngày 24). Khi đọc sách Châm Ngôn, hãy lưu ý đến các thể loại châm ngôn khác biệt và những bài học mà mình có thể học được từ đó.
Loại Tương Phản sử dụng từ nhưng (còn, song) để so sánh theo kiểu “Người khôn ngoan sẽ thừa hưởng vinh hiển, nhưng kẻ ngu dại sẽ nhận điều xấu hổ.” (3: 35)
Loại Nhân Quả thì dùng từ “vậy” (như thế, thì) hay “vì” để chỉ ra mối quan hệ nhân quả của hành động và phản ứng. Chẳng hạn, “Hãy lấy tài vật và huê lợi đầu mùa của con, Mà tôn vinh Đức Giê-hô-va; Vậy, các vựa lẫm con sẽ đầy dư dật, …” (3: 9-10)
Loại … Thống Kê Số Lượng thì đưa ra tuyên bố trước, rồi sau đó là liệt kê từng … ‘em’ một như ri: “Có sáu điều CHÚA ghét và bảy điều Ngài ghê tởm: Con mắt tự cao; Lưỡi dối trá …” (6: 16-19)
Loại So Sánh thì chuyên trị cụm từ “thà … còn hơn là” để chào mời điều gì đó tốt hơn. Chẳng hạn, “Thà có ít của mà kính sợ Đức Giê-hô-va còn hơn là có nhiều tài sản mà bối rối cặp theo” (15: 16)
NHÌN TỚI
Nếu từ một súc gỗ, một thợ mộc có thể làm thành một vật dụng tuyệt đẹp, thì ta gọi người đó là một nghệ nhân.
Nếu một người chỉ huy có thể làm cho vô số nhạc công với đủ loại kỷ năng trong cả một dàn nhạc trình tấu cách tuyệt vời một bản giao hưởng, thì ta bảo người này là một nhạc trưởng tài hoa.
Còn nếu một người nam hay một người nữ, một chàng trai hay một cô gái mà có thể sử dụng những nguyên liệu của sống để chế tác chúng cách khéo léo theo bản vẽ mà Đức Chúa Trời đã cung ứng trong Lời của Ngài thì chúng ta nói rằng ấy là một người khôn ngoan. Việc này chẳng liên quan gì đến chỉ số thông minh (IQ) của chúng ta nhưng liên quan đến sự vâng lời của chúng ta! Bạn có thể là người khôn ngoan với chỉ số thông minh là 70; và bạn cũng có thể là người ngu dại, thậm chí với chỉ số IQ cao ngất ngưởng đến 170. Sự chọn lựa tùy nơi bạn.
Dù bạn là một phụ huynh đang gặp phải khó khăn trong việc kỷ luật con cái, là một thiếu niên đang vật lộn với những thúc bách từ bạn bè đồng trang lứa, hay là một nhân viên điều hành nổi bậc đang đối diện với cám dỗ chạy theo quần chúng trong một lựa chọn thiếu đạo đức, … thì bạn vẫn có thể tìm thấy trong sách Châm Ngôn sự hướng dẫn khôn sáng để hành xử trong đời.
Hãy chọn lấy một đề tài mà bạn thích nghiên cứu từ trong góc nhìn của Đức Chúa Trời (tiền, tình, … talk, chẳng hạn), rồi chịu khó … bước lùi trở lại suốt những chương của sách Châm Ngôn mà mình đã đọc trong những ngày qua. Đảm bảo là bạn sẽ lại nhận được nhiều điều lạ lùng mới mẽ mà Đức Chúa Trời đã dành riêng cho bạn từ nơi chính những trang sách mà bạn đã Bộ Hành qua.
Hành động hay không và hành động theo kiểu nào (khôn hay dại) là tùy thuộc hoàn toàn nơi bạn!