Thứ Hai, 16 tháng 11, 2015

THIÊN CƠ CHO DÂN TUYỂN

Roma 9-11 
Dân tuyển ở đây chính là dân Do Thái (Israen), một dân tộc được Đức Chúa Trời chọn lựa và dành riêng cho Ngài. Vì là “hàng tuyển” nên họ được hưởng … số sướng, không thiếu một thứ gì cả (9: 4-5). Từ nơi họ mà Đức Giê-xu, tức là Đấng Mê-sia hay Đấng Cứu Thế đã ra đời. Thế nhưng họ lại từ chối Ngài, từ chối sự cứu rỗi mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho họ qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Đúng là có số sướng mà không biết hưởng!
Nếu đúng là người đã được Chúa chọn mà lại mất sự cứu rỗi thì hóa ra lời hứa của Chúa, kế hoạch của Chúa (dành cho họ) là không có giá trị, là thất bại à? – Không hề nhé (9: 6).
Israen cũng có năm bảy đường Israen nha. Hay ngắn gọn là Do Thái … có hai loại Do Thái. Một là Do Thái “theo lời hứa”, còn một là Do Thái “theo xác thịt”. Chỉ có đứa “theo lời hứa” mới thật sự là đứa được chọn. Mà hễ đứa nào được chọn thì chéc cú là sẽ được xưng công chính hay hưởng được sự cứu rỗi – sự cứu rỗi duy bởi ân huệ mà thôi.
Thế thì, không phải cứ ai đi nhà thờ là đều được cứu đâu nha; không phải bất kỳ ai sinh ra trong gia đình có đạo là nghiễm nhiên có vé vào Thiên Đàng đâu đấy. Nếu bảo rằng mình đi Đạo, mình thờ Chúa mà lòng mình không có Chúa Giê-xu ngự trị; đời sống của mình Chúa không thể làm chủ thì hổng chừng cưng đang thuộc về “hạng Do Thái theo xác thịt” rồi đấy nha.
Người ta được cứu tùy thuộc nơi sự chọn lựa của Chúa. Mà sự chọn lựa của Chúa thì hoàn toàn không dựa trên trí tuệ, cũng không dựa trên quan hệ, trên hậu duệ, hoặc trên tiền tệ, mà chỉ dựa mỗi trên … ân huệ!
Thế thì có bất công không? – Bất công thế nào được. Vì “mọi người đều đã phạm tội” và “hậu quả của tội lỗi là sự chết”, nên bất kỳ ai trong chúng ta cũng xứng đi địa ngục, bất kỳ ai trong chúng ta cũng xứng đáng đi … định cư nơi Hồ Lửa đời đời cả thôi. Thế cho nên, nếu có ai đó théc méc với Chúa rằng, “tại sao ông cứu con nhỏ kia mà lại không cứu tui?” thì người ấy hoàn toàn chưa hiểu biết gì về … ân huệ hay ân điển rồi.
Phần đông chúng ta thường rơi vào chỗ nguy hiểm khi cho rằng mình được quyền hay có quyền (tức xứng đáng) hưởng ân huệ của Đức Chúa Trời. Nếu Chúa bị buộc phải thi ân hay bày tỏ lòng thương xót, thì đó đâu phải là ân huệ mà chỉ là bổn phận, hay trách nhiệm mà thôi.
Hàng năm, vào những dịp lễ lớn Chủ tịch nước thường hay ký lịnh ân xá cho một số phạm nhân đã bị tuyên án tử hình. Họ được miễn tội chết trong khi những tử tù khác thì phải chết. Không ai vì chuyện ấy mà kêu ca hay lên án chủ tịch nước là bất công cả. Đơn giản là vì không một ai sẽ bị kể là bất công vì cớ không bày tỏ lòng thương xót đối với tất cả mọi người.
Ô-kơ, thôi thì chuyện Chúa muốn chọn ai để ... thương … là quyền của Chúa đi. Thế nhưng, giả dụ tôi thuộc nhằm đứa Chúa chọn để … ghét bỏ thì kiểu gì chả chết, vì làm răng mà có thể cãi được mệnh Trời, đúng không? Mà nếu đúng là như thế thì tôi có cố gắng, có kiêng khem, có tin kính cũng bằng thừa. Chúa định cho tôi như thế rồi cơ mà. Thế thì, Chúa còn quở trách chi tôi, còn bắt phạt gì tôi nữa (9: 19).
Thoạt nghe, lập luận trên đây rất chi là … có lý. Dường như, Đức Chúa Trời đã ép người quá đáng thì phải. Tuy nhiên, không phải tất cả những gì có lý đều là chân lý đâu nha.
Dân Do Thái đã chủ động chối bỏ Chúa Giê-xu chớ không phải họ bị ép buộc phải làm như vậy. Có đến những ba lần tổng trấn Philat bảo tha, nhưng cả ba lần chúng đều mở loa là … GIẾT! Họ có thể chọn khác đi, đúng không? Thế nhưng, kết cuộc họ lại chọn … GIẾT, tức là chọn loại bỏ theo đúng như chương trình mà Đức Chúa Trời đã định.
Đúng là Chúa đã chọn Gia-cốp và bỏ Ê-sau từ lúc hai đứa còn … ở trong đầu gối của ông bố Y-sác cơ. Thế nhưng, sau đó thì sao? Chính Ê-sau đã tình nguyện từ chối quyền trưởng nam, tức quyền thừa kế, để đổi lấy một bát súp đậu đấy thôi. Có ai ép buộc chi đâu. Cái bụng của bác í ép thì có. Ê-sau có thể chọn cách khác cơ mà, nhưng kết cuộc là bác í đã TỰ NGUYỆN chọn … đúng như điều Chúa đã định.
Còn phía ngược lại, người được Chúa chọn để hưởng ơn cứu rỗi CÓ THỂ chối bỏ Chúa không? Tất nhiên là có, vì người ấy hoàn toàn có ý chí tự do cơ mà. Thế nhưng, một khi đứng trước sự chọn lựa thì kiểu gì rồi cuối cùng người ấy cũng chọn lấy Chúa chớ không bỏ Chúa. Thậm chí, có lúc họ thất bại như trường hợp của Phê-rơ (chối Chúa ba lần) đi nữa thì cuối cùng họ cũng ăn năn quay trở lại với Chúa mà thôi.
Thế thì, sự chọn lựa theo ân huệ hay ân điển của Đức Chúa Trời không bao giờ loại bỏ quyền tự quyết (tự do quyết định) của con người. Và sự phán xét của Đức Chúa Trời sẽ căn cứ trên quyết định của mỗi một chúng ta – quyết định tin thờ Chúa Giê-xu hay từ chối Chúa Giê-xu (10: 4, 9-13).
Đến đây, sẽ có người thắc mắc là nếu Đức Chúa Trời đã chọn trước một ai đó để hưởng (hoặc để chối bỏ) ơn cứu rỗi thì việc rao giảng Tin Lành có còn cần thiết nữa không? Câu trả lời của Phao-lô là VẪN RẤT CẦN THIẾT.
Cần thiết vì có được nghe thì mới có cơ hội chọn lựa; mới có cơ hội đưa ra quyết định tin hay không tin, tiếp nhận hay từ chối ơn cứu rỗi từ Đức Chúa Trời. Mà để được nghe thì cần phải có người rao giảng (10: 14, 17). Vì Chúa là Đức Chúa Trời công bình nên ai cũng được ban cho cơ hội để chọn lựa, để đưa ra quyết định cá nhân của mình đối với Chúa Giê-xu. Việc rao giảng Tin Lành hay nôm na là “làm chứng về Chúa Giê-xu” vẫn còn cần thiết là như thế.
Tuy nhiên, thời nào cũng vậy, luôn luôn tồn tại ‘một bộ phận không nhỏ’ những người “không chịu vâng theo Phúc Âm”, tức là nghe thì nghe nhưng không chịu tin (10: 16). Ngay cả, trong dân được tuyển chọn của Chúa là Do Thái mà cũng không thiếu thành phần “lòng chai, trí lú, mắt mù, tai điếc” này cơ mà. Đó chính là lý do mà Kinh Thánh khẳng quyết rằng, “chỉ một số dân sót lại sẽ được cứu mà thôi” (9: 27; 11: 5).
Vậy nên, hỡi anh chị em là “những người được chọn lựa theo ân sủng” chớ ngưng nghỉ, cũng đừng trễ nải trong việc loan báo Tin Lành của Chúa Cứu Thế Giê-xu. Và chính Chúa đã xác nhận rằng, “Bàn chân của những người truyền rao Tin Lành thật xinh đẹp biết bao!” (10: 15)


Chủ Nhật, 15 tháng 11, 2015

SỐNG CÔNG CHÍNH NHỜ ĐÂU?

Roma 6-8 
Con người của chúng ta không chỉ có linh, mà còn có hồn và xác nữa. Linh (hay còn gọi là tâm linh hoặc … vía) được xưng công chính (vô tội) khi ta thật lòng tin nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa. Thế còn hồn và xác thì răng? – Cũng cần được cứu chớ răng.
Linh thì được cứu khỏi hình phạt của tội lỗi, tức sự chết. Hồn thì cần được cứu khỏi ách nô lệ hay sự cai trị của tội lỗi. Nói cách dễ hiểu hơn là ri: hồn cần được cứu khỏi ảnh hưởng của tội lỗi, hay nôm na là khỏi thói quen phạm tội. Còn xác thì sẽ được cứu khỏi sự hiện diện của tội lỗi.
Có điều khác với linh, hồn và xác không được rỗi ngay lập tức như thế. Sự cứu rỗi dành cho hồn được gọi là sự nên thánh, và đây là một tiến trình hơi bị … dài, cho đến hết đời.
Mà “nên thánh” là răng? – Là hiến tế, là biệt riêng ra, là dành riêng cho Đức Chúa Trời.
Phần Kinh Thánh hôm nay được dành chủ yếu để trình bày cho chúng ta cách làm thế nào để có thể kinh nghiệm chiến thắng và kinh nghiệm nên thánh mỗi ngày trong đời sống. Chân lý dzĩ đại là đây: “Chúa Giê-xu đã chết vì chúng ta, nhưng chúng ta cũng phải cùng chết với Ngài”. Sự chết của Chúa đem lại sự xưng công chính cho chúng ta, còn việc chúng ta đồng chết với Ngài dẫn đến sự nên thánh.
Mà ta chết là răng? – Là chết con người cũ, tức là bản tính tội lỗi mà ta nghiễm nhiên được thừa hưởng từ cụ tổ A-đam. Mà đặc trưng của bản tính này là ích kỷ, coi mình là trung tâm và luôn có xu hướng … khoái … (nghĩ/làm/nói) chuyện bậy bạ, dối trá, gian ác.
Làm răng chết được? – Trước hết, người tin Chúa cần phải nhớ rằng, mình nay đã chết. Chết khi mô? – Khi chịu báp-têm. Mà chết đối với chi? – Đối với tội lỗi và đối với giáo luật Môi-se.
Thế nhưng, nếu chỉ biết chừng nớ, tức chỉ biết về mặt pháp lý hay về phương diện lý thuyết như rứa thì chưa thể … đủ ‘đô’, chưa thể thật chết được đâu nha. Để chết cho … ra chết thì mỗi ngày ta phải “coi mình thật sự chết đối với tội lỗi, và sống là sống cho Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-xu” (6: 11).
“Coi mình như đã chết” tức là tuyên án tử, kể như, xem như bản tính cũ của mình đã chết (thực ra thì ‘hắn’ chưa chết) theo kiểu … Lan ni cô khuyên người yêu cũ của mình là Điệp. Rằng “người con gái tên Lan ngày xưa đã chết”, trong khi cô ấy vẫn đang lù lù một đống đấy thôi. He he
Nhưng mà tại sao ngày nào ta cũng phải “coi mình như đã chết”? - Ấy là vì ‘hắn’ … lì lắm, ‘hắn’ sống dai lắm, ‘hắn’ vật lộn, năn nỉ, ỉ ôi kinh lắm.
Thế cho nên Phao-lô dành gần trọn chương 7 để kể lại cuộc nội chiến từng xảy ra trong chính ông, thoạt nghe qua cứ như đang xem Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông đang triễn khai võ công ‘song thủ hỗ bác’ không bằng! Kinh.
Nếu “người con gái tên Lan ngày xưa đã chết” thì ta phải hành xử ra răng? – Chấm dứt sự cung phụng, chìu chuộng mọi đòi hỏi của ‘nàng’ chớ răng. “Đừng hiến chi thể anh chị em làm đồ dùng bất chính cho tội lỗi nữa, nhưng hãy hiến chính mình anh chị em cho Đức Chúa Trời như một người từ chết sống lại, và dâng chi thể anh chị em làm đồ dùng công chính cho Đức Chúa Trời.” (6: 13)
Hãy tưởng tượng rằng, trước đây bạn có làm việc cho một ông chủ, tên là A-Lìn gì gì đấy, nhưng giờ thì đã sang công ty khác rồi. Giả sử hôm nay, bạn đến văn phòng công ty cũ. Vừa khi nhìn thấy bạn ‘mít-tơ’ A-lìn đã hùng hổ: “Vào đây làm gì? Xuống xưởng làm việc đi!” thì bạn sẽ làm gì?
Chắc chắn là bạn không làm gì hết, ngoại trừ việc rời khỏi văn phòng của A-lìn mà thôi, đúng không? Ấy là vì A-lìn không còn là chủ của bạn. Khi còn là ‘lính’ của ông ấy thì bạn phải làm tất cả những gì ông ấy … lịnh. Nhưng nay, bạn đã làm việc cho một ông chủ mới, nên A-lìn không còn quyền hạn gì trên bạn nữa rồi. Bạn giờ chỉ phải vâng phục người chủ mới mà thôi.
Thử đọc lại 6: 16-18 xem, bạn sẽ thấy có sự giống nhau … tợn luôn đóa. Chủ cũ là tội lỗi, còn chủ mới là ai?
Chuyện rằng, lần ấy các cựu học viên một trường nội trú tổ chức gặp mặt sau nhiều năm tứ tán. Buổi họp mặt được tổ chức tại căn-tin, tại tầng hầm của ngôi trường cũ năm xưa. Đang khi ai nấy tay bắt mặt mừng, chào hỏi rôm rả, ồn như vỡ chợ, thì bổng dưng không ai bảo ai tất cả đều im bặt, nhanh chóng vào lại chỗ ngồi. Vì có ai đó đã phát tín hiệu là có tiếng bước chân ông giám thị đang đến.
Số là ngày xưa, khi còn nội trú, cứ nghe tiếng chân giám thị là trai gái chi cũng … rét. Mà ông ấy nghiêm khắc kinh khủng, biết bao chàng, bao nàng bị ông ấy bắt phạt. Thế là đâm ra … ám ảnh. Cảm giác sợ hãi ấy vẫn còn đeo theo họ cho đến tận giờ khi họ đã là ông nọ, bà kia, có 'số má' trong xã hội cơ đấy.
Ông giám thị giờ đâu còn có quyền sinh, quyền sát như khi xưa trên … đám già cựu học sinh này. Thế cho nên, sau một ‘phút mặc niệm’ vì hiệu ứng ‘phản xạ có điều kiện’, cả bọn lại òa lên sung sướng. Cứ tưởng còn bị buộc ràng dưới uy của ông giám thị nhưng hóa ra chuyện ấy chỉ còn khắc họa trong hai từ nhòa hơi sương của Trịnh: “Diễm Xưa” mà thôi!
Có nỗi ám ảnh ‘giám thị cũ’ nào còn sót lại đối với bạn ngày hôm nay không? 


Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2015

ĐỜI TRAI BẤT TẬN

Dừng Chân Lần Thứ 41
NHÌN LẠI
Sau-lơ, một chuyên gia bắt bớ đã trở thành sứ đồ Phao-lô cho dân ngoại. Cuốn “nhật ký hành trình” của ông không khác chi một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu mạo hiểm ngày nay, khi thuật lại những lần đối đầu với đám dân và đám … quan, bị ném đá và bị đắm tàu, trong lúc rao truyền Phúc Âm từ An-ti-ốt cho đến Rô-ma.
Những hành trình truyền giáo của Phao-lô trải qua hàng nghìn dặm và trên mười năm cuộc đời của ông. Tiếp theo sau những chuyến đi đến những vùng như Galati, Macedonia và Achai, Phao-lô bị bắt tại Jerusalem và đối diện với một loạt những cuộc xét xử dưới tay của Phê-lít, Phê-tu và Ạc-ríp-ba. Vì không tìm được sự xét xử công minh tại những phiên xử này nên Phao-lô tuyên bố là sẽ “kêu nài đến Sê-sa” (Công Vụ 25: 11), và thế là … Rô-ma thẳng tiến!
Chuyến đi vừa bộ vừa thủy này đầy nguy hiểm, nhưng cuối cùng ông cũng đến được với phiên tòa … mong ước. Trong thời gian chịu tù ở Rô-ma, Phao-lô không được tự do đi lại nhưng vẫn được gặp gỡ và chuẩn bị những môn đệ của mình cho những chức vụ mà họ sẽ sớm được chuyển giao.
Những thơ tín của Phao-lô tương ứng với những chuyến truyền giáo của ông. Trong hành trình truyền giáo lần thứ nhất, Phao-lô viết sách Galati. Trong hành trình lần hai, ông viết các sách 1 và 2 Tesalonica. Còn trong chuyến thứ 3, ông viết thơ Rô-ma, 1 và 2 Corinhto.
Khi anh chị em đọc các thơ tín trong những tuần tới, hãy trở lại với những chương tương ứng trong sách Công Vụ để hiểu được bối cảnh khi những thơ này được viết ra nhé.
NHÌN LÊN
Hãy tưởng tượng rằng bạn là một người lính trong một tiểu đội đang đóng quân ngay sát ranh giới kẻ thù. Tệ hại hơn nữa là kẻ thù đang tiến nhanh về hướng của bạn.
Đang chờ lệnh rút lui, nhưng bạn lại được nghe chỉ huy chỉ thị: “Hãy tiếp tục bám trụ tại đấy, tiếp tục bắn mạnh vào, càng lâu càng tốt cho đến khi anh … bị giết hoặc bị bắt mới thôi”.
Bạn sẽ cảm thấy thế nào về một mệnh lệnh tương tự như thế? Dứt khoát đấy không dành cho những kẻ nhát gan, mà chỉ cho những ai muốn giáp mặt sự chết và muốn trở nên “những xác chết biết đi” để trút giận lên đầu thù mà thôi.
Răng rứa? - Ấy là vì sự chết không còn thống trị trên những người như thế. Họ là những người không còn biết sợ là gì và chỉ còn biết nhắm vào mục tiêu mà thôi. Họ không còn gì để mất nhưng còn đủ thứ để được. Họ đã thật sự nhận biết được cái giá phải trả để phục vụ.
Túm lại, họ là những đối thủ vô cùng nguy hiểm vì cớ họ đã sẵn sàng … liều mạng, hay gọn hơn là sẵn sàng ‘uýnh’ … chết bỏ luôn. He he.
NHÌN TỚI
Các sứ đồ và các môn đồ trong sách Công Vụ đã phục vụ Chúa của họ cách liều thân hay sẵn sàng tận hiến như thế. “Tự giữ lấy thân” có lẽ là ý tưởng cuối cùng trong tâm trí của họ. Ấy là vì họ luôn toàn tâm toàn ý, sẵn sàng cho Chúa sử dụng.
Chúng ta có thể nhìn thấy thái độ đó trong một số câu trích từ những thơ tín của Phao-lô:
Tôi đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Đấng Christ, mà tôi sống, không phải là tôi sống nữa, nhưng Đấng Christ sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong thể xác, tức là tôi sống trong đức tin của Con Đức Chúa Trời, là Đấng đã yêu tôi và phó chính mình Ngài vì tôi.  (Galati 2: 20)
“Vì đối với tôi, sống là Đấng Christ, còn chết là ích lợi”  (Philip 1: 21)
Nếu việc tự đề cao bản thân hay tự quản lấy thân không phải là mục tiêu trong đời của mình, thì bạn phải học biết khai phóng quyền năng của sự liều thân. Và một khi nhận thấy thời giờ, tài năng và tài chính của mình đã 100% sẵn sàng để phục vụ Chúa, thì lúc ấy bạn sẽ có thể đồng thanh cùng Phao-lô: “Nhưng tôi chẳng kể sự sống mình là quý, miễn sao hoàn tất cuộc đua và chức vụ tôi đã nhận lãnh nơi Chúa là Đức Chúa Jêsus, để công bố Tin Lành về ân điển Đức Chúa Trời” (Công Vụ 20: 24)


Thứ Sáu, 13 tháng 11, 2015

CÔNG CHÍNH TÌM ĐÂU?

Roma 4-5 
Trong phần Kinh Thánh hôm nay, để minh họa cho lẽ đạo xưng công bình hay xưng công chính, Phao-lô đã ‘cung thỉnh’ cụ tổ Apraham, người đã “tin Đức Chúa Trời, và nhờ đó ông được kể là công chính” (4: 3).
Mà “xưng công bình hay công chính” (justification) là răng? – Là công khai tuyên bố một phạm nhân đáng tội tử hình là … trắng án, là vô tội, được phóng thích ngay tại tòa!
Hắn đã phạm tội? – Yes. Hắn không bị oan? – Yes. Hắn đáng tội chết? – Yes.
Rứa mà công bình cái chi? Phạm tội rành rành như thế lại tha bổng, còn tuyên là vô tội mà gọi là công bình à?
Vâng, vưỡn công bình đấy ạ.
Người công bình trong ý nghĩa thứ nhất là một người chưa bao giờ làm trái luật, tức là chưa từng phạm tội. Mặt khác, một người – cho dù đã phạm pháp – vẫn có thể được xem là công bình khi người ấy trả xong mọi án phạt hay hình phạt theo quy định, tức là đã thi hành án xong.
Loài người chúng ta được xưng công bình theo nghĩa sau đấy ạ.
Nhưng mà ‘hắn’ đã thi hành án khi mô? – Đúng là ‘hắn’ thì chưa, nhưng đã có một người chịu thay cho ‘hắn’ mọi sự ấy rồi. Người ấy chính là Đức Giê-xu, “về phần xác thì thuộc dòng dõi Đa-vít, còn về phương diện thần thánh thì là Con Đức Chúa Trời quyền năng” (1: 3-4).
Một khi mà ‘hắn’ – phạm nhân – đồng ý nhận Đức Giê-xu làm đại diện pháp lý … trọn gói cho mình, thì ‘hắn’ được tha bổng, được cấp chứng nhận “vô tội” là thế. ‘Hắn’ được xưng công bình là vì sự công bình của Đức Chúa Giê-xu Christ đã được quy gán cho ‘hắn’.
Việc này cũng tương tự như khi người ta cưới nhau hoặc khi hai công ty sáp nhập lại với nhau. Lúc đó, tài sản riêng của họ được nhập chung và sau đó được xem là tài sản chung.
Xưa ‘anh’ A-đam ‘cương’ với Thiên Chúa một phát … là “toàn gia nam nữ đại tiểu đẳng” – trong đó có mỗi một người chúng ta – đều được ‘hưởng’ sự chết cách … miễn phí. Còn Đức Giê-xu Christ, đại diện hợp pháp cho loài người, ‘thuận’ với Thiên Chúa một lần là cả loài người được hưởng sự sống vĩnh phúc, cũng một cách … phờ-ri (free) như rứa.
Khác biệt duy nhất: tội (hay sự bất chính) của A-đam được quy gán cách ‘mặc định’ (default) cho mọi con cháu của ông, còn sự vô tội (hay sự công chính) của Đức Chúa Giê-xu Christ được quy gán cho chúng ta theo kiểu … ‘tự chọn’ (option). Nếu ta tự nguyện chọn “tin đến Đấng Christ”, thì sự công chính của Ngài được quy gán cho ta. Còn nếu ta chọn ‘bỏ qua’ (ignore) thì sự bất chính của A-đam vẫn còn y nguyên trong ta cho đến … muôn đời.
Cụ Apraham xưa, Chúa bảo gì cụ tin nấy là được dán tem chất lượng: “hàng sạch theo tiêu chuẩn của JHV (Giê-hô-va)” ngay. Cũng một thể ấy, ngày nay bất kỳ ai tin theo lời phán Đức Chúa Trời rằng, “ai tin đến Đức Chúa Giê-xu thì được xưng công bình” (3: 26) thì người ấy cũng sẽ nhận được sự xác nhận thiên thượng từ nơi Chúa giống như thế.
Sự xưng công bình không chỉ là được thoát khỏi hình phạt, mà còn là được phục hồi địa vị ưu đãi, tức được nhận lại làm con Thiên Chúa nữa kia đấy. Nói cách hình bóng là từ tử tù thành thiên tử.
Một điểm khác cần lưu lý rằng xưng công bình là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Đó là một món quà mà người nhận không xứng đáng chớ không phải là phần thưởng cho một thành tích hay công trạng nào đó. Nói cách khác, “được xưng công bình” là nhận lấy chớ không phải … giành lấy.
Ngay cả đức tin cũng không phải là một việc thiện mà Đức Chúa Trời phải trả thưởng bằng sự cứu rỗi đâu nha. Đức tin cũng là một tặng phẩm, một món quà hay là một sự ban cho của Đức Chúa Trời. Chúa ban đức tin làm phương tiện để chúng ta nhận được sự cứu rỗi mà thôi.
Và từ cái thời … tám hoánh thì cụ Apraham nhà ta đã biết sử dụng phương tiện này để được xưng công bình rồi đấy. “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, và nhờ đó ông được kể là công chính” (4: 3). Điều này có nghĩa là Đức Chúa Trời không đưa ra một phương cách cứu rỗi nào mới cả. Ngài luôn “xưng công bình” theo cùng một cách. Cách đó có tên gọi là ĐỨC TIN.
Apraham đã được xưng công bình nhờ vào việc tin Đức Chúa Trời, thế mần chi mà ông lại cần phải chịu cắt bì nữa? (Cắt bì hay cắt bao quy đầu là phẫu thuật cắt bỏ phần da bọc phía đầu của dương vật, một nghi thức bắt buộc đối với người Do Thái).
Chịu cắt bì không phải là phương cách để được xưng công bình. Việc Apraham chịu (hay chính xác hơn là tự …) cắt bao quy đầu chỉ là “ấn chứng của sự công chính mà ông đã có được bởi đức tin từ lúc ông chưa chịu cắt bì” mà thôi (4: 11). Điều này cũng tương tự như thánh lễ báp-têm nước đối với một người đã thật lòng tin nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa vậy. Người ấy đã được sạch tội, được xưng là vô tội (công chính) ngay thời điểm người thật lòng tin Chúa Giê-xu, tức là TRƯỚC KHI chịu báp-têm trong nước.
Cho dù một người được xưng công bình là bởi đức tin, nhưng sự xưng công bình PHẢI và SẼ luôn sinh ra việc làm (việc lành) phù hợp với bản tính của con người mới đã được dựng nên. Nếu từ nơi người đó mà không thấy có việc lành tương ứng nào ráo trọi, thì chéc cú là đã chẳng có đức tin thật hay xưng công bình gì cả. Có chăng, chỉ là … đứt bóng mà thôi. He he.
Liên quan đến ‘chiện’ xưng công bình này thì còn ‘tót’ (talk) dài dài nhé. Hôm nay, chỉ cố đến đây thôi. Bởi cớ, để chuyển sang được ngôn ngữ ‘bình dân học vụ’ với xì-tai tuổi teen của thế kỷ 21, một đề tài ‘cổ kính’ như ”xưng công nghĩa” thì đúng là phải tiêu tốn quá nhiều thời giờ và năng lượng. Rứa đo.


Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

AI CẦN CÔNG CHÍNH?

Roma 1-3 
Hôm nay, chúng ta bắt đầu ‘xuyên’ một thể loại văn chương khác của Kinh Thánh: thể thơ tín. Trong kinh Tân Ước, các thơ tín được chia thành hai nhóm: (a) các thơ tín của Phao-lô và (b) thơ tín của các tác giả khác hay còn được gọi là các thơ tín tổng quát.
Khác với những ‘da meo’ – tức những lá thư (mail) được viết trên da thú – còn lại của mình, ‘meo’ Rô-ma này, Phao-lô viết cho những tín hữu mà ông chưa từng gặp mặt. Chính vì vậy, mà nó giống như một luận văn thần học hơn là một bức ‘meo’ cá nhân.
Trong ‘meo’ nầy, Phao-lô giải luận rất chi là cụ … tỉ, về nhu cầu, sự cung ứng và công việc của ân điển Đức Chúa Trời. Ông bắt đầu bằng … cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời giáng trên loài người tội lỗi, không miễn trừ ai hết. Mọi người đều phạm tội, và mọi người đều phải đối diện với sự phán xét của Đức Chúa Trời. Tuy nhiên, có một hy vọng trong chính Đấng Christ Giê-xu, là Đấng mà qua Ngài Đức Chúa Trời cung ứng sự công chính cho tất cả những ai TIN (3: 22)
Như đã nói ở trên rằng ‘da meo’ này giống như một luận văn thần học, nên không hề dễ nuốt chút nào. Cái kiểu “hỏi xoay, đáp xoáy” của bác í không chừng khiến cho nhiều người trong chúng ta, nhất là những anh chị em ‘lính mới’, lùng bùng lỗ tai, hay quay mòng mòng lắm à nha. Dầu vậy, cũng đừng quá lo lắng, vì có ‘xuyên’ chắc có ‘thủng’.
3 chương Kinh Thánh hôm nay khẳng định một chân lý rành rành thế này: “mọi người đều đã phạm tội” (3: 23).
Nhưng tang chứng, vật chứng đâu? – Có liền: “Vì mặc dù đã biết Đức Chúa Trời, họ vẫn không chịu tôn cao Ngài là Đức Chúa Trời và không tạ ơn Ngài” (1: 21).
Có nghĩa là? – Không thờ Trời và không biết ơn Trời là đại tội, hay chính xác hơn là nguồn cơn của mọi thứ tội lỗi, gian ác khác.
Nhưng làm sao biết chắc được là có Trời mà thờ? Hoặc tại những nơi, hay tại những thời điểm chưa có hội thánh Chúa, chưa có ai rao giảng về Chúa thì người ta biết chi mô mà thờ? – Sao không. “Vì những gì người ta có thể biết về Đức Chúa Trời thì ĐÃ RÕ RÀNG, bởi Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho họ rồi. Những gì về Đức Chúa Trời mà mắt trần không thấy được, tức là quyền năng đời đời và thần tính của Ngài, thì ngay từ buổi sáng thế người ta đã nhận thức rõ ràng KHI QUAN SÁT CÁC TẠO VẬT CỦA NGÀI; cho nên họ không thể bào chữa được.” (1: 19-20)
Nói cách khác, nan đề của con người không phải là họ KHÔNG BIẾT rằng có Đức Chúa Trời, mà là BIẾT NHƯNG TỪ CHỐI THỜ PHƯỢNG NGÀI LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI. Chỉ cần nhìn vào thiên nhiên xung quanh, một người bình thường nếu để tâm suy nghĩ thì cũng có thể nhận ra rằng phải có một Đấng Tạo Hóa; chỉ cần người ấy nhìn vào chính mình hoặc thân thể của mình thì người không thể nào cho rằng con người tự nhiên mà có hay là do tiến hóa từ thú vật mà thành được.
Điều quan trọng trong cách trình bày Phúc Âm của Phao-lô mà mỗi một chúng ta cần phải lưu ý và học hỏi. Đó là ông không tốn thì giờ tranh cãi, dù kiểu “hỏi-đáp” của ông dễ khiến ta ngộ nhận.
Vắn tắt là ri nè: dù ngươi có công nhận hay chối bỏ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời – tức là tin có Chúa hay không có Chúa – thì Chúa vẫn hiện hữu. Chúa có thật còn hơn là ngươi đang có thật; Chúa có thật còn hơn là ông chồng của ngươi, bà vợ của ngươi, đứa con của ngươi, chiếc xe của ngươi, ngôi nhà của ngươi nữa đấy.
Chúa không chỉ có thật, mà Ngài còn là Đấng đang quyết định vận mạng của ngươi đấy. Cơn thịnh nộ của Chúa đang giáng xuống trên ngươi đấy. Ở đó mà tinh tướng đi con.
Nhưng ta có thấy chi mô mà? Này nhé, ta vẫn đang ăn nên làm ra; vẫn thăng quan tiến chức, vẫn vợ đẹp con khôn, vẫn khỏe mạnh hồng hào, … đấy thôi.
Đúng là ngươi “chẳng hiểu gì về điện” rồi. Trước hết, hãy lưu ý từ “Chúa phó”. Người bị Chúa giận sẽ bị Chúa bỏ mặc (a) “cho những tham dục của lòng mình, rơi vào sự nhơ nhuốc để làm nhục thân thể của nhau”, (b) “cho tình dục đáng xấu hổ”, (c) “cho một tâm trí bại hoại để làm những điều bất xứng”. Và sau khi đã ‘tích đủ điểm’ rồi thì người ấy sẽ hưởng trọn sự phán xét của Đức Chúa Trời.
Đầu tiên là bị Chúa định tội, tức là được Chúa để cho tự do, muốn làm gì tùy thích và sau đó, tức phần hai của cơn thịnh nộ là chịu phán xét.
Nhiều người dễ cho rằng, nếu được tự do khỏi Chúa thì quá sướng đi chớ. Bị Chúa giận mà như thế thì còn gì bằng. Ngặt nỗi, ra khỏi Chúa là rời khỏi sự sáng để trôi vào sự tối; lìa khỏi Chúa là bắt đầu tiến trình tuột dốc không phanh. Chính vì đang trong bóng tối, chính vì tuộc dốc không phanh nên người ta đâu có biết rằng mình đang phạm tội, người ta đâu có thể dừng cái việc làm ác lại được.
Bạn có biết tại sao tội ác ngày một gia tăng, đạo đức xã hội ngày một suy đồi, suy đồi gấp ngàn vạn lần so với trước đây tại Việt Nam của chúng ta không? – Câu trả lời từ Kinh Thánh là vì người ta “không chịu tôn cao Chúa là Đức Chúa Trời và không tạ ơn Ngài” đấy.
Giải pháp duy nhất cho tương lai của một dân tộc, một quốc gia là trở lại cùng Đức Chúa Trời, tiếp nhận sự công chính của Ngài thông qua Đức Chúa Giê-xu Christ. Nói cách khác, tiếp nhận Phúc Âm của Đấng Christ là giải pháp cho sự chấn hưng của mỗi một cá nhân, mỗi một dòng tộc hay mỗi một dân tộc. Vì Phúc Âm là quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin (1: 16).
Không phải trong Phúc Âm có quyền năng của Đức Chúa Trời, mà chính Phúc Âm là quyền năng của Đức Chúa Trời. Do đó, hãy noi gương Phao-lô, đừng hổ thẹn trong việc khai phóng quyền năng của Đức Chúa Trời, tức là hãy rao giảng ra cho mọi người được nghe.


Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

ĐƯỜNG VỀ LA-MÃ

Công Vụ 27-28 
La Mã hay Rô-ma là thủ đô, hay trung tâm hành chính của thế giới thời Phao-lô. Và với việc đại sứ Phao-lô đã về đến đấy để giảng, thì sứ vụ truyền giáo mà Đức Chúa Giê-xu nói đến trong Công Vụ 1: 8 coi như đã chính thức được thực hiện “đến cùng trái đất” rồi.
Hôm nay, chúng ta học được gì trong hai chương cuối cùng của sách Công Vụ?
Trước hết, đó là về hoạn nạn, thử thách đối với chúng ta trên bước đường theo Chúa, phục vụ Chúa. Rõ ràng là người hầu việc Chúa cũng phải đối diện với thử thách khó khăn giống như bao nhiêu người khác. Khác biệt duy nhất: được Chúa bảo vệ, được Chúa gìn giữ bình an, hay nói cách khác là được Chúa cứu. Thế thì, đừng vội bù lu bù loa lên rằng, “răng mà Chúa để con ri?” hay “Chúa ở mô?” nhá.
“Các con sẽ có hoạn nạn trong thế gian, nhưng hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian rồi” (Giăng 16: 33). Câu này là của Đức Chúa Giê-xu nói đấy. Thế cho nên, đi theo Chúa, phục vụ Chúa mà gặp rắc rối, khó khăn hay hoạn nạn ấy à? – Thường thôi. Có gì lạ đâu.
Vấn đề không nằm ở chỗ ta có phải gặp hoạn nạn, khó khăn hay không, mà là ở chỗ ta ứng xử như thế nào trong cơn hoạn nạn, khó khăn đấy. Phao-lô thì đã “tin chắc nơi Đức Chúa Trời” nên ông và 275 người đi cùng ông đều được ô-kơ khỏi cơn bão lớn, còn bạn thì sao?
Phao-lô bị hoạn nạn không phải do lỗi của ông, đúng không? Nhiều khi, chúng ta cũng bị vạ lây do những quyết định ‘trời ơi’ của người khác, những người có quyền trên mình vào lúc đó. Trong những trường hợp như vậy thì đâu là lối hành xử cần phải có của một người tin thờ Chúa: – Lên án, nguyền rủa, phê bình, chỉ trích chăng?
Hẳn nhiên là không rồi. Người tin thờ Chúa – giống như Phao-lô – cần phải động viên, khích lệ những người đồng cảnh ngộ như mình và đặc biệt là phải biết dùng lời của Chúa để hướng dẫn họ cách giải quyết vấn đề.
Chính trận cuồng phong Ơ-ra-qui-lôn đã cho Phao-lô có một cơ hội tuyệt vời để giảng về một Đức Chúa Trời quyền năng, thành tín và đầy lòng nhân từ cho gần 300 con người, bao gồm phạm nhân, quân nhân, doanh nhân, … trên chuyến tàu buôn năm ấy. Cũng một thể ấy, những lần giông bão mà ta gặp trong đời, nếu biết sử dụng, thì ta cũng có thể làm cho khối người ‘chộ’ được Đức Chúa Giê-xu đấy nha.
‘Chiện’ thứ hai nằm ở chương 28, xảy ra trên đảo Malta, ngay sau khi ‘phái bộ’ của Phao-lô lên được đất liền. Không phải ‘chiện’ Phao-lô chữa lành, trước hết, cho bố ông tù trưởng khỏi bệnh sốt rét, rồi sau đó là cho tất cả bệnh nhân trên đảo, mà là ‘chiện’ rảy rắn cái rụp của Phao-lô.
Có ai trong chúng ta théc méc là tại sao khi bị con rắn lục quấn vào tay là Phao-lô ngay lập tức rảy cho nó văng ra không nhỉ? Chắc chắn là không rồi, đúng không. Vì đó là phản xạ tự nhiên, rất đời, rất người của bất kỳ ai bị … rắn quấn.
Thế thì, một người khi bị rắn quấn như rứa mà không rảy, chỉ rủ rỉ, rụt rè hay chỉ … rú thôi, thì ta có thể gọi người ấy là bình thường không? Rắn tự nhiên thì chắc là không ai có phản xạ như rứa đâu nhỉ, nhưng đối với con rắn theo nghĩa bóng, tức là ma quỷ, thì tiếc thay, nhiều người tin thờ Chúa lại không có thái độ dứt khoát như thế khi bị nó ‘quấn’ vào mình.
Kết cuộc: chết thảm!
‘Chiện’ cuối cùng: bao giờ cũng vậy, mỗi khi Tin Lành của Đức Chúa Giê-xu được rao giảng, dù người giảng có là ai đi nữa, thì kết cuộc vẫn có thể là: “Một số người chịu thuyết phục, còn những kẻ khác không chịu tin.” (28: 24). Thế thì, anh chị em ơi đừng vội nãn lòng, bỏ cuộc vì cớ một số người “không chịu tin” điều ta rao giảng.
Chúng ta được kêu gọi để “giảng Tin Lành”, để “làm nhân chứng của Chúa Giê-xu phục sinh”, chớ chúng ta không được kêu gọi để làm hay để thuyết phục người ta tin. Làm hay thuyết phục người khác tin nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa là công việc của Đức Thánh Linh. Đừng có ‘đá nhầm sân’ nha.
Hãy xem câu nói cuối cùng của Phao-lô như là một lời hứa, một lời công bố đức tin cho sứ vụ truyền giáo của chính cá nhân mình và của Hội Thánh Chúa nói chung: “Vậy, hãy biết rằng sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời đã được truyền bá cho các dân ngoại và họ sẽ lắng nghe” (28: 28)
Vì tin quyết rằng, người ngoại “sẽ lắng nghe” nên suốt hai năm chờ đến lượt để “ứng hầu trước Sê-sa” – vị vua La-mã, tức người đứng đầu toàn thế giới lúc bấy giờ – Phao-lô đã “tiếp đón mọi người đến thăm mình, giảng về vương quốc Đức Chúa Trời, và dạy về Chúa là Đức Chúa Jêsus Christ một cách tự do” (28: 30-31). Thật không có một gương mẫu nào tuyệt vời hơn Phao-lô trong việc vâng lời Chúa rao giảng Tin Lành trong mọi hoàn cảnh.
Sách Công Vụ không kết thúc ở chương 28. Phần tiếp theo của nó vẫn đang được viết bởi cuộc đời tin kính của những người nam, người nữ của Đức Chúa Trời.
Bạn có biết rằng bạn đã được chọn để là một người trong số đó không?


Thứ Ba, 10 tháng 11, 2015

BA BẬN CHƯA XONG

Công Vụ 24-26 
Ba bận ở đây là ba lần Phao-lô phải hầu tòa nhưng rồi rốt cuộc ông vẫn phải về La-mã, vì xử mãi chả xong. Thật ra là vì áp lực chính trị nên những kẻ cầm quyền không chịu xét xử vụ này chớ không phải là họ không thể. Và thế là người của Chúa phải bị cảnh … “lưu kho” tại Sê-sa-rê đến hơn 2 năm.
Hơn 2 năm ngồi tù vô cớ đối với một diễn giả thường xuyên đi lại như Phao-lô, đúng là đau … hết chỗ nói. Đức Chúa Trời ở đâu mà lại để đầy tớ Chúa phải bị trói chân, trói tay lâu như thế cơ chứ? Thì Chúa ở ngay đó chớ đâu. Có khi nào Chúa bỏ bác í một mình đâu. Chúa chẳng hứa như thế còn gì (Hêb. 13:5b).
Ngày hôm qua, chúng ta đã nói đến việc Chúa đem Phao-lô vào tù là để ông “săn cá mập”. Vì chỉ có tại chốn công đường thì người của Chúa mới có cơ hội tiếp cận với thành phần quan chức để rao giảng về Phúc Âm cho họ mà thôi. Đó là “phương cách giảng Tin Lành cho những cán bộ cao cấp” mà Đức Chúa Trời thiết kế riêng cho Phao-lô đấy. Chúa đã báo trước cho bác í … “từ thuở bơ vơ mới về” cơ (9: 16).
Trong phần Kinh Thánh hôm nay, có 4 nhân vật cộm cán được chọn để nghe Phao-lô công khai rao giảng Tin Lành. Đó là tổng trấn Phê-lít, tổng trấn Phê-tu và vợ chồng vua Hê-rốt Acripa. Hẵn nhiên, khán thính giả của những ‘buổi nhóm’ này thì đông … dã man luôn, nhưng vì sự có mặt của mấy đại nhân kia nên họ không được quyền lên hình mà thôi. He he.
Hôm nay, chúng ta sẽ dành trọn thì giờ để ngâm kíu xì-tai bài giảng Phúc Âm của Phao-lô.
Cũng như lúc “giảng” cho những lãnh đạo tôn giáo trong chương 22, hôm nay, khi giảng cho tổng trấn Phê-tu và vua Hê-rốt Acripa, Phao-lô đã sử dụng rất chi là nhuần nhuyễn phương cách “Lời Chứng Cá Nhân” hay “Nhật Ký Đời Tôi” của chính mình.
Đầu tiên, bác í đề cập đến “tình trạng bản thân” trước khi tin thờ Chúa Giê-xu (26: 4-11). Tiếp theo, bác í trình bày lý do hay duyên cớ nào khiến mình tin nhận Chúa Giê-xu (26: 12-18). Cuối cùng, bác í mí giới thiệu “tình trạng bản thân” sau khi tin nhận Chúa Giê-xu (26: 19-23).
Nghe này, phần đông người ta luôn thích … hóng hớt chuyện của người khác, nhất là người châu Á. Trong khi đó, mỗi người đều có một câu chuyện về cuộc đời của mình. Có những câu chuyện đem đến sự hủy diệt, sự bế tắc, nhưng cũng có những câu chuyện đem đến sự biến đổi. Một cuộc đời đã gặp được Chúa Giê-xu là loại câu chuyện đem đến sự biến đổi như thế – một sự biến đổi toàn diện!
Hãy sử dụng câu chuyện cuộc đời của bạn – một cuộc đời được thay đổi bởi Chúa Giê-xu – để chạm đến nhiều cuộc đời khác. Nói cách khác, hãy cho Chúa mượn câu chuyện cuộc đời của bạn để Ngài có thể bước vào cuộc đời của một người khác. Người khác ấy có thể là người thân của bạn, bạn hữu hay đồng nghiệp của bạn và thậm chí người khác ấy có thể là kẻ đang tìm cách ngăn trở, chống đối, hay bắt bớ bạn như Phao-lô đã từng.
Khi có dịp tiện, hãy … ‘nhỡ mồm’ thố lộ “Nhật Ký Đời Ta” cho người khác biết. Rằng thì là … trước kia mình là người như thế nào, thái độ đối với Đạo Chúa ra làm sao. Tùy theo đối tượng người nghe (nghiện, nợ nần, bệnh tật, hôn nhân tan vỡ, buồn khổ, …) thì ta sẽ chọn những chi tiết nào cho phù hợp mà thôi, chớ không phải “khai” ra tất tần tật.
Chẳng hạn, vì những người đang nghe Phao-lô “giảng” là những kẻ đang bắt bớ, bách hại Đạo Chúa nên ông chỉ đề cập đến những “chiến tích” đầy máu me ngày trước của mình. Điều này sẽ khiến cho những người nghe Phao-lô dễ dàng nhận thấy rằng hiện tại của họ bàng bạc trong quá khứ của ông. Rằng họ đang làm đúng những gì mà Phao-lô đã từng.
Đến đây, trong trí người nghe sẽ xuất hiện câu hỏi: Tại sao một người đã từng như thế, chống phá Đạo Chúa như thế giờ lại đi tin vào Đạo đó, lại còn đi “quảng bá” cho Đạo đó?
Thế là bác í sẽ … nhân tiện trả lời “vì sao tôi tin”. Đơn giản rứa đó.
Thật ra, chuyện “dzì sao ngươi tin” không phải là điều người ta muốn nghe đâu. Điều mà người ta quan tâm là “rồi sau đó thì sao?” hay “chuyện gì xảy ra sau khi nhà ngươi tin Chúa?” Đây mới thật sự là phần chính yếu của một “Lời Chứng Cá Nhân”.
Bạn được thay đổi ra sao (được lành bệnh, hết buồn khổ, hết nghiện ngập, chí thú làm ăn, vợ chồng hạnh phúc, …) sau khi tin nhận Chúa mới là điều chính yếu đem lại sự đụng chạm và thuyết phục được người nghe.
Hãy dành thì giờ VIẾT ra giấy Câu Chuyện Cuộc Đời hay Lời Chứng Cá Nhân của bạn, cách đầy đủ theo bố cục gồm 3 phần như thế. Nếu cần, hãy nhờ ai đó có khả năng, chỉnh sửa câu văn và ngữ pháp cho gãy gọn, khúc chiết. Sau đó, hãy cố gắng đọc đi đọc lại, càng thuộc lòng càng tốt. Và rồi xin Chúa cho có cơ hội, cùng sự can đảm để xướng lên giai điệu “Nhật Ký Đời Tôi” của mình cho những người được Chúa chọn cùng nghe.
Điều cuối cùng cần ghi nhớ khi học theo gương chứng đạo của Phao-lô là không bao giờ được bỏ qua phần kêu gọi tin nhận Chúa. Tin hay không là chuyện của người ta, nhưng với tư cách là một người rao giảng Phúc Âm thì chúng ta phải luôn mời gọi người nghe tiếp nhận Đức Giê-xu làm Cứu Chúa (26: 27-29). Thậm chí, mời gọi kể cả khi chưa “giảng” xong!
Hãy mạnh dạn mời gọi người ta “ăn năn, quay về Đức Chúa Trời và làm công việc xứng hợp với sự ăn năn” (26: 20). Câu chuyện cuộc đời của bạn có thể “mở mắt họ, dìu dắt họ từ tối tăm quay về ánh sáng, từ quyền lực của Sa-tan trở lại với Đức Chúa Trời, và nhờ tin Chúa họ được tha tội và hưởng phần cơ nghiệp với các thánh đồ” đấy (26: 18).
Bạn có sẵn lòng theo gương đại sứ đồ Phao-lô, dùng câu chuyện cuộc đời mình để ban phước cho những người chưa biết Chúa ở xung quanh không?