Thứ Bảy, 21 tháng 2, 2015

SA MẠC … LUẬN

Dừng Chân Lần Thứ 7
Dừng chân. Nghỉ tại chỗ. Nghỉ!
Vâng cứ ‘đi bộ’ đúng 6 ngày thì ta lại nghỉ một ngày, ‘y theo luật định’.
Trong ngày nghỉ … đọc (Kinh Thánh) này, ta có dịp xả hơi để viết thu hoạch hay nhật ký hành trình, hoặc để suy gẫm về một tuần lễ bộ hành đã qua từ chuyện trong sách (Kinh Thánh) đến chuyện ngoài đời, từ chuyện ngày xưa sang chuyện ngày nay, từ chuyện của người mà ngẫm đến chuyện của ta.
Đọc không đơn thuần là nhằm tăng thêm kiến thức mà là để thay đổi chính mình. Thay đổi cho hợp với chuẩn của Trời, thay đổi để ngày càng trở nên giống Đức Chúa Giê-xu hơn.
Như ánh sáng mặt trời vẫn còn nguyên giá trị cho sự sống của con người thể nào, dù nó vốn có từ xa xưa trong buổi đầu sáng tạo, thì Lời Chúa – cả phần Cựu Ước lẫn phần Tân Ước – chẳng những không hề lỗi thời, mà còn luôn thích hợp và có giá trị sống còn đối với mỗi một chúng ta. Do đó, mỗi khi đọc Lời Chúa, anh chị em không cần và không nên mang những cặp kính thần học hay truyền thống của giáo phái làm gì.
Hãy mở Kinh Thánh ra và cầu hỏi Chúa: “con có thể học được điều gì trong phần Kinh Thánh hôm nay?”, và “con cần phải áp dụng điều gì từ phần Kinh Thánh hôm nay vào trong thực tiễn đời sống hàng ngày của con?” Ghi lại tất cả những gì mình học được, rồi cố gắng làm theo những điều đó. Rứa thôi. Đảm bảo: đời bạn sẽ thay đổi cách ngoạn mục luôn.
NHÌN LẠI
Thế là chúng ta đã vượt qua Dân Số ký cách xuất sắc. Nói đến Dân Số là ta nghĩ ngay đến những … con số, những con người nổi bật. Mà đúng thế thật, toàn số là số, người là người.
(Lẽ ra, tên của Trạm Dừng Chân lần này là: Trường ‘Ca’ Sa Mạc, tức là sẽ nhấn mạnh đến chuyện ca cẩm hay kêu ca suốt đời của mấy ông con Trời Y-sơ-ra-ên năm nảo, năm nao. Nhưng thôi.  ‘Nghĩa tử là nghĩa tận’, mấy ổng mấy bả đều đã … xương trắng miền sa mạc hết rồi nên ‘xỉa xói’ nữa mà chi. Thế cho nên, mới đổi thành Sa Mạc Luận, là nhằm rút ra những bài học cho tất cả chúng ta, đám hậu bối soi chung).
Sau lần tổng điều tra dân số lần thứ nhất với mục đích xác định tiềm lực quân sự, Chúa chỉ thị cho Môi-se tiến hành thanh tẩy và thánh hiến toàn dân tộc để thờ phượng và chiến trận. Ngay sau lần đặc biệt kỷ niệm lễ Vượt Qua tại chân núi Sinai, dân sự bắt đầu cuộc lưu hành với hào khí ngất trời. Thế nhưng, ngày vui ngắn chẳng tày gang, loạn nghịch bộc phát ngay tại sa mạc Pha-ran và kết cuộc là 40 … “năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mõi mệt”.
Dù giữa sự chết chóc và nản lòng, nhưng ân điển của Thiên Chúa vẫn hiển lộ qua việc cung ứng nước uống và ma-na. Rồi con rắn bằng đồng chính là liệu pháp cứu sinh của Chúa trước mọi nọc độc của loài rắn lửa sa mạc. Và con lừa bổng dưng biết nói tiếng người đã phơi bày cố gắng điên rồ của Balaam trong việc rủa sả dân sự Chúa. Chúa tể trị mọi sự trong việc bảo vệ dân được chọn – nhưng còn hết sức ngang bướng – của Ngài.
Rồi lần kiểm tra dân số lần thứ hai, cách 40 năm sau cho thấy rằng, sự ‘mất trắng’ cả một thế hệ vì tội vô tín, ‘bất tuân thiên lệnh’ đã không tiêu diệt hoàn toàn một dân tộc. Ngược lại, quá khứ đau buồn đó đã giúp cho thế hệ mới học được từ sai lầm của thế hệ cha ông. “Những điều này đã xảy ra cho họ như là một bài học và cũng được ghi chép lại để làm gương cảnh cáo chúng ta, là những người đang sống vào thời đại cuối cùng này. Thế thì, ai tưởng mình đứng vững, hãy cẩn thận kẻo ngã” (1 Corinhto 10: 11-12).
Bạn có biết rằng, mỗi một chúng ta đều được kể là ‘thế hệ mới’ so với dân Chúa ngày xưa không? Và rằng, phần lớn những người không chú ý đến những chướng ngại vật thì cũng chẳng đi được tới đâu trên con đường của họ cả?
NHÌN LÊN
Chúng ta không thể từ núi Sinai vào đất Hứa mà không đi qua sa mạc. Vấn đề không nằm ở chỗ con dân Y-sơ-ra-ên sẽ phải băng qua sa mạc hay không mà là họ sẽ đóng trại trong đó bao lâu. Hành trình lẽ ra chỉ có 11 ngày đã trở nên cơn ác mộng dài 40 năm! Sự bất tiện, vất vả lẽ ra chỉ ngắn hạn đã trở thành tình trạng ‘kinh niên’ dài trọn một thế hệ. Lẽ ra chỉ có chút ít bỏng giộp và cháy rát thì kết cuộc là 1,2 triệu người phải bỏ mạng trong sa mạc.
Sa mạc thì chẳng có gì thú vị ở đó, trừ những sa mạc trên tấm bưu thiếp! Sa mạc khiến người ta nghĩ đến khô hạn, cằn cỗi, không có sự sống và những điều bất lợi. Bạn sẽ cảm thấy khát nước trong sa mạc và muốn tìm cho mình một chỗ để nghỉ ngơi và phục hồi sức lực.
Thế nhưng, khi tiếp tục bộ hành mỗi ngày xuyên Kinh Thánh, bạn sẽ khám phá ra một điều vô cùng thú vị: Nhiều tôi tớ được chọn của Chúa đã có những thời điểm sống trong sa mạc đấy. Môi-se đã từng, 40 năm, chính xác luôn. Đa-vít cũng đã từng, rồi Giăng Báp-tít, rồi Phao-lô, và Đức Chúa Giê-xu của chúng ta cũng đã từng chịu cám dỗ 40 ngày đêm trong vùng hoang mạc khô cằn gần Biển Chết.
NHÌN TỚI
Khí hậu trong sa mạc cũng mang lại đôi điều thú vị đối với cỏ cây nơi ấy: Nó khiến cho bộ rễ của cây đâm thật sâu vào bên dưới để tìm hơi ẩm nhằm duy trì sự sống. Và kết quả là cây trở nên dẻo dai, vững chắc trước những cơn bão lớn.
Điều này cũng đúng đối với những người nam, người nữ của Đức Chúa Trời, những người đang đối diện với luồng gió nóng từ sa mạc cuộc đời. Những giai đoạn khô hạn, không kết quả trong đời sống chúng ta, thật ra là được dùng để chuẩn bị chúng ta cho những ngày thành công, bội thu còn đang ở phía trước. Những thời kỳ sa mạc khô hạn chắc chắn sẽ đến, hãy chào đón chúng. Song, đừng để cho sự nóng bức của chúng khiến bạn trở nên cay đắng và bất phục đối với Đức Chúa Trời. Vì “kiên nhẫn có hoàn tất công việc thì anh chị em mới trưởng thành, toàn vẹn, không thiếu sót gì” (Gia-cơ 1:4).
Bi kịch của sách Dân Số ký không phải là việc dân Chúa phải đi ngang qua sa mạc mà là họ cắm trại trong đó quá lâu bởi tội chẳng vâng lời. Còn bạn, những ngày này, bạn đang đóng trại ở đâu?


Thứ Sáu, 20 tháng 2, 2015

MỘT THUỞ LANG THANG

Phục Truyền 1:1 - 4:43 
Đây không phải là “lang thang” viếng cảnh hay rong chơi trong những ngày đầu Xuân, mà là việc ôn lại những tháng ngày gian khó đã qua của dân Y-sơ-ra-ên trước khi vào xứ Hứa. Hãy dành thì giờ quý báu trong ngày thứ 2 của Tết Cỗ Truyền mà “ôn cố tri tân” qua phần Kinh Thánh hôm nay, trước khi ra khỏi nhà du Xuân nha anh chị em.
Hôm nay chúng ta bắt đầu tiến vào sách thứ năm của Kinh Thánh, sách Phục Truyền hay Phục Truyền Luật Lệ ký, tức là sách cuối cùng trong 5 sách đầu tiên, được gọi là Ngũ Kinh Môi-se. Trong bản dịch, Công Giáo sách này có tên là Đệ Nhị Luật, giống như trong tiếng Hy lạp (Deuterosnomos). Theo đó, deuteros là lần thứ hai, còn nomos là luật pháp.
Thế nhưng, sách Phục Truyền Luật Lệ Ký không phải là rao truyền một luật lệ mới, nhưng là một sự giải thích, truyền lại luật lệ đã có. Lý do là vì những người thế hệ cũ đã qua đời trong hành trình 40 năm, thế hệ mới nầy sắp vào Đất Hứa cần biết rõ luật lệ của Chúa dạy họ.
Tuy được chia thành 34 chương nhưng sách Phục Truyền thật ra chỉ là 3 bài giảng của Môi-se cho dân Y-sơ-ra-ên thuộc thế hệ mới tại đồng bằng Mô-áp mà thôi. Nếu xem Lê-vi ký là phần lý thuyết, còn Dân số ký là phần thực hành, thì dân Y-sơ-ra-ên đã ‘pheo’ (fail) thẳng cẳng trong kỳ thi cuối khóa rồi.
Mà đã rớt thì răng? – Phải ôn bài lại thôi. Phục Truyền chính là khóa ôn thi lại đó.
Bài học đầu tiên trong phần Kinh Thánh hôm nay là chính từ nơi Môi-se: Tiếp tục rao giảng Lời Chúa cho thế hệ mới. Đó là cách chuẩn bị cho Chúa một thế hệ tin kính. Chính thế hệ trẻ này mới là những người chiếm xứ. Chính họ mới là những người sẽ hoàn thành đại nghiệp, và làm tròn mộng ước của bao thế hệ cha anh.
Nhưng ai sẽ là người giúp họ tránh được vết xe đổ của những người đi trước? – Môi-se.
Trước khi dạy cho thế hệ mới biết được bí quyết thành công trong đời, Môi-se đã không ngần ngại kể ra những sai phạm của thế hệ đi trước và ngay của cả chính ông. Thử hỏi có bao nhiêu người lãnh đạo ngày nay dám làm chứng về những sai phạm, thất bại của mình trong quá khứ; bao nhiêu người lãnh đạo có đủ dũng khí như Môi-se để tự nhìn nhận (chớ không phải bị buộc phải nhìn nhận) rằng mình đã sai lầm.
Hẳn nhiên, lịch sử luôn có thành công và thất bại nhưng mỗi khi nói đến ‘bài học lịch sử’ thì người ta luôn có ý nhấn mạnh đến những bài học thất bại. Thế cho nên, nếu chúng ta không để ý đến những sai lầm của người đi trước là chúng ta đã bỏ qua một khóa học vô cùng quý báu nhưng hoàn toàn miễn phí.
Môi-se đã dành trọn 2 tháng cuối đời để ‘kèm’ thế hệ trẻ, để ‘định hướng’ cho họ, để ‘thu hút’ họ trở lại với Chúa và Lời của Ngài, còn những Môi-se thời nay thì sao? Anh chị em có nhìn thấy một thế hệ con dân Chúa, kể cả con em của những người hầu việc Chúa đang quờ quạng, mất định hướng không? Anh chị em có nhìn thấy một thế hệ Cơ-đốc nhân trẻ đang bị phó mặc cho các triết lý sống đời này, hay cho những giáo sư giả, đội lốt chiên, nhan nhản trên mạng, tha hồ dẫn dụ lìa xa lẽ thật của Lời Chúa không?
Hãy khẩn thiết cầu xin Chúa dấy lên những Môi-se đích thực cho hội thánh Chúa nói chung và cho chính hội thánh, nơi bạn đang sinh hoạt nói riêng.
Sau khi, điểm lại những bài học lịch sử, diễn giả Môi-se đưa hội chúng của mình đến phần áp dụng của bài giảng. “Bà con ơi, cốt lõi của vấn đề chỉ có chừng ni: đừng bao giờ, đừng bao giờ, và … đừng bao giờ lìa bỏ Chúa và Lời của Chúa. Rứa thôi!”
Muốn sống, đúng không? – Hãy thủy chung với Đức Chúa Trời của mình (4:4).
Muốn giỏi hơn, muốn khôn hơn thiên hạ phải không? – Hãy giữ gìn và thực hành Lời Chúa (4:6).
Nói cách khác, bí quyết sống, nghệ thuật sống hay phong cách sống của con dân Chúa, thời nào cũng vậy, luôn gắn liền với hai thực thể vô hình và hằng hữu: chính Đức Chúa Trời và Lời của Ngài. Mà hai thực thể vô hình và hằng hữu này chính là nền tảng, là cơ sở của đức tin chúng ta đấy.
Cả sách Phục Truyền, dù có ‘hướng lui, hướng nội, hay hướng … thượng’ kiểu gì đi nữa thì cũng chỉ xoay quanh hai thực thể đó mà thôi. Và đặc biệt là trong phần cuối của bài giảng thứ nhất này, Môi-se nhấn mạnh đến Đại Giới Răn: Cấm Thờ Hình Tượng.
“Anh em phải thận trọng và canh giữ cẩn mật linh hồn mình vì anh em không thấy một hình dạng nào trong ngày Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán với anh em từ giữa đám lửa tại Hô-rếp. Vì thế, anh em đừng hành động một cách bại hoại khi chạm cho mình một hình tượng mang hình ảnh của bất cứ hình dạng nào giống như người nam hay người nữ, hoặc hình của thú vật dưới đất, hoặc hình của chim chóc trên trời, hoặc hình côn trùng bò trên mặt đất, hay là hình cá lội trong nước sâu. Khi anh em ngước mắt lên trời thấy mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, toàn thể thiên binh thì đừng để bị lôi cuốn mà quỳ lạy hay phụng thờ chúng, vì đó chỉ là những vật mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã phân chia cho mọi dân thiên hạ”  (4:15-19)
Đọc thật kỹ thì sẽ hiểu ý Môi-se muốn nói.
Ri nè: “hôm trên núi Sinai í, mọi người rõ ràng là nghe được tiếng Chúa phán, đúng không? Thế nhưng có ai trong chúng ta thấy được hình dạng của Chúa ra sao không? Không chớ gì.
Thế thì đừng có dại dột mà đục, mà đẽo, mà đúc tượng Chúa nhé. Chúa không giống trăng, không giống sao, không giống chim, không giống cá, không giống bọ, không giống thú, và cũng chẳng giống người. Đừng nhé. Mất mạng à con.
Lo mà ăn ăn sám hối đi, ở đó mà khấn, mà nguyện trước tượng Chúa, tượng Mẹ, tượng Thánh.
Trong chuyện thờ tà nầy còn một điểm nữa cần phải cảnh tỉnh chúng ta: thờ lạy thiên sứ, tức thiên thần. Người không có Chúa thì hay cúng sao giải hạn, còn người theo Chúa (Công Giáo) thì có nơi lập thiên sứ làm thần bổn mạng. Và hiện nay, ‘một bộ phận không nhỏ’ con dân Chúa, cả Tin Lành lẫn Công Giáo, rất chi là hào hứng với đề tài thiên sứ, thiếu điều cầu nguyện với thiên sứ luôn.
Hỡi anh chị em, xin vui lòng trở lại với Lời của Chúa để không rơi vào tình trạng hết thuốc chữa nha. Khá nhớ rằng, hầu hết mấy vị giáo chủ tà giáo có ‘số má’ như Mạc-môn, Chứng Nhân Giê-hô-va, … vốn là những người hầu việc Chúa nhưng đã … ‘chơi cầu tuột’ sau những cuộc gặp gỡ với những thiên sứ sáng láng đấy nhé.
Không chỗ nào trong Kinh Thánh dạy chúng ta cầu nguyện với thiên sứ, cũng không nơi nào trong Kinh Thánh dạy chúng ta xin Chúa cho thiên sứ tiếp viện, lại cũng không dạy chúng ta truyền lịnh cho thiên sứ phải làm việc này, việc kia à nha.
Đừng bao giờ quên rằng, “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em là một đám lửa thiêu đốt và là Đức Chúa Trời kỵ tà” (4:24)
Nhớ nhé. Bảo trọng, bảo trọng, hỡi anh chị em.


Thứ Năm, 19 tháng 2, 2015

PHÚC PHẦN NƠI ĐẤT HỨA

Dân Số Ký 34-36
Mùng Một Tết mà đề cập đến Phúc hay Phước là quá hợp thời, hợp cảnh rồi. Phúc ở đây không phải là lời chúc đầu năm – tức là điều ước của khách đến thăm nhà nhân dịp Xuân về – mà là “số phần”, là “thiên mệnh”, là “cơ nghiệp thiên thượng” Chúa đã ấn định, đã dành sẵn cho con dân của Ngài rồi. Nhớ nha.
Nếu phải chọn một từ để kết nối những vấn đề khác nhau được đề cập trong ba chương cuối cùng của sách Dân Số ký liên quan đến xứ Hứa, thì đó là từ ĐẶC BIỆT. Những ranh giới hay địa giới đặc biệt, những thành phố đặc biệt và những vấn đề thừa kế đặc biệt.
Trước hết, chúng ta phải thấy rằng, Đức Chúa Trời là Đấng ‘hoạch định biên giới’ cho mỗi quốc gia! Không chỉ cho dân Y-sơ-ra-ên của Chúa thôi đâu nha, mà còn cho cả muôn dân trên đất nữa đấy. “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, tức là “rành rành định phận tại sách trời” mà lị.
Không chỉ phân chia lãnh thổ mà Chúa còn ấn định thời gian sống trên lãnh thổ đó cho từng dân tộc nữa kia đấy (Công vụ 17: 26).
Dù là một hoàng tử Ai-cập, nhưng với kiến thức tự nhiên của mình, Môi-se cũng không thể nào biết được từng địa danh cụ thể như vậy của một vùng đất mà ông chưa từng đặt chân đến. Câu trả lời chỉ có một: Đó là sự bày tỏ siêu nhiên từ Chúa.
Ranh giới Chúa định rất rõ ràng. Bắt đầu từ phía Nam, theo chiều kim đồng hồ lần lượt là Tây, rồi Bắc và kết thúc là biên giới phía Đông. Tuy nhiên, đây sẽ là một lãnh thổ mở rộng, một dạng biên giới mở. Điểm đặc biệt là ở chỗ đó.
Nói như Reinhard Bonnke, nhà truyền giảng phúc âm nổi tiếng người Đức, thì ranh giới này “có thể lan rộng ra, chạy đến bất kỳ chỗ nào, từ 135 nghìn đến cả triệu mét vuông. Chẳng hạn, khi Đức Chúa Trời phán ‘sông Ê-phơ-rát’ thì vị trí địa lý của nó có thể hướng tới bất kỳ điểm nào ở bờ sông” (Bonnke R. Lửa Phúc Âm. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2005, 202).
Tuy là mở nhưng ranh giới đã được xác lập rất rõ ràng, cụ thể. Mở là đối với những cá nhân nào, chi phái nào luôn khao khát chinh phục, luôn được thôi thúc bởi ước mong mở mang bờ cõi. Còn đối với những ai mà ‘chừng đó đủ rồi’ thì biên giới đặc biệt kia chẳng có tí ý nghĩa chi đâu.
Ngày nay, đất hứa đối với Cơ-đốc nhân là “đủ mọi phúc lành thiêng liêng trên trời cho chúng ta trong Chúa Cứu Thế” (Epheso 1:3). Anh chị em đã sở hữu được bao nhiêu mối phúc hay bao nhiêu phước lành rồi? Và bao nhiêu người trong anh chị em ngày lại ngày, hiện vẫn còn đang tìm cách khám phá và vui hưởng những phần phước mới trong Christ Giê-xu?
Điểm đặc biệt thứ hai là những thành phố được chỉ định trong xứ Hứa. Những thành phố cho người Lê-vi, tức những người hầu việc Chúa thời bấy giờ và những thành phố ẩn náu hay thành phố lánh nạn dành cho những người vô ý phạm tội sát nhân.
48 thành phố đặc biệt này được phân bố đều khắp cả nước, trong số đó có 6 thành dành cho dân ‘tị nạn’. Tùy theo dân số của mình mà mỗi chi phái phải biệt riêng số lượng thành phố nhiều hay ít cho người Lê-vi cư trú. Việc ‘rải’ đều chi phái thầy tế lễ này trong cả đất nước đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong sinh hoạt tôn giáo của xứ sở. Đó là hình bóng cho sự hiện diện của Đức Chúa Trời ở giữa dân Ngài.
Thời nay, mỗi người tin Chúa là một thầy tế lễ (1 Phê-rơ 2:9), thì hội thánh chính là những thành phố đặc biệt dành cho người Lê-vi. Hội thánh cần phải được rải đều khắp nơi, để người ta bất cứ lúc nào cũng có thể dễ dàng chạy đến với Đức Chúa Trời. Mà hội thánh, như chúng ta biết, không phải là những ngôi nhà thờ mà là những con người thật lòng tin thờ Chúa Giê-xu. Thế thì, gia đình của những người tin thờ Chúa cũng chính là những thành phố của người Lê-vi vậy.
Chúa ban đất Canaan cho dân Y-sơ-ra-ên nhưng họ phải chiếm lấy, rồi mới lập thành phố. Chúa ban cho chúng ta “các ngoại bang làm cơ nghiệp, các đầu cùng đất làm của cải” (Thánh Thi 2: 8), nhưng mỗi chúng ta phải ‘chiến đấu’ để chiếm lấy. Gia đình của bạn, dòng tộc của bạn là cơ nghiệp Chúa dành cho bạn, bạn đã ‘chiếm’ xong chưa và bạn đã lập ‘thành phố của người Lê-vi’ tại đó chưa?
Còn các thành lánh nạn thì sao? – Đức Chúa Giê-xu chính là ‘thành ẩn náu’ (Hê-bơ-rơ 6:18). Mà Chúa Giê-xu đang ở đâu ấy nhỉ? – Trong mỗi một người tin, tức là trong bạn và trong tôi. Thế thì, bạn có thể giúp những tội nhân ‘trốn vào nơi ẩn náu’, là Chúa Giê-xu để họ được cứu mạng không?
Đừng quên là những thành dành cho dân ‘tị nạn’ cũng nằm trong số 48 thành phố của người Lê-vi đấy. Thế thì, chính mỗi chúng ta, gia đình của chúng ta – những người Lê-vi thời nay – phải là những cổng thành luôn rộng mở cho mọi đối tượng tìm nơi nương náu. Hãy tạo mọi điều kiện thuận lợi cho phạm nhân kịp trốn trước kẻ báo thù huyết.
Hãy thường xuyên dọn sạch mọi chướng ngại vật trên con đường dẫn đến thành ẩn náu – Chúa Giê-xu. Hãy kêu lớn tiếng lên với tất cả mọi người phạm tội: “Nhanh lên, đừng chậm trễ. Hạy chạy đến với Đức Chúa Giê-xu – Thành Ẩn Náu, thì tánh mạng của ngươi sẽ được bảo đảm”
Còn điểm đặc biệt cuối cùng là ‘Mẹ ơi, đừng gả con xa!’ hay chính ‘xoác’ hơn là ‘em ơi, đừng lấy chồng xa’ thì … còn xa nên hôm nay chưa vội nói. He he. Bao giờ đi đến sách Giô-suê sẽ … vừa hỏi, vừa cưới một lần luôn. Đồng ý thế nhé.
(Trước khi, ‘ốp phôn’ muốn hỏi nhỏ cái nha: ‘Du’ (you) đã đọc ba chương Kinh Thánh của ngày hôm nay chưa dzị? Nhớ là “đừng xa ‘EM’ … hôm nay” đó nghe. He he) 


Thứ Tư, 18 tháng 2, 2015

TRƯỚC GIỜ GIÃ BIỆT

Dân Số Ký 31-33 
Trong những ngày cuối cùng của cuộc đời, Môi-se vẫn làm việc hết sức hiệu quả như những ngày đầu tiên khi vừa tròn … tám mươi! Vẫn minh mẫn, vẫn thân mật với Chúa, vẫn trung tín trong chức phận được giao dù biết rằng mình sẽ không được vào xứ Hứa.
Ông đã nhận mật lệnh từ Chúa, tổ chức tấn công tiêu diệt địch quân Ma-đi-an. Trận đánh cuối đời, trận đánh giã từ. Một trận đánh được dùng làm mẫu, không phải về cách dụng binh, mà là cách phân chia chiến lợi phẩm và cách tẩy uế những chiến binh vừa ‘xây xác quân thù’ trở về.
Thế nhưng, có thể nói bài học lớn nhất trong ba chương sách này nằm ở nơi lời yêu cầu của hai chi phái rưỡi: xin được sống ngoài xứ Hứa! Hậu tự của Ru-bên, của Gát và một phần hậu tự của Manase đã xin được miễn vào Đất Hứa.
Lời cầu xin được đưa ra, không phải khi họ còn lang thang trong sa mạc. Họ cầu xin khi chỉ còn cách xứ Hứa một con sông: sông Giô-đanh. Thậm chí, họ còn sẵn lòng đi tiên phong, sẵn sàng chịu nguy hiểm để chiến đấu và chiếm xứ Hứa cho người khác hưởng, còn cá nhân họ thì chỉ xin được định cư bên bờ đông sông Giô-đanh.
Lý do xin ở lại: (1) vùng bờ đông rất phù hợp cho việc chăn nuôi, và (2) họ có nhiều gia súc.
Rất có lý, vì đó là nhu cầu của cuộc sống họ mà. Rất thực tiển, vì họ sống về nghề chăn nuôi.
Thế nhưng, ẩn đằng sau lời cầu xin này là hai nguyên do: (1) phần đất phía Đông là đủ tốt rồi, và (2) việc vượt sông và chiếm xứ là công việc khó khăn và … không biết sẽ thế nào. Thôi thì, bắt ‘con chim đậu’ cho nó chắc. Hic
Thoạt trông thì lời cầu xin đất của hai chi phái rưỡi này không có ý gì chống lại Chúa cả. Thế nhưng, theo Môi-se thì đó là một hành động loạn nghịch, có ảnh hưởng tiêu cực đến cả cộng đồng. Tuy vậy, Chúa vẫn cho phép họ có được điều họ ước ao. Họ được ở tại một nơi thật tốt đẹp, hết sức thuận lợi theo mắt họ, nhưng không phải là nơi mà Đức Chúa Trời chọn cho họ.
“Họ đã cố ý lựa chọn cơ nghiệp ở bờ bên kia sông Giô-đanh, trong miền giáp giới với thế gian, để trở lại đó ngay khi đánh trận xong, và lấy đó làm nơi ở vĩnh viễn” (Simson, A.B. Giô-suê Giải Nghĩa. Saigon: Nhà in Tin Lành, 1957, 49).
Sự từ chối bước vào đất hứa của con cháu Ru-bên, Gát và Manase có thể được xem như một tiêu biểu cho những người theo Chúa ‘lưng chừng’. Tiến không tiến, mà lùi cũng chẳng lùi. Những người này không tha thiết để đạt đến mục đích cao quý mà Chúa gọi họ.
Họ dừng bước, có thể vì không hiểu được chương trình của Chúa. Họ dừng bước vì tưởng rằng tin Chúa để được cứu rỗi là đủ rồi! Cũng có thể, họ dừng bước vì quá chú trọng đến phần phước hạnh trong đời sống vật chất mà thôi. Do đó, họ không nhìn thấy được điều tốt nhất mà Chúa sẵn dành cho họ.
Có một điểm tương đồng đáng lưu ý trong cách hành xử của hai chi phái rưỡi này và các sĩ quan chỉ huy trận đại thắng quân Ma-đi-an ở đoạn 31. Đó là tình trạng vâng lời nữa vời. Họ vâng lời Chúa nhưng không triệt để. Họ vâng lời Chúa giết sạch toàn bộ ‘đực rựa’ của Ma-đi-an, nhưng các bà, các cô thì … đem về nuôi!
Nói cách khác, họ chỉ vâng lời Chúa khi nào điều đó còn có lợi cho họ; Họ chỉ vâng theo Chúa trong những gì họ thích mà thôi. Mà một khi đã thích rồi nha, mấy chàng liền vận dụng đủ mọi cách để ‘uốn’, để ‘nắn’, để ‘bẻ’ Lời Chúa cho phù hợp.
Về sau vua Sau-lơ cũng đã phạm chính lỗi này (1 Samuen 15), và ngày nay còn có biết bao con dân Chúa tiếp tục miệt mài trong vết xe đổ của người xưa.
Chúa bảo diệt sạch, họ giết có chọn lọc; Chúa bảo vượt qua sông Giô-đanh, vào xứ Hứa mà sống, họ rằng, vào thì vào nhưng sống ở ngoài ni, ‘xa mặt trời’ thì sẽ thỏa mái hơn, tự do hơn.
Ở trong sự hiện diện của Chúa mà mất tự do, thì cái sự tự do đó là loại tự do gì ấy nhỉ? – Đó chỉ là thứ tự do khỏi việc vâng giữ Lời Chúa, tức là tự do để phạm tội. Là con dân Chúa nhưng không muốn ở gần bên Chúa, tự gọi mình là người yêu của Chúa nhưng không muốn ở gần với người mình yêu. Chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng đã rõ mười mươi ‘nó’ là người thế nào rồi.
Đúng là chỉ có Chúa mới chịu đựng được ngươi chớ người khác thì … ‘đi’ lâu rồi nha con. Đấy, chọn cỡ Lót là cùng chớ gì và kết cuộc ra răng, anh chị em còn nhớ không? (Nếu không thì hãy đọc lại Sáng thế ký 13 và 19 vào các ngày 5/1 và 8/1 trong Bộ Hành Xuyên Kinh Thánh nhé).
Vào cuối phần Kinh Thánh hôm nay (33: 51-56) Chúa răn dạy dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Khi các con vượt qua sông Giô-đanh để vào xứ Ca-na-an thì phải đuổi tất cả dân bản địa khỏi các con, phá hủy hết tượng chạm và tượng đúc cùng triệt hạ tất cả các nơi cao của chúng. … Nhưng nếu các con không đuổi hết dân bản địa đi thì các dân mà các con còn để lại sẽ như gai trong con mắt và như chông nơi hông các con. Chúng sẽ theo quấy nhiễu các con trong đất mình đang ở. Rồi đến lúc Ta cũng sẽ đối xử với các con như Ta định đối xử với chúng vậy".
Để được định cư lâu dài, an ổn trong xứ Hứa – là hình bóng của những phước hạnh cho dân Chúa ngày nay – con dân Y-sơ-ra-ên phải ‘dọn dẹp sạch sẽ’ tất cả cư dân đang sống trong đó cùng mọi điều liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng của họ. Rất rõ ràng.
Sạch có nghĩa là sạch, không để sót lại bất cứ ‘món’ nào, dù lớn hay bé, dù người hay vật. Nếu họ không vâng lời Chúa cách triệt để thì những đối tượng đáng diệt kia sẽ trở thành “gai đâm vào mắt”, “chông đóng vào hông” của họ trọn đời.
Anh chị em ơi, hãy thành thật với chính mình và khiêm nhường đủ để xét xem có cây gai, hay cái giằm hoặc mũi chông nào đang ‘xỉa xói’, đang tẩm quất chính mình không? Lo mà giải quyết sớm đi. Nhớ là phải trước khi Chúa đến để xử bạn đấy nhá.


Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015

TÁI KIỂM, TÁI XÉT

Dân Số Ký 26-30        
Gần 40 năm đã qua, một thế hệ vô tín đã lìa khỏi sân khấu, thay thế vào đó là một thế hệ mới được dấy lên. Một lần nữa, đây là thời điểm để kiểm tra dân số và đánh giá lực lượng. Mặc dù, sự phán xét thiên thượng đã ‘hốt’ đi trên 38 nghìn nhân mạng (16: 49; 25:9), nhưng lực lượng chiến đấu vẫn còn tổng cộng trên 600 nghìn (26:51). Môi-se, người đã lãnh đạo dân Chúa từ buổi đầu sẽ không còn sống để nhìn thấy việc chiếm xứ Canaan. Việc đó thuộc về Giô-suê, người kế nghiệp ông sẽ dẫn dân sự đến chiến thắng.
Năm chương Kinh Thánh hôm nay không dễ nuốt chút nào, vì toàn xương là xương. Hẳn nhiên, xương thì không thể nhai nuốt như ăn thịt, nhưng xương cũng không kém phần bổ béo, nếu ta biết ‘nấu’.
Nếu phải chọn chỉ một từ làm đại diện cho năm chương này thì chắc chắn từ MỚI (NEW) sẽ chiếm đầu bảng. Này nhé: một thế hệ MỚI (26) – Một lãnh đạo MỚI (27) – Một bộ giáo nghi được làm MỚI (28-30).
Trước hết, tại sao cần phải tổng kiểm tra dân số trước khi vào chiếm xứ? Thoạt nhìn, chúng ta dễ cho rằng vì chuẩn bị ‘uýnh’ nhau nên phải điểm quân thôi. Song thật ra, mục đích chính của lần tổng kiểm tra này là để phân chia đất trong xứ Hứa (26:53).
Đụng đến quyền lợi là phải rất sòng phẳng nhé. Ở đây không có chuyện ăn đồng chia đủ đâu nha. Đông binh, đông tướng thì được hưởng phần nhiều, còn ít quân ít tướng thì nhận phần bé, thế thôi. Còn cái dzụ bốc thăm chọn vị trí cũng là nhằm khớp mấy cái miệng lằm bằm về sau này đó nha.
Đấy, thuật ‘điều hành, quản trị’ hay thuật lãnh đạo thường bắt đầu từ những điều dường như rất vụn vặt thế đấy. Học biết cách để ngăn chặn nan đề, rắc rối phát sinh thì bao giờ cũng tốt hơn là chỉ biết cách giải quyết nan đề, hậu quả.
Ngoài ra, kết quả của việc kiểm tra dân số lần thứ hai này cũng cho chúng ta thấy sự thành tín của Đức Chúa Trời ở phương diện … giáng họa! Trừ Giô-suê và Calep thì trong tổng số 601.730 người nam từ 20 tuổi trở lên được kê khai lần này không có một ai thuộc về số người trong lần kiểm tra thứ nhất. Tất cả 603.550 người nam trong lần kiểm tra trước đều đã chết trong sa mạc, đúng như lời Chúa phán (26:65). ‘Gem ô-vờ’ hoàn toàn đối với thế hệ cũ.
Điều này là một lời nhắc nhở nghiêm túc rằng, sự đoán phạt của Đức Chúa Trời là chắc chắn và dứt khoát. Dù là ban phước hay giáng họa thì Chúa luôn làm trọn lời phán hứa của Ngài. Nhớ nhé.
Tiếp theo, một thế hệ mới xuất hiện, đòi hỏi một người lãnh đạo mới thích hợp. Giô-suê, đệ tử ruột của Môi-se, một trong hai chiến binh bền lòng tin cậy Chúa, đã được chọn. Một sự chọn lựa mang tính kế thừa.
Đúng là vì cớ ‘đập đá’ mà Môi-se không được cùng dân Y-sơ-ra-ên vào chiếm xứ Hứa. Thế nhưng, nhiệm vụ của Môi-se chỉ là đem Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập mà thôi (Xuất Hành 3: 10). Và ông đã hoàn thành sứ mạng.
Mỗi một giai đoạn, Chúa dùng những người lãnh đạo khác nhau. Do đó, người được chọn của Chúa cần phải biết phần việc của mình; người được chọn của Chúa cần phải biết thời điểm của mình. “Sẵn tiến, sẵn thoái theo ơn Cha ban …” là vậy. Tiếc thay, nhiều người ngày nay rất ô-kơ để ‘sẵn tiến’, nhưng lại vô cùng khó khăn để ‘thoái’. Đối với những người này thì “chỉ có cái chết mới chia lìa chức (và) ta!”
Môi-se không trao quyền lại cho con trai của mình, hay cho một người nào đó mà ông thích. Ông chuyển giao quyền lãnh đạo lại cho Giô-suê, người được chính Chúa chọn, người được huấn luyện, trang bị và chịu thử thách suốt những năm tháng hành quân gian lao.
Có một điều đáng lưu ý là Môi-se thì có Giô-suê kế nghiệp, nhưng đến phiên mình thì Giô-suê chẳng ‘nhân bản’ được một ai. Giá như mà Giô-suê có được đệ tử thì dân Y-sơ-ra-ên đâu rơi vào cảnh ‘năm cha, bảy mẹ’ khi đã vào hưởng phước trong xứ Hứa tốt đẹp kia.
Thật khó so sánh, Giô-suê và Môi-se ai ‘gút’ (good) hơn, vì mỗi người làm lãnh đạo ở một giai đoạn khác nhau với một thế hệ dân sự khác nhau. Song, ảnh hưởng về lâu dài trên cộng đồng thì rõ ràng là Môi-se ‘ăn đứt’ học trò của mình. Đơn giản vì Môi-se có người nối dõi, còn Giô-suê thì không. Một khi có người kế nghiệp thì công việc của Đức Chúa Trời không bao giờ bị chấm dứt, dù cho người lãnh đạo có qua đời.
Nếu vì một lý do nào đó mà bạn phải đột ngột ‘nghỉ chơi’, thì ai sẽ đủ chuẩn để thay bạn chịu trách nhiệm, để thế chỗ của bạn trong công ty, trong gia đình, trong hội thánh của bạn? Hỡi những bậc làm cha, làm mẹ, hỡi những vị lãnh đạo hội thánh, quý vị đang làm cho những thành viên khác trong gia đình, trong hội thánh luôn phụ thuộc nơi quý vị hay quý vị đang bận rộn huấn luyện, trang bị hay ‘môn đệ hóa’ họ để một ngày nào đó họ có thể thế chỗ quý vị và gánh vác công việc mà quý vị đã khởi xướng chăng?
Cuối cùng, một thế hệ mới xuất hiện thì việc phải dạy lại các quy tắc lễ nghi thờ phượng Thiên Chúa là điều tất yếu. Đối với dân Y-sơ-ra-ên thì việc dâng lễ hằng ngày cho Chúa là vấn đề quan trọng số một. Nếu không có việc dâng tễ lễ mỗi ngày cũng như giữ các kỳ lễ theo luật định của Chúa thì Y-sơ-ra-ên không còn là Y-sơ-ra-ên nữa. Điều này cũng tương tự như việc thờ phượng Chúa đối với con dân Chúa ngày nay vậy.
Thế hệ mới cần phải được học biết cách thờ phượng Chúa. Chúng nó cần phải thờ phượng Chúa cách thông hiểu, tức là phải hiểu việc chúng đang làm. Chúng phải hiểu tại sao phải làm như thế, chớ không thể bắt chước cách máy móc theo những gì thấy nơi cha mẹ hay người đi trước.
Nan đề, của thế hệ Cơ-đốc nhân mới ngày nay là ‘làm’ thì rất ‘trơn tru’ nhưng hơi bị … ‘cùn’ về chân lý. Chẳng hạn, đối với những anh chị em theo tinh thần Ngũ Tuần, Ân Tứ, cầu nguyện tiếng lạ thì rất … giòn nhưng những sự dạy dỗ liên quan đến đề tài này thì lại quá … cạn. Thậm chí, nhiều người hầu việc Chúa đến giờ vẫn chưa phân biệt được đâu là ân tứ tiếng lạ, còn đâu là tiếng lạ như dấu chứng của việc đã được báp-têm trong Đức Thánh Linh!
Còn nhiều, nhiều lắm những trường hợp tương tự như thế đang tồn tại trong khắp các hội thánh, nhóm nhánh. Tình trạng thế hệ Cơ-đốc nhân mới ‘tái mù’ giáo lý căn bản hơi bị nhiều. Đau ở chỗ là tình trạng này diễn ra trong thời điểm nhà nhà mở trường Kinh Thánh, người người mở trường Kinh Thánh.
Hỏi câu này có thể bị coi là vô duyên, nhưng chắc là cần phải hỏi: anh chị em có chắc là đã nắm vững những giáo lý căn bản, tức là những lẽ đạo chính yếu trong niềm tin Cơ-đốc không?
Nếu câu trả lời là không, thì dù bạn là ai (tín đồ hay … sứ đồ) cũng hãy lo mà ôn luyện đi nha. Sắp thi đến nơi rồi kìa.


Thứ Hai, 16 tháng 2, 2015

RẮN ĐỒNG, ‘RẮN’ ĐỘC

Dân Số Ký 21-25               
Năm chương Kinh Thánh hôm nay tập trung nơi quyền chủ tể hay tể trị của Đức Chúa Trời. Hầu như tất cả các nhà giải kinh đều cho rằng, những sự kiện trong năm chương này xảy ra vào năm thứ 40 của cuộc bộ hành nơi sa mạc. Từ Hô-rơ, họ đánh một vòng trở lại Biển Đỏ, rồi từng chặng một trở lại sát rìa phía tây của Đất Hứa, tức là bờ Tây sông Giô-Đanh.
Có hai con rắn trong phần Kinh Thánh hôm nay. Một rắn lửa, sau được ‘dựng’ tượng đồng, và một rắn độc khác – Balaam – bị Chúa ‘khóa’ mồm. Đã là rắn thì luôn dùng miệng để … xực. Và nọc độc của rắn, dù là rắn gì, thì cũng luôn chạy về tim (tâm)!
Dân Y-sơ-ra-ên rước rắn vào nhà bằng cách nào? – Cắn nhằn, lằm bằm, tức là phàn nàn, oán trách. Họ trách ai ấy nhỉ? – Lãnh đạo (Môi-se) và CHÚA. Nhớ nhé.
Chỉ đến khi được rắn lửa chăm sóc cách hết sức nhiệt tình, thì dân Y-sơ-ra-ên mới dập đầu trước Môi-se rằng, ‘nô tài đáng chết’. (Cần ghi nhớ rằng, khu vực này trước đây họ đã từng đi qua, nhưng mấy em rắn lửa kia … không thèm chấp đấy). Nếu ta là Chúa, mà gặp đám dân này, suốt ngày cứ phàn nàn, chực chờ làm phản, chắc là sẽ đập cho phát chết sạch. Thế nhưng, Chúa vẫn nhân từ cho họ con đường sống một khi họ nhận thấy lỗi lầm.
Con rắn bằng đồng là giải pháp … chữa rắn cắn hơi bị tuyệt vời. Thế nhưng, nó vẫn đòi hỏi nạn nhân phải thể hiện hành động đức tin của mình: NHÌN. “Hãy nhìn xem ta và được cứu” (Esai 45: 22).
Câu chuyện dài của Balaam, trong 4 chương còn lại khắc họa rất rõ chân lý: Điều gì Đức Chúa Trời đã định thì Ngài sẽ làm thành. Dân Y-sơ-ra-ên được chọn để hưởng phước. Sự ban phước của Chúa đối với dân được chọn của Ngài là KHÔNG THỂ THAY ĐỔI được. Thậm chí, chính môi miệng của kẻ thù cũng công khai xác nhận điều này đến ba lần!
Balaam, một thuật sĩ nổi tiếng cả khu vực này. Có thể nói rằng, đây là một cao thủ tà đạo, có khả năng hô phong, hoán vũ. Một công cụ của tà ma, chuyên làm việc theo ‘đơn đặt hàng’. Balaam được mời để rủa sả dân Y-sơ-ra-ên nhằm mục đích làm họ suy yếu. Tuy nhiên, Chúa kiểm soát mọi sự và dùng chính miệng thuật sĩ này xác nhận phước lành của Y-sơ-ra-ên.
Tuy lần hành sự này của Balaam có làm cho thân chủ của ông là Balac, vua Mô-ap, không được vừa lòng; nhưng về sau Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng chính tay thuật sĩ này đã bày mưu cho dân Mô-áp hạ ‘độc thủ’ được dân của Chúa (Dân. 31: 16).
Ban đầu là tình dục, tiếp đến là ăn nhậu và đoạn cuối là cùng đến tôn thờ … tà ma ngoại đạo (25: 1-2)! Từng bước từng bước thầm, từng em từng em một. Không tốn một mũi tên hòn đạn chi cả. Rất hiệu quả. Và cho đến tận hôm nay, binh pháp Balaam vẫn được ma quỷ triệt để sử dụng để hủy diệt dân Chúa.
Tín đồ thì một phát, tít mắt, chết ngay. Còn sư, thầy á. Đã biết sai bét nhè ra rồi, không lo hạ mình, quay đầu là bờ, lại còn ở đó gân cổ lên nào là thời ân điển, nào là sống bởi đức tin. Cứ làm như Chúa thời nay là một ông Chúa khác không bằng.
Chẳng cần phải mổ xẻ tiếng Hê-bơ-rơ, tiếng Hy lạp hay thần học gì ráo trọi, cứ nhìn cái cách sống của mấy ‘ông’ hằng ngày thì đã không ‘duyệt’ được rồi. Người đời thì chịu ‘cố đấm ăn xôi’ chớ ‘mấy cha, mấy anh’ mà không lo tỉnh ngộ, suốt ngày cứ ngập ngụa trong sự sai quấy, thỏa hiệp, rồi dụ dỗ, lôi kéo những tín hữu khác sống buông thả theo mình thì chắc chắn sẽ được ăn gươm của Phê-ni-a đấy.
Hãy nhìn vào con số 24.000 người Y-sơ-ra-ên bị thiệt mạng trong sự kiện này mà tỉnh thức nhé.
Bạn là ai: là Phi-nê-a, sẵn sàng thực hiện án tử hình đối với tội tà dâm (khởi đầu cho việc bỏ Chúa) hay là Ximri, công khai phạm luật Chúa trước bàn dân thiên hạ? Thái độ của chúng ta đối với mạng lịnh của Đức Chúa Trời sẽ quyết định kết cuộc mà chúng ta nhận lãnh: phước lành hay gươm hủy diệt.
Trong câu chuyện của Balaam còn một điều nữa mà chúng ta cần phải suy nghĩ: Balaam biết ý muốn Đức Chúa Trời nhưng vẫn ‘xé rào’.
Sao thế nhỉ? – Ấy là vì bổng lộc chào mời lần sau cao hơn nhiều lần so với trước. Há chẳng phải ngày nay, ở ta đang rất thịnh hành câu nói: “Điều gì không mua được bằng tiền, sẽ mua được bằng rất nhiều tiền” đó sao?
Nếu sự cám dỗ của ma quỷ cũng đi theo cùng một cách như vậy thì ta sẽ chịu đựng được đến đâu?
Nếu một Thị Nỡ đến bên ta, mời ta vui vẽ ‘tình một đêm’ thì chắc sẽ bị ta chữi cho trận nhỉ. “Điên à. Cô nghĩ tôi là ai mà định giở trò cám dỗ chớ. Xí, đỉa mà đòi đeo chân hạc”. Thế nhưng, thay cho Thị Nỡ là một cô gái tóc vàng, … rồi một hoa hậu thì sao, cầm cự được bao lâu?
Người ta có thể trả bao nhiêu tiền thì bạn và tôi có thể bỏ Chúa? Nghe sốc quá, đúng không. Không bao giờ nhé.
“Một nghìn đô-la Mỹ nhé? 10.000 thì sao? Không à, thế 1 triệu đô-la nhé?”
Bỏ Chúa thì khó hình dung nhỉ. Thôi thế này, “em phải trả bao nhiêu thì anh chịu đi chùa với em? Một con Samsung Galaxy 5 nhé. Không à. Thế thì, một con Iphone 6 với một đêm ‘thích gì được nấy’, chịu chưa cưng?”
Tất cả những điều trên đây chỉ là giả định, và phần lớn không ai trong chúng ta ‘được giá’ đến cỡ đó đâu. Không phải ma quỷ không thể đưa ra giá đó để mua đứt chúng ta, cũng không phải chúng ta đủ bản lĩnh đức tin hay thông tuệ tri thức Thánh Kinh đến nổi vượt thắng tất cả những cám dỗ mà dân Chúa xưa đã từng, mà là vì lòng thương xót của Chúa còn chưa dứt, lòng nhân từ Ngài đối cùng chúng ta còn chưa cạn đó thôi.
Anh chị em ơi hãy luôn nhớ những điều này mà giấu mình trong Chúa, cậy ơn của Chúa để vâng giữ Lời Chúa (chớ không phải cậy ơn của Chúa để sống phóng túng), sống một đời thánh sạch, đẹp lòng Chúa và chinh phục được người chưa biết Chúa về thờ phượng Ngài.