Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

SAU-LƠ, VỊ VUA ĐƯỢC CHỌN

1 Samuen 9-12
Cuối cùng, điều mà dân Y-sơ-ra-ên ao ước cũng đã thành hiện thực: họ đã có được một vị vua, vừa trẻ, đẹp lại vừa có tài. Nói theo ngôn ngữ ngày nay thì anh í rất chuẩn ‘men’ và cũng được Chúa chuẩn y. Thế nhưng, đó lại là một việc không đẹp lòng Chúa.
Không đẹp lòng Chúa mà Chúa vẫn ban cho. Kiểu này được gọi là “ý muốn cho phép” chớ không phải là “ý muốn trọn vẹn” của Chúa đâu nha. Đây là kiểu “thích thì chìu” đấy. Kiểu ban cho này cùng nhóm với “chim cút sa mạc” mà dân Y-sơ-ra-ên đã từng. Đây là loại tặng phẩm luôn có ‘tác dụng phụ’ đi kèm. Nhớ nhé.
Trong buổi đầu nhậm chức, thì không hề thấy ‘tác dụng phụ’ chi cả. Sau-lơ đẹp trai, trẻ trung, hơn hẳn người ta … “cái đầu” (9:2). Rồi cũng được xức dầu bởi chính Samuen, rồi Thánh Linh tác động, rồi cũng nói tiên tri như ai. Còn gì nữa? – Chàng đánh đấm ra trò nha. Uýnh một phát thôi là quân Am-môn không còn một mống.
“Lãnh đạo như thế thì tốt quá rồi còn gì. Đúng là một người đầy ơn. Thật là phúc phận cho dân tộc, cho đất nước. Hỡi quốc dân đồng bào, một giai đoạn mới, một trang sử mới xán lạn đã đến với chúng ta, …” Nói chung là rất hồ hởi, phấn khởi.
Chính vì nhìn thấy tư cách rất khiêm nhu, những hoạt động vô cùng sôi nổi, những chiến công hay thành quả hoành tráng bước đầu của Sau-lơ mà dân Y-sơ-ra-ên, dù bị Chúa quở trách trước và sau sự vụ đó, vẫn không thực sự ‘tâm phục khẩu phục’ là họ đã sai trật, đã phạm tội về việc xin một vua.
Ngày nay, trong hội thánh Chúa có hay không những vị lãnh đạo được chọn theo kiểu “cho phép” thế này không? – Chắc là có đấy.
Việc xin một vua là điều không đẹp lòng Chúa, nhưng Sau-lơ thì lại được chính Chúa chọn chớ không phải cộng đồng Y-sơ-ra-ên chọn. Nói cách khác, Sau-lơ được chọn bởi Chúa chớ không bởi con người. Đó không phải là điều dễ dàng để hiểu. Ta không thể hiểu tại sao Chúa lại chọn Sau-lơ, một người chẳng có tí quan tâm nào đến chuyện thuộc linh để làm lãnh đạo trên toàn thể dân sự của Chúa.
Ai đời, ‘nhà chàng ở cạnh nhà ông’ như thế, mà Sau-lơ không hề biết gì đến Samuen và công việc của ông ấy cả. Thậm chí, một thằng tiểu đồng còn biết nhiều hơn anh í. Tệ đến nổi, anh xem Samuen cũng giống như mấy ông ‘sờ mu rùa’ đoán vận hay sao í nên mới bảo thằng hầu vét chút tiền còm đặt lễ! Vậy mà Chúa vẫn chọn người này để làm vua.
Có thể bạn đang ‘théc méc’ trong lòng vì sao người này, người kia lại được chọn làm lãnh đạo, hay tay nọ tay kia lại được làm vương làm tướng? Chúa ở đâu, công lý ở đâu? – Yên tâm đi cưng. Chúa đang ở đó chớ đâu.
Khá nhớ rằng, “chẳng có thẩm quyền nào mà không đến từ Đức Chúa Trời; các nhà cầm quyền hiện có đều do Đức Chúa Trời chỉ định” (Roma 13:1). Thẩm quyền hay uy quyền lãnh đạo thì đúng là đến từ Đức Chúa Trời nhưng nhân cách (của người lãnh đạo đó) thì không.
Nhớ nha, kể cả mấy ông ‘trời ơi, đất hỡi’, mấy tay dùng mưu mô, thủ đoạn để chiếm ghế hay mua ghế gì gì đi nữa thì cũng “đều do Đức Chúa Trời chỉ định” cả đấy. Còn tại sao Chúa ‘chỉ định’ mấy ổng, mấy bả phải ngồi vào cái ghế đó thì … hồi sau sẽ rõ. Đừng manh động mà tội chồng thêm tội nghe cưng. He he
Còn một điểm nữa trong phần Kinh Thánh hôm nay cũng hay à nha. Đó là cách Chúa sử dụng hoàn cảnh để dẫn dắt người trong cuộc. Vị vua đầu tiên của Y-sơ-ra-ên được Chúa ‘dẫn’ đến ngôi báu bởi mấy con lừa đi lạc! Chúa tể trị và sắp đặt mọi sự để tỏ cho người được chọn biết được sự kêu gọi của Ngài, cũng như nhận được những xác chứng cho sự kêu gọi đó.
Hãy ngẫm mà xem, có biết bao điều từng xảy ra trong đời ta mà thoạt tiên chẳng khác chi là chuyện ngẫu nhiên, tình cờ. Nhưng giờ đây khi kết quả đã tỏ bày, ai nấy trong chúng ta đều gật gù … “đúng là ý Chúa”.
Thế thì, anh chị em ơi, một lần nữa hãy điểm lại những lần “ngẫu nhiên – thiên định” như thế và dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời vì sự tể trị và sự dẫn dắt lạ lùng của Ngài trên cuộc đời mình từ lúc thiếu thời cho đến tận hôm nay.


Thứ Hai, 16 tháng 3, 2015

SAMUEN, NGƯỜI ĐẦY TỚ TẬN TRUNG

1 Samuen 4-8
Năm chương Kinh Thánh hôm nay đã thêm vài nét nhấn nhá cuối cùng trên bức tranh toàn cảnh của lịch sử Israel vào giai đoạn giao thời giữa thời kỳ Thẩm Phán và thời kỳ Tiền Quân Chủ. Trong ba chương đầu (4-6) thì Hòm Giao Ước là trung tâm của sự chú ý, còn hai chương sau (7-8) thì đề cập đến biến cố dân Israel quyết liệt xin một vua để được giống như thiên hạ.
Như chúng ta đã biết, Hòm Giao Ước là biểu tượng quan trọng về sự hiện diện của Đức Chúa Trời. Nhưng biểu tượng thì không bao giờ là một với đối tượng, với chủ thể mà nó biểu đạt. Do đó, Hòm Giao Ước không bao giờ là Đức Chúa Trời, hay nói cách khác Đức Chúa Trời không bao giờ bị “nhốt” trong Hòm Giao Ước đó.
Người ta có thể khiêng trên vai hay đặt Hòm Giao Ước lên xe kéo để chuyển từ nơi này sang nơi khác, nhưng điều đó không có nghĩa là người ta có thể “điều khiển” hay “bắt cóc” Đức Chúa Trời. Chính vì không hiểu như vậy nên người xưa đã phải nhận trái đắng khi có được (dân Israel) hay chiếm được (quân Philitin) Hòm Giao Ước của Đức Chúa Trời.
Dân Israel đã xem Hòm Giao Ước như một dạng vật linh, một dạng thần tượng, một dạng bùa phép bảo đảm chiến thắng cho mình. Thay vì nhờ cậy nơi chính Đức Chúa Giê-hô-va thì họ lại đặt lòng tin nơi Hòm Giao Ước, một vật dụng mang tính biểu tượng.
Điều này cũng tương tự như ngày hôm nay nhiều con dân Chúa cảm thấy an tâm khi đeo nơi cổ vật trang sức có hình thập tự giá. Số khác thì ngây thơ tin rằng, nếu trong nhà hay trong phòng ngủ của mình có treo thập tự giá thì tà ma sẽ không dám quấy phá. Thậm chí, có người còn … máu hơn khi cầm thập tự giá làm vũ khí để đuổi quỷ nữa kia đấy.
Tất cả những việc đó đều là sai nhè hết đấy anh chị em ơi. Không có quyền phép gì nơi những cây thập tự giá đâu. Dù là bằng gỗ, bằng vàng hay bằng bất cứ một kim loại nào; dù được người ta tự làm hay được mua ngoài chợ hoặc được “thỉnh” từ nhà thờ với lời cầu nguyện của linh mục hay mục sư đi nữa thì tự thân cây (hay hình) thập tự chẳng có tí quyền năng nào cả. Đừng có mà mê tín nha anh chị em.
Hãy check lại chính mình xem còn có “vật thánh” nào mà bạn đặt lòng tin nơi đó như thể là … “bùa hộ mạng”, là “bùa bình an” không nhé. Đó có thể là chiếc thập tự giá, là bức tranh hay tượng thánh (đối với những anh chị em từ gia đình Công Giáo) hay thậm chí là một lọ hoặc ve dầu thánh có nguồn gốc tận bên Israel. Quyền năng thật luôn ở nơi Đức Chúa Trời chớ không phải nơi những vật thánh đó đâu nha. Hãy nghiền ngẫm sự thất bại tơi bời của dân Israel trong chương 4 hôm nay để được thức tỉnh khỏi tình trạng đặt lòng tin nhầm đối tượng – thay vì đặt nơi Đức Chúa Trời thì lại đặt nơi những vật dụng chỉ mang tính biểu tượng về Chúa hay về những công việc của Ngài!
Việc hiểu sai của dân Israel về Hòm Giao Ước khiến họ bị quân thù đánh cho tơi tả, còn việc hiểu sai của quân Philitin lại khiến họ bị Đức Chúa Trời “hành” cho lên bờ xuống huyệt luôn. Cả hai đều đánh đồng Hòm Giao Ước là Chúa. Một bên thì tôn thờ, một bên thì xem thường. Cả hai đều chết như nhau.
Hẵn nhiên, Hòm Giao Ước không phải là Chúa; những cơ sở vật chất, những vật dụng dùng trong việc thờ phượng Chúa không phải là Chúa. Thế nhưng, đừng vì thế mà muốn làm gì làm: muốn thu thì thu, muốn lấy thì lấy, muốn đốt thì đốt, muốn phá thì phá nha.
Biết bao nhiêu người, lớn có nhỏ có, xưa có nay có, Tây có ta có, … hoặc thân bại danh liệt, hoặc phải chết bất đắc kỳ tử, hoặc gia đình liên tục hưởng tai ương, … cũng chỉ vì dám phạm đến những vật thánh trong nhà Chúa hay xúc phạm đến Danh Chúa đấy. Từ xưa đến nay, không có một người nào đốt Kinh Thánh hay đập phá nhà thờ Chúa mà bình an qua đời cả, trừ phi kẻ đó ăn năn sám hối.
Việc dân Israel xin một vua cũng đáng được mổ xẻ nhưng ta sẽ ‘mổ’ ở ngày mai. Còn hôm nay, trong thì giờ còn lại, ta chỉ chú ý nơi một chi tiết liên qua đến phần cuối cuộc đời của vị tiên tri – thẩm phán – tư tế khả kính, người đầy tớ Chúa tận trung là Samuen mà thôi.
“Khi về già, ông Sa-mu-ên cho các con trai mình lãnh đạo và xét xử dân Y-sơ-ra-ên. Người con trưởng tên Giô-ên, và người con thứ tên A-bi-gia; cả hai điều hành việc xét xử tại Bê-e Sê-ba. Nhưng các con không noi gương cha mình; chúng tham tiền, ăn hối lộ và bóp méo công lý. (8: 1-3)
Có hai điều ta có thể chọn để làm đối với sai lầm của người khác: (1) ta có thể học từ đó để … tránh, hoặc (2) ta có thể lập lại chính điều đó.
Lý ra, Samuel có thể tránh được thất bại của thượng tế Hê-li trong việc dạy dỗ và kỷ luật con cái của mình. Vì ông được chứng kiến tận mắt từ khi còn thơ ấu kia mà. Thế nhưng, ông cũng đã lập lại đúng y thất bại của thầy mình là Hê-li.
Nguyên nhân? – Sự xao lãng. Không phải là xao lãng trong chức vụ ngoài xã hội mà là trong chức phận làm cha ở gia đình.
“Sa-mu-ên lãnh đạo xét xử dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi ông qua đời. Mỗi năm, ông đi vòng qua các thành Bê-tên, Ghinh-ganh, Mích-ba, và xét xử dân Y-sơ-ra-ên trong các thành ấy. Rồi ông trở về nhà ở Ra-ma. (17: 15-17).
Chính những chuyến công tác triền miên khắp mọi miền đất nước hàng năm như thế đã chiếm hết thời giờ của tôi tớ Chúa dành cho những đứa con của mình, nhất là khi chúng bước vào độ tuổi vị thành niên. Phải chăng, ông đã dành gần như trọn thời giờ để dạy dỗ con người ta nhưng con của mình thì … ‘phó cho Chúa’ chăng?
Biết bao nhiêu tôi tớ Chúa ngày hôm nay đang phải đau đớn, sầu khổ cách câm nín mỗi ngày vì cái cảnh “cha làm thầy, con đốt sách” này. Trong khi đó, có biết bao nhiêu bậc làm cha làm mẹ khác thì vẫn đang “cháy hết mình”, vẫn đang như con ong chăm chỉ, đạt hết thành công này đến thành công khác, hết lĩnh vực này đến lĩnh vực khác ngoài xã hội nhưng lại không biết rằng, những bất hạnh lớn lao đang hoặc sẽ chờ đợi mình tại gia đình – bất hạnh có tên là những đứa con hư!
Bạn thì sao: con cái của bạn có thuộc nhóm đối tượng ưu tiên phục vụ trong đời sống và trong lịch công tác của bạn không?
Còn một điều nữa liên quan đến … đường con cái. Đó là thay vì tốn thì giờ lên án, phê phán hay chỉ trích con cái của ông nọ bà kia hư thế này đốn thế khác thì ta nên nhìn lại chính mình thì hơn.
Nếu bạn đã có con thì hãy nhìn vào gương của Hê-li, của Samuel mà lo dạy dỗ con mình; còn nếu bạn chưa có gia đình hay chưa có con hoặc con của bạn còn quá bé thì cũng đừng có vội mà ... ‘khoe’ nhé. Nhìn thấy điểm yếu hay sai lầm của người khác hoặc phê phán chỉ trích họ vì điều đó thì dễ lắm, ai làm cũng được. Thế nhưng, để không lập lại sai lầm của họ thì không phải ai cũng làm được đâu nha.
Cần có sự khiêm nhường, cần có cam kết và cần có cả sự vùa giúp thiêng liêng từ nơi Chúa nữa đấy. Bạn có thể là một người cha, người mẹ được như vậy không?


Chủ Nhật, 15 tháng 3, 2015

SAMUEN – NGƯỜI TÔI TỚ TẬN HIẾN

1 Samuen 1-3
Đang thời các quan xét trong Y-sơ-ra-ên không có vua, nên ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải, trừ 2 người là Ru-tơ và Sa-mu-ên!
Có thể gọi Sa-mu-ên là vị quan xét cuối cùng, người được Đức Chúa Trời dấy lên để khép lại giai đoạn đầy hỗn loạn trong lịch sử của Y-sơ-ra-ên. Ông đồng thời cũng là nhà tiên tri vĩ đại, người được biệt riêng để phụng sự Đức Chúa Trời khi vừa thôi bú mẹ.
Sa-mu-ên được nuôi dưỡng trong nhà thượng tế Hê-li, người có hai ông con thay cha hầu việc Trời mà chẳng coi Trời … ra trăm gờ-ram nào cả. Trong một môi trường mà tội lỗi đã xâm nhập đến tận nhà người hầu việc Chúa và tận nơi thờ phượng Chúa, nhưng Sa-mu-ên vẫn cứ ngày càng lớn khôn, không bị vấy bẫn, không hôi mùi bùn, vẫn cứ đẹp lòng Đức Chúa Trời và người ta như thế thì quả là ơn Chúa rồi.
Điều đó cũng một lần nữa minh chứng cho chân lý là một người tin Chúa hoàn toàn có thể sống sạch, theo chuẩn của Chúa, giữa một môi trường bị ô nhiễm, bị băng hoại bởi tội lỗi cách nghiêm trọng. Vấn đề là người đó có MUỐN hay không mà thôi.
Hê-li và hai quý tử của ông cũng là bài học cảnh báo rõ ràng cho những người hầu việc Chúa và con cái những người hầu việc Chúa. Chúa phán: “ai tôn trọng Ta sẽ được Ta tôn trọng, còn ai khinh dể Ta sẽ bị Ta khinh dể” (2:30). Một khi đã bị Trời khinh thì coi như xong đời rồi và thậm chí là còn kéo thêm ‘phiu’ (few) đời nữa, chớ không đơn giản như khi bị Đời khinh đâu nha.
Dù Chúa là Đức Chúa Trời thành tín, tức luôn giữ lời hứa nhưng trong chương 2: 27-36, rõ ràng là Chúa đã hủy bỏ cam kết “trọn đời” với nhà Hê-li.
Vì răng? – Vì họ không tuân thủ cam kết, không vâng giữ lề luật Chúa dành cho họ. Hay diễn ý cho dễ hiểu là vì họ không tuân thủ ‘hiệp đồng’. Rứa đấy.
Nhớ nha anh chị em, không phải cứ đã thành ‘thầy’ rồi thì muốn sống sao cũng được; không phải cứ một khi đã là con dân Chúa rồi thì không còn phải kiêng khem, giè giữ gì nữa đâu nhé. Chết à, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp nghe cưng.
Chính vì không biết hay nỏ cần biết như hai ông con của Hê-li mà ngày nay có nhiều ‘mem’, bề ngoài thì … ‘còn nguyên’, thậm chí còn đính kèm một lô một lốc tước hiệu, bằng cấp, nhưng người bề trong thì đã nhận án tử và ‘đai’ tự lâu … rồi! (Chỗ này nhớ xuống vọng cổ nha. Hic)
Cuối cùng, bài học mà bạn và tôi không được quên trong phần Kinh Thánh hôm nay đó là “Chúa, Đấng đáp lời cầu nguyện của chúng ta”. Không phải vì Anne ra giá kiểu nếu-thì nên Chúa đáp lời cầu nguyện của cô ấy đâu nhé. Không. Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta vì Ngài là Đấng Ban Cho.
Chỉ có điều ta cần phải nhớ là Chúa có thời điểm của Ngài để đáp lời cầu xin của chúng ta. Chúa biết thời điểm nào là TỐT NHẤT để ban cho chúng ta điều chúng ta cầu xin. Và câu trả lời của Chúa không chỉ đơn thuần là đáp ứng nhu cầu hay ước muốn của người xin mà còn là nhằm thực hiện mục đích của Ngài. (Liên quan đến đề tài này anh chị em có thể tham khảo những bài giảng trong vietministry.blogspot.com).
Có những lời cầu nguyện nào của anh chị em thuộc dạng “chưa được phúc đáp” chăng? – Hãy đánh dấu cụm từ “hãy nhớ đến An-ne” bên cạnh đấy và bắt đầu nhắc Chúa cho đến khi anh chị em có thể nhìn thấy ‘nó’ bằng xương, bằng thịt, tức là có thể nhìn thấy nó bằng mắt thường.
Đừng vội bỏ lòng tin cậy Chúa. Khá nhớ rằng, “ai xin thì được” mà ai không xin, hay nghỉ xin thì nỏ được chi mô. Rứa thôi nhé.


Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

ĐẤT TRỜI TƯƠNG PHẢN

Dừng Chân Lần Thứ 9
NHÌN LẠI
Tuần lễ này, chúng ta đã đọc về những vị Thẩm Phán của Israel, những lãnh đạo quân sự đã giải thoát cả dân tộc khỏi ảnh hưởng thâm căn cố đế của tội lỗi. Hơn chục vị đã được xướng danh trong sách Thẩm Phán, nhưng Đê-bô-ra và Ghi-đê-ôn là hai trong số những người tốt nhất.
Nữ tiên tri và nữ nhạc sĩ Đê-bô-ra là công cụ trong việc giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của người Canaan. Còn Ghi-đê-ôn, một anh trai nhút nhát với đủ các kiểu nghi ngờ, thì lãnh đạo một đội quân lạ thường nhất thế giới trong việc hủy diệt quân thù Ma-đi-an mà chẳng tốn một viên đạn hay mũi tên nào!
Chiếc bóng lớn phủ trên phần còn lại của sách Thẩm Phán chính là Sam-sôn, người có một cơ thể khỏe mạnh thôi rồi và đồng thời cũng có một sự yếu đuối thôi rồi về phương diện đạo đức. Được biệt riêng từ trong bụng mẹ để phục vụ Chúa cách đặc biệt nhưng Sam-sôn đã kết liễu đời mình trong thất bại và ô nhục.
Tiềm năng to lớn cùng sự suy đồi đạo đức … ngang ngữa như rứa của anh í phản chiếu tình trạng của một dân tộc, tình trạng băng hoại và đồi bại hoàn toàn được miêu tả trong những chương cuối sách. Đó là thời kỳ mà người ta không còn biết xấu hổ, không còn biết kinh tởm, không biết đau đớn hay tức giận trước những tội ác tày trời và những hành động vô đạo của người xung quanh nữa.
Tuy nhiên, giữa màn đêm tăm tối đó thì câu chuyện của Ru-tơ lại chiếu soi một chiều sâu tươi sáng. Ru-tơ người Mô-áp đã sẵn sàng từ bỏ quê hương để có được đặc ân nhận biết Đức Chúa Trời có một và thật
NHÌN LÊN
Kế hoạch có thể thuộc về con người, nhưng còn kết cuộc ra sao lại là phần của Chúa. Nếu được quyền chọn lựa thì đoan chắc là bạn sẽ không bao giờ chọn tương quan lực lượng như Ghi-đê-ôn đã từng khi Đức Chúa Trời cắt giảm quân số của anh í xuống thấp đến hết cỡ nhằm đem lại sự vinh hiển lớn lao cho Chúa của vạn quân.
Nào hãy cầm lấy bút và ta cùng nhau làm vài phép tính nho nhỏ, theo cách điền vào chỗ trống nhé:
1. Tổng quân số của Ma-đi-an trước khi lâm trận là bao nhiêu? (Theo Thẩm Phán 8: 10 thì có đến 15.000 người còn lại sau khi 120.000 đã bỏ mạng tại sa trường. Như vậy, tổng cộng có _____.000 lính Ma-đi-an trước khi cuộc chiến bắt đầu)
2. Theo Thẩm Phán 7: 3, thì Ghi-đê-ôn còn lại 10.000 quân sau khi 22.000 ‘em’ được giải ngũ đồng loạt vì … quá hốt. Vậy cộng dồn hai con số này lại với nhau, thì anh í đã bắt đầu với ____.000 quân.
3. Điều này có nghĩa là lúc ban đầu, Ghi-đê-ôn đã đối diện với tương quan lực lượng 135.000 : 32.000 hay theo tỉ lệ 4:1. Và Đức Chúa Trời đã nói gì về tỉ lệ này (Thẩm Phán 7:2)?
 …………………………………………………………………………………………………………………………………
4. Sau khi những người yếu bóng vía được giải ngũ, đội quân của Ghi-đê-ôn bị giảm xuống còn ____.000 người. Trong khi đó, quân Ma-đia-an vẫn còn giữ nguyên đội hình là ___.000. Giờ đây, Ghi-đê-ôn đã đối diện với tương quan lực lượng 135.000 : 10.000 hay theo tỉ lệ 13:1. Và Đức Chúa Trời đã nói gì về tỉ lệ này (Thẩm Phán 7:4)?
…..…………………………………………………………………………………………………………………………………
5. Sau bài kiểm tra uống nước, đội quân của Ghi-đê-ôn bị giảm thêm xuống chỉ còn ____ người (Thẩm Phán 7: 7). Trong khi Ma-đia-an vẫn còn giữ nguyên đội hình là ___.000. Điều này có nghĩa là giờ đây, Ghi-đê-ôn phải đối diện với tương quan lực lượng 135.000 : 300 hay theo tỉ lệ 450:1. Và Đức Chúa Trời đã nói gì về tỉ lệ này (Thẩm Phán 7:7)?
…..…………………………………………………………………………………………………………………………………
NHÌN TỚI
Đức Chúa Trời vui thích ban chiến thắng vĩ đại trong những hoàn cảnh mà chắc chắn là thất bại mười mươi. Chúa luôn bảo đảm cho “tỉ lệ chọi”, hoặc hoàn cảnh bất lợi dồn ép dân Ngài đạt đến cực điểm, để rồi khi chiến thắng xảy ra chỉ có một cách giải thích duy nhất: Chúa làm đấy!
Anh chị em có được khích lệ bởi những gì Ghi-đê-ôn đã thực hiện không? Thế nhưng trước khi anh chị em kết luận rằng Ghi-đê-ôn là một trong số ít “siêu thánh nhân” của thời Cựu Ước thì đừng quên lúc câu chuyện bắt đầu, anh í đang trốn trong hầm ép rượu để đập lúa mì vì sợ quân Ma-đi-an đó nha (Thẩm Phán 6: 11-12). Anh í chỉ là một đầy tớ khiêm nhường sẵn sàng thuận phục Đức Chúa Trời, cho dù gặp bất lợi.
Có thể, trong cái nhìn của mình, bạn thấy chẳng có gì tươi sáng nơi sức khỏe, nơi công việc, tình hình tài chính, hay hôn nhân của chính mình chăng? Hãy để cho Đức Chúa Trời có cơ hội bày tỏ quyền năng của Ngài, rồi bạn sẽ thấy được “điểm bất lợi” của mình hóa ra là LỢI chớ không phải là HẠI như mình vẫn tưởng đâu.


Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2015

TÌNH SỬ RU-TƠ

Ru-tơ 1-4 
Ngày hôm qua, chúng ta đã đọc 5 chương tăm tối nhất của cả Kinh Thánh, còn hôm nay chúng ta đọc được 4 chương tươi sáng nhất. Điểm đặc biệt cần ghi nhớ là cả hai phần tối sáng này đều xảy ra trong cùng một thời gian: thời các quan xét của Y-sơ-ra-ên!
Điều này minh chứng cho một chân lý rằng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, nếu muốn, thì người theo Chúa vẫn có thể sống một đời tin kính. Đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh, đừng lấy cách ứng xử của người quanh ta để biện minh cho lối sống bất kính, bất minh, bất tín và … vô tín của chính ta. Một anh Lê-vi con dòng cháu giống, nếu muốn, vẫn có thể … sai bét nhè; một cô gái trẻ góa chồng, vốn gốc ngoại bang, nếu muốn vẫn có thể giữ tròn tiết hạnh theo như lề luật Chúa.
Sách Ru-tơ khắc họa câu chuyện tình lịch sử, lòng tin kính và việc chuộc lại sản nghiệp trong bối cảnh đen tối thời các quan xét.
Đây là một câu chuyện có thật về một thiếu phụ người Mô-áp, người đã tình nguyện lìa bỏ di sản ngoại giáo của mình để gắn bó với dân Y-sơ-ra-ên và Đức Chúa Trời của người Y-sơ-ra-ên. Bởi lòng trung tín của cô trong thời kỳ bội tín của tuyển dân, Đức Chúa Trời đã ban thưởng cho Ru-tơ một người chồng mới (Bô-ô), một đứa con trai (Ô-bết) và một danh phận trong gia phả của Đấng Christ.
Hãy nghĩ đến những quyết định khó khăn của Ru-tơ: ở lại quê nhà Mô-áp, nơi được yêu thương và có người quen biết hay chuyển đến đất Y-sơ-ra-ên, nơi chẳng có ai thương và chẳng ai biết đến mình; bắt đầu một gia đình mới ở cố hương hay sống cùng bà mẹ chồng già góa bụa; thờ phượng những vị thần quen thuộc của tổ tiên hay thờ phượng Giê-hô-va, chân thần của dân Y-sơ-ra-ên.
Đang khi bền lòng bước đi với Chúa giữa một dân tộc lìa bỏ Chúa, Ru-tơ trực tiếp học biết được rằng, Đức Chúa Trời ban thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.
“Không có đức tin thì không thể nào làm hài lòng Đức Chúa Trời; vì người nào đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng Ngài thực hữu, và Ngài là Đấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài” (Hê-bơ-rơ 11: 6)
ACE có thực sự tin rằng, Chúa là Đấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài không?
Trong bối cảnh văn hóa thời bấy giờ, người thiếu phụ trẻ Ru-tơ phải đối diện với 3 điều bất lợi: không con – không chồng và không có quốc tịch Y-sơ-ra-ên. Thế nhưng, câu chuyện này bày tỏ thế nào Đức Chúa Trời đã giúp đỡ ‘người ngoài cuộc’ đó, đem cô vào ‘trong cuộc’ và cứu cô khỏi cảnh nghèo và phận bị từ chối. Nếu bạn đã từng cảm thấy mình là ‘người ngoài cuộc’, đã từng tranh đấu để trở thành ‘trong cuộc’ thì hãy tìm thấy hy vọng nơi sách này về một Đức Chúa Trời, Đấng muốn cho những ‘người ngoài cuộc’ đén cùng Ngài để được giúp đỡ.
Sách Ru-tơ là câu chuyện tình yêu sâu sắc mà bạn không thể dừng lại giữa chừng. Đó không chỉ là thiên tình sử giữa ông và em (vì chàng Bô-ô chắc cũng đã kha khá tuổi rồi) mà còn là tình mẹ con – mẹ chồng con dâu – hiếm có lúc bấy giờ và ngay cả … bây giờ. Bất kể thể loại gì thì tình yêu thật vẫn luôn cần được trải qua thử thách để làm cho vững mạnh.
Dầu không được nhắc đến cách tỏ tường, có chăng chỉ là những lời oán trách, nhưng sự tể trị của Đức Chúa Trời trong sách này là không thể phủ nhận. Chúa tể trị trên mọi sự để đem Na-ô-mi trở lại quê nhà; Chúa tể trị từ đầu đến cuối để nàng Ru gặp được chàng Bô, rồi từ họ mà ra một vị vua nổi tiếng, vua Đa-vít, và từ dòng dõi quân vương này hai ngàn năm sau đó Đấng Cứu Thế của cả cõi trời đất là Đức Chúa Giê-xu đã mặc lấy xác phàm nhân mà vào thế gian.
CHUỘC, CHUỘC LẠI hay CỨU CHUỘC là ý tưởng chủ đạo bàng bạc trong sách lịch sử này. Ru-tơ được biến đổi từ nghèo sang giàu, từ góa phụ sang mệnh phụ, từ không con đến có con, từ dân ngoại thành tuyển dân của Đức Chúa Trời.
Ngoài ra, Bô-ô người bà con có quyền chuộc sản nghiệp, người đã đem lại cho Ru-tơ và người mẹ chồng góa bụa của cô một đời sống mới cũng là một nhân vật chính với những tính cách đáng học hỏi.
Hãy dành thời giờ suy gẫm và tự rút tỉa thêm cho chính mình những bài học bổ ích từ “Tình Sử Ru-tơ” hay “Chuyện Tình Người Thiếu Nữ Tên … Ru”!

Thứ Năm, 12 tháng 3, 2015

SIÊU MẪU XUỐNG CẤP (2)

Thẩm Phán 17-21 
Như đã nói ở phần trước, 3 chương cuối cùng của sách Thẩm Phán là chân dung của siêu mẫu thứ hai: “Lộn Tùng Phèo … Tôn Ti Trật Tự”. Và nhân vật chính trong hình hài của “siêu mẫu xuống cấp” này cũng là một anh chàng Lê-vi, một vị tư tế, tức một người hầu việc Chúa thời bấy giờ.
Trong xã hội Y-sơ-ra-ên ngày đó, người Lê-vi là một thành phần đặt biệt. Họ là ‘hàng tuyển’, thuộc riêng về Đức Chúa Trời. Họ là thành phần tri thức, là tinh hoa của dân tộc. Thế cho nên có thể nói mà không sợ sai rằng, “hễ Lê-vi còn thì Y-sơ-ra-ên còn, mà Lê-vi nát thì Y-sơ-ra-ên sẽ nát”.
Anh Lê-vi trong chương 19 cũng bỏ chốn thị thành, “theo ý mình cho là phải” tìm về một vùng sơn cước heo hút, để sống cùng cô vợ bé. Rồi cô này lại đi cặp với một anh khác, chán, bỏ luôn chàng Lê về nhà cha ruột để được tự do. Luật pháp thời bây giờ mất hiệu lực rồi phải không ta. Mà nếu đem ra xử thì xử ai trước đây.
Không biết cô ta đẹp hay hấp dẫn cỡ nào mà anh Lê nhà ta, người thông làu kinh luật, lại dễ dàng bỏ qua tội trạng của ả, khi lặn lội đến tận nơi năn nỉ ỉ ôi để mong được nàng vui lòng ‘ru lại câu hò’. Không biết, ‘thằng’ chả thương cô ả đến chừng nào, nhưng khi bị đám đàn ông ở Ghi-bê-a đòi được ‘yêu’ tha thiết là chả đẩy ả ra thế mạng liền.
Vợ bị hiếp suốt đêm mà anh ta ngủ ngon được tới sáng; thấy vợ chết ngất như thế mà vẫn bình thản như không, rồi về đến nhà lấy dao cắt đứt thân thể cô ấy ra mười hai mảnh như giết thịt một con thú thì đúng là … máu lạnh quá xá cỡ, mất hết nhân tính rồi.
Anh ta lại còn thêm mắm, giậm muối khi làm chứng lại sự kiện ghê tởm xảy ra với mình tại Ghi-bê-a. Lời chứng dối của ‘thầy’ đã khuấy động được cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn có một không hai. Suy thoái đạo đức đến thế là cùng.
Khi không còn sống theo đường lối Chúa, không còn nghiêm giữ lề luật Chúa, lại “cứ làm theo ý mình cho là phải” thì một người hầu việc Chúa có thể phạm đủ mọi sự gian ác, thậm chí có những việc ác mà người bình thường còn chưa dám làm. Một khi mà lòng kính sợ Chúa không còn thì người ta không còn sợ bất cứ điều gì nữa để lặn ngụp trong tội lỗi cả.
Là người Lê-vi không có nghĩa là được miễn nhiễm tội lỗi, không có nghĩa là không thể phạm tội đâu nhé. Hình ảnh người Lê-vi trong năm chương Kinh Thánh hôm nay và những lãnh đạo Cơ-đốc lớn bé liên tiếp ngã đánh oạch trong suốt dòng lịch sử, mà đặc biệt trong những năm gần đây, là những tiếng kèn (chớ hổng phải còi) cảnh báo cho những người còn đang thi hành thánh vụ. Thế thì “ai tưởng mình đứng, hãy giữ kẻo ngã” đó nha (1 Corinhto 10: 12)
Trong phần Siêu Mẫu Xuống Cấp thứ 2 này cũng còn có một số bài học khác nữa mà ta không thể bỏ qua.
Trước hết, đó là việc chỉ tiếp nhận thông tin một chiều và thường là thông tin được nhào nặn có chủ ý để phát động chiến tranh (20:1-11). Biết bao nhiêu cuộc chiến tranh – từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây và hiện đang băm vằm tan nát miền Đông Ukraine – đều được kích hoạt bởi những ‘lời tố cáo tội ác’ kiểu chàng Lê. Biết bao cảnh ‘tan đàn, xẻ nghé’ trong nhiều Giáo hội, Hệ Phái, Hội thánh cũng khởi đầu bằng việc hội đồng trưởng lão hay Ban Lãnh Đạo nghe theo lời tố cáo của chỉ một thầy Lê nào đấy, mà không chịu bình tỉnh làm theo nguyên tắc của Thánh Kinh (Mathiơ 18:15-20).
Bài học tiếp theo là việc bao che tội lỗi trong cộng đồng dân Chúa. Tức là, không dám thi hành kỷ luật đối với những kẻ thật sự phạm tội. Dân Ghi-bê-a đã không vâng theo mạng lịnh Chúa loại bỏ kẻ phạm tội dâm loạn, khởi đầu là đồng tính dâm tập thể, mà còn đứng ra bao che, chống lại những người anh em cốt nhục Y-sơ-ra-ên của mình.
Núp dưới chiêu bài yêu thương, không để kẻ xấu lợi dụng, ngày nay tội lỗi hay sai phạm của con dân Chúa và đặt biệt là của người hầu việc Chúa và người thân của họ thường được ‘xử lý nội bộ’, mà thật ra là không xử lý gì cả. Kết quả là gì? – Kẻ bao che cũng sẽ chết chung với kẻ phạm tội. Luật Trời là vậy đó. Sớm hay muộn thì chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.
Cuối cùng, nhìn cái cảnh đại hội đồng, đại hội đại biểu toàn quốc của dân Y-sơ-ra-ên sau trận huyết chiến huynh đệ tương tàn với những nghị quyết, biên bản nhằm khắc phục hậu quả (nhưng không chịu nhìn nhận sai lầm) mới thấy được lòng người hư hoại là dường nào. Thôi thì đủ loại ngôn từ, thuật ngữ được ‘vận dụng một cách sáng tạo’ nhằm ‘lách luật’, và … lánh luật (Chương 21).
Nhưng than ôi, xác thịt thì dù có cố gắng cỡ nào, khôn ngoan hay tinh ranh cỡ nào thì cũng chỉ có thể đem lại sự hủy hoại mà thôi (Galati 6:8). Giá như, đại hội đại biểu toàn quốc hôm đó mà toàn quan, toàn quân, toàn dân Y-sơ-ra-ên chỉ làm một việc là hạ lòng ăn năn tội lỗi của mình trước mặt Chúa thì sự phục hưng thật sự sẽ đến trên toàn xứ sở, chớ không phải giải quyết trí trá hậu quả bằng trò ‘hiếp đáp’ và ‘cướp giựt … có văn hóa’ trơ trẽn, sống sượng như thế.
Tại sao một dân tộc được Chúa chọn mà lại trở nên đổ đốn, hư hoại đến như vậy, hư hoại từ những người hầu việc Chúa hư đi? – Ấy là vì “trong thời đó, Y-sơ-ra-ên không có vua, ai nấy cứ làm theo ý mình cho là phải” (17: 6).
Điều này không có nghĩa là vì dân Y-sơ-ra-ên không có vua như các dân tộc khác nên mới ra nông nỗi như thế. Họ vốn là dân tộc “không có vua” cơ mà. Câu Kinh Thánh này phải hiểu sâu hơn ri nè: “một khi mà dân Chúa không còn tôn Chúa là vua trong đời sống của họ, và họ tự xưng mình là vua” thì kết cuộc thảm hại là điều chăc chắn sẽ xảy ra.
Nguyên tắc này luôn có hiệu lực, cho người xưa và cho cả người nay, tức cho bạn và cho tôi.


SIÊU MẪU XUỐNG CẤP (1)

Thẩm Phán 17-21
Sách Thẩm Phán kết thúc với hai hình mẫu cụ thể của tình trạng suy đồi cùng cực trong xã hội Y-sơ-ra-ên thời bấy giờ. Chương 17 và chương 18 là chân dung của siêu mẫu một: “Tả Pí Lù Tôn Giáo” còn 3 chương cuối cùng là chân dung của siêu mẫu hai: “Lộn Tùng Phèo … Tôn Ti Trật Tự”.
Răng mà con dân Chúa lại ra nông nỗi ấy? - Ấy là vì“trong thời đó, Y-sơ-ra-ên không có vua, ai nấy cứ làm theo ý mình cho là phải” (17: 6)
Vì cho là đúng nên mẹ con nhà nọ đã tự lập cho mình một tôn giáo, cũng đầy đủ hình tượng, bệ thờ, ê-phót, và ‘các phụ kiện đính kèm’. Đảm bảo hàng xịn nhé, bạc nguyên chất đấy. Chỉ riêng cái tượng thôi thì giá trị đã là 20 năm tiền lương của một anh thầy tế lễ rồi (17:10). Ngạc nhiên chưa. Rồi cũng có thầy tế đàng hoàng, dù là tự chỉ định hay thuê mướn. Nói chung là đầy đủ ban bệ, mâm bát. Rất là hoành tráng, đúng không? Chỉ có điều, mọi sự đó đều do con người mà ra chớ không theo “kiểu mẫu mà Chúa đã chỉ cho”.
Đó là loại tôn giáo hoàn toàn bắt nguồn từ con người và lấy con người làm trung tâm. Do đó, mục đích của tượng thờ, ê-phót, những thần tượng be bé, xinh xinh đều nhằm phục vụ và làm thỏa mãn con người chớ không phải nhằm phục vụ và làm thỏa mãn CHÚA.
Đạo mà làm cho con người khoái chí dạng này là kiểu mẫu chung cho rất nhiều tôn giáo và nhiều Hội Thánh hay Giáo Hội ngày hôm nay.
Không cần biết đúng sai gì cả, không cần tra xem Kinh Thánh hay tra xem ý Chúa được thể hiện nơi Lời thành văn của Ngài gì cả, hễ cứ chọn được ông thầy tế, cứ kiếm được ông lãnh đạo là cả nhà liền hoan hỉ, cao giọng ngay: “Bây giờ tôi biết Đức Giê-hô-va sẽ ban ơn cho tôi, vì tôi có người Lê-vi nầy làm thầy tế lễ.” (17:13). An tâm rồi. Một sự an tâm giả tạo được đặt trên sự thánh hiến giả tạo. Cả hai đều đặt nền tảng trên sự mê tín hay cuồng tín chớ không phải trên Lời của Đức Chúa Trời.
Đó là việc làm “cho là phải” của mẹ con nhà Mica, còn đối với anh trai Lê-vi kia thì việc “cho là phải” là tự ý lìa khỏi thành phố mà Chúa đã định cho thầy tế lễ sống và phục vụ. Đã là Lê dân thì không có quyền lìa khỏi chỗ mà Trời đã định. Đó là luật. Thế mà anh giai này thì “đang tìm một chỗ để cư trú” (17:9)
“Đó là quyết định của cá nhân anh ấy. Hãy tôn trọng quyết định của anh ấy. Đó là quyền tự quyết của anh ấy, liên can gì đến ngươi, …”. Nếu anh Lê-vi kia mà sống vào thời nay thì đây sẽ là những comment tấp nập bảo vệ anh í khắp mọi nơi đấy nhỉ. Thế nhưng, đối với Đức Chúa Trời thì chỉ có duy nhất một từ: HỎNG, không thanh minh, thanh nga gì ráo trọi.
Đó là chưa kể chàng Lê-vi này rất dễ thuê nha. Hễ ở đâu có giá cao hơn là em bán mình liền à. Cũng dễ hiểu thôi: với Chúa mà thằng chả còn không trung tín thì chuyện trung thành với con người chỉ là chuyện viễn vông thôi. Tội nghiệp cho gia đình tín đồ Mica khi đặt lòng tin vào ông hầu việc Chúa ‘sớm nắng chiều mưa’ kiểu này. Nghĩ đến cái cảnh gia đinh nhà Mica phải chia tay ngậm ngùi với anh thầy tế lễ hám danh kia, sao mà não nề đến vậy.
Đến lượt chi phái Đan, việc “cho là phải” của họ là đi chiếm lấy những vùng đất không thuộc phần sở hữu của mình. Vùng đất mà họ được chia khó chiếm quá, theo mắt họ, nên họ tự đi chiếm lấy phần đã thuộc về người khác.
Họ cũng nhờ thầy tế lễ cầu hỏi Đức Chúa Trời đàng hoàng trước khi hành sự nha. ‘Đúng quy trình’ quá rồi còn gì. Chỉ có điều họ cầu hỏi Đức Chúa Trời công bình, chí thánh cho một sứ mạng sai trật qua một thầy tế lễ sai quấy. Và rồi những Đan ‘men’ tội phạm này được thầy tế lễ phạm tội sai đi với lời chúc phước của Chúa: “Hãy đi bình an. Đức Giê-hô-va sẽ phù hộ các ông trong hành trình nầy.” (18:6) An tâm lên đường rồi nhé. Thầy tế lễ ban phước nhân danh Chúa rồi còn gì.
Chiếm đất người chưa đủ, bộ tộc Đan còn cướp luôn trọn bộ hình tượng của gia đình Mica để thờ. Làm sao mà Mica có thể tưởng tượng được rằng, ‘phát minh’ tôn giáo của mẹ con ông lại có ảnh hưởng lớn lao đến vậy. Từ một gia đình, đến một chi tộc, rồi lôi kéo cả một chi lớn trong dòng tế lễ đến sì sụp vái lạy cho đến ngày tất cả bị bắt đi đày.
Nhớ là họ không bị đập tan tành ngay vừa khi lập đền, phong chức đâu nha. Thời gian phạm tội của họ cũng kéo dài kha khá đấy. Không phải việc sai trật nào cũng được nhận biết ngay, nên người ta rất dễ bị lôi cuốn vào những sự thờ phượng sai trật.
Chuyện xảy ra hàng ngàn năm rồi, từ đời xửa, đời xưa mà đến hôm nay sao vẫn thấy bóng dáng của siêu mẫu này thấp thoáng khắp đất Á, trời Âu. Vâng, một khi mà con dân Chúa ‘tạm gác’ những lẽ thật cùng những nguyên tắc của Lời Chúa sang một bên ; một khi mà con dân Chúa, tôi tớ Chúa “ai nấy cứ làm theo ý mình cho là phải” thì siêu mẫu “tả pí lù tôn giáo” ni còn có đất để trình diễn. 
Khi Chúa đang được thờ phượng tại Si-lô thì chi phái Đan vẫn ‘ăn nên làm ra’ với các hoạt động tôn giáo đầy cuốn hút, đáp ứng đúng thị hiếu và sở thích của tín đồ. Trong tâm thức của mình thì họ vẫn đang thờ phượng Chúa và thậm chí Chúa mà họ đang thờ và kiểu mà họ đang thờ mới thật sự là ‘chính chủ’, là ‘chánh giáo’. Họ cứ thành tâm, sùng đạo như thế cho đến tận ngày “họ bị lưu đày khỏi xứ”, cho đến tận ngày Chúa “cất chân đèn” khỏi họ thì họ mới chợt tỉnh cơn mê.
Nhưng tỉnh khi đó thì đã muộn rồi.